SƠ LƯỢC VỀ QUÁ TRÌNH PHÁT
TRIỂN
CỦA BÙI TỘC VĨNH TRINH
Hòa mình trong cuộc Nam tiến
vĩ đại của Dân tộc, vào cuối thế kỷ
XV, dưới đời vua Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng
Đức (1470-1497), Tiền nhân của Bùi Tộc chúng ta
đã di cư từ Hoan Châu (Nghệ An) và cùng Tiền nhân của
Đào tộc vào khai phá và sáng lập ra xã hiệu Bình
Khương tức là làng Vĩnh Trinh, tỉnh Quảng Nam
ngày nay.
Ngài Tiền Hiền,
Đệ Nhất thế tổ, BÙI Đại lang húy TẤN
DIÊN và Ngài Đệ Nhị thế tổ Cai phủ Khánh
Sơn hầu BÙI Quý công húy TẤN TRƯỜNG đã cùng
Quý Ngài đồng thời của các thôn tộc khác khai khẩn
và phân ranh giới của vùng Lục thôn tức là 6 thôn: Lệ
Trạch, Vĩnh Trinh, Thanh Châu, Cổ Tháp, Cù Bàn và An Lâm sau
này.
Ngài Đệ
Nhị thế tổ cũng đã tham gia đắc lực
vào việc cấu tạo Đình Châu, đình công cộng của
Lục thôn. (1)
Sau Ngài Đệ Tam thế
tổ húy BÙI TẤN MIÊN - từng tiếp tục sự nghiệp
của hai Ngài trên - Phổ hệ còn ghi lại một số
vị như các Ngài Xá sai ty Lữ tài nam Bùi Quý công – có
trưởng nam là Ngài BÙI TẤN QUÝ -, Ứng xá ty BÙI TẤN
THẮNG, Thủ khoán BÙI TẤN MẪN.
Từ Ngài Đệ Thập
thế tổ húy BÙI TẤN HIỆU và 3 Ngài Đệ Thập
nhất thế tổ húy: BÙI TẤN TRỪNG, BÙI VĂN TOẢN,
BÙI TẤN CAO, thì sự sinh hoạt đã điều hòa và
bắt đầu phát triển.
Đến đời các
Ngài Đệ Thập nhị thế tổ húy BÙI VĂN BẢNG
(2), BÙI VĂN CANG, BÙI VĂN LỘC, BÙI TẤN QUỲNH, BÙI
TẤN NGA, thì cơ nghiệp thêm phần vững mạnh.
Sang Đệ Thập tam
thế, với các Ngài BÙI VĂN KIẾT, Tú tài BÙI VĂN THỈ
(3), BÙI VĂN VIÊN, BÙI VĂN CHÁP, BÙI VĂN CHUA, BÙI ĐẠT,
BÙI VĂN THÔNG, BÙI VĂN DOÃN, thì sự phân định làm 5
Phái đã được hình thành (4).
Đến Đệ Thập
tứ thế, chúng ta có các Ngài BÙI THÂN (Ô. Quản Nghi – (5)),
BÙI VĂN PHÁN (Ô. Thủ Quỵ), BÙI VĂN LẬP (Ô. Bá
Đinh), BÙI HOẰNG NGHỊ (Ô. Bá Soạn), BÙI VĂN HẢO
(Ô. Bà Hành), BÙI VĂN HỘI (Ô. Bá Ứng), BÙI VĂN CHUẨN
(Ô. Hương Hướng), BÙI VĂN XƯỚNG (Ô. Trùm
Độ), BÙI VĂN TIẾT (Ô. Thủ Sáu), BÙI VĂN NGHĨA
(Ô. Hương Lý), BÙI VĂN MẸO (Ô. Xã Thiều), BÙI
VĂN ĐÁNG (Ô. Trùm Đắng), BÙI VĂN THANH (Ô. Thủ
Dụng), BÙI HỢI (Ô. Trùm Hợi), BÙI VĂN QUYỀN, BÙI
VĂN LIÊU, BÙI VĂN CHIẾN, BÙI VĂN PHÁT, BÙI DIỆM và
BÙI VĂN HỀ (Ô. Trùm Thuần). Ngài BÙI THÂN là một ngôi
sao sáng của Tộc được nhiều người
biết đến không những vì sản nghiệp đồ
sộ mà còn vì các công trình xã hội và từ thiện của
Ngài. Từ Đệ Thập tứ thế, Bùi gia đã nổi
tiếng “của
nhiều người đông”, các huyện trong tỉnh
đều biết.
Đến Đệ Thập
ngũ thế, việc quy tụ ở Vĩnh Trinh không còn
thích hợp với nhu cầu phát triển, nên nhiều vị
đã rời nguyên quán sang lập nghiệp tại các phủ
huyện khác như: Điện Bàn, Đại Lộc, Quế
Sơn, v.v… để quản trị và khuếch
trương các cơ sở mà Ngài Bùi Thân đã gầy dựng
được.
Đặc biệt trong
Đệ Thập ngũ thế, có Ô. BÙI TÚC (Ô. Bá Huynh) là vị
tiêu biểu nhất cho nếp sống Nho phong và 2 ông BÙI HỮU
CHÍ (Ô. Huyện Chí) và BÙI GIÁC (Ô. Tú Ba) đã đổ Cử
nhân và Tú tài Hán học.
“Một cây
cù mộc, một sân quế hòe”. Đến
Đệ Thập lục, Thập nhất, Thập bát, số
anh chị em con cháu nội ngoại trong 5 Phái lên đến
mấy trăm người. Lúc này nền
Cựu học bắt đầu nhường chỗ cho
Tân học. Để theo kịp trào lưu học thuật
mới du nhập từ Tây phương, nhiều anh em, con
cháu trong các thế hệ này đã vượt qua các bậc
Tiểu học và Trung học. Một số đã có những
đóng góp đáng kể trong lãnh vực thi văn, báo chí (6)
(như Quý ông Bùi Thế Mỹ, Bùi Giáng…). Một
số đã tiếp tục Đại học hoặc xuất
dương du học (7) (Bùi Kiến Tín tốt nghiệp tại
Pháp năm 1940). Từ khoảng vài ba mươi
năm gần đây, một số khá đông thuộc các lớp
trẻ ở trong cũng như ngoài nước đã đạt
được các cấp bằng chuyên môn thuộc mọi
lĩnh vực như: Y học, Dương học, Khoa học,
Kỹ thuật, Giáo dục, Kinh tế, Thương mại
v.v…
Song song với
phương diện văn hóa, lãnh vực võ nghệ trước
đây cũng được một số bà con hâm mộ.
Và phần nhiều những người gia công luyện tập
đều khá nổi tiếng (8) (như Quý ông Bùi Cẩn,
Bùi Lãm thuộc thế thứ 15 và Ô. Bùi Hý thế thứ 16
vô địch tỉnh Quảng Nam nhiều năm liền).
Nhằm mục
đích phát huy tinh thần Gia Tộc, một hội
tương tế lấy tên Bùi gia Vĩnh thế đã
được thành lập từ năm 1968.
Để bảo tồn
di tích của Tiền nhân – sau nhiều năm chinh chiến
– vào những dịp Thanh minh và Đông chí các năm Đ.
Mão (1987), M. Thìn (1988), bà con, con cháu đã lo trùng tu lại phần
mộ Tổ tiên, từ mộ Ngài Tiền Hiền –
đương được tái trùng tu quy mô vào dịp
Đông chí vừa rồi - đến mộ các Ngài Đệ
Thập tứ thế thuộc đủ các Chi, Phái.
Cây có cội,
nước có nguồn. Để có nơi
hương khói và cũng để có chỗ họp mặt
trong những ngày kỵ lạp, bà con đã cùng nhau tái thiết
một cách mỹ quan, kiên cố Từ đường của
Tộc trên nền Tiền đường của Nhà thờ
Tiền Hiền ngày trước và chi nhánh Từ đường
tại xã Vĩnh Lộc, huyện Bình Chánh, TP. HCM.
Nhờ phúc ấm của
Tiền nhân, con cháu 5 Phái ngày càng đông đúc, chi Chi, Nhánh đã phát triển đến thế thứ
19 hay 20. Hiện nay một số khá
đông đã đi học hành và lập nghiệp ở
nước ngoài. Chúng ta có thể nói là bất cứ ở
đô thị lớn nào trong Năm châu, hễ nơi đâu
có in dấu chân người Việt Nam, thì hầu hết
các nơi đó đều có bóng dáng con cháu nội ngoại
của Bùi Tộc. Và dù ở nguyên quán hay tha hương, tất
cả đều được an khương, thịnh
đạt.
Thật là:
“Còn nhiều
hưởng thụ về lâu,
Duyên xưa đầy
đặn, phúc sau dồi dào”
Ghi chú:
(1) Ngay trong bài minh trên bia đá dựng vào tháng 10 năm Cảnh
Hưng thứ 15 (D.L. 1754) để kỷ niệm công cuộc
trùng tu Đình Châu – đình Lục thôn – có đoạn nguyên
văn như sau:
“Thiết
duy: Bổn châu tiền đợi Cai phủ Khánh sơn hầu
Bùi Quý công cấu tạo công đình. Địa linh nhân kiệt,
đại chấn châu lý chi phong, cận duyệt viễn
lai, hội vi nhật trung chi thị,
trách trách hưu thanh, chí kim vị mẫn giã. Nhiên nhi mao từ thảo sáng, tuế viễn niên
yên, suy chuyên vị miễn đồi hoại, tắc tuy di
chỉ thượng tồn, nhi điện vũ đại
bất như sơ. Tư dục tái khoách tiền
quy, dĩ chiêu thần đức. Đệ niệm Bổn
châu lịch niên đồ thán, vật lực duy nan. An đắc nhất như Bùi Quý công giả,
tái vi thạnh cử tai !...
Qua đoạn
bi ký này, ta có thể hiểu đại cương là:
“Nguyên châu
chúng ta ngày trước có Ngài Cai phủ
Khánh sơn hầu Bùi Quý công cấu tạo đình sở. Đất linh, người giỏi, tiếng
đồn vang khắp châu thôn. Người
gần lấy làm hài lòng, kẻ xa rủ nhau kéo đến,
họp thành chợ đông vào lúc ban trưa, đến nay
chưa ai quên vậy. Nhưng đình
tranh dựng đã lâu năm, rui mè không khỏi mục nát; nền
móng còn đấy, nhưng chánh điện không được
như xưa. Nay muốn trùng tu lại
để phát huy công đức của Thần linh.
Song mấy năm gần đây, châu chúng ta làm ăn khó khăn, vật lực khan hiếm.
Giá được một vị hảo tâm như Ngài Bùi Quý
công ngày trước thì quý hóa và đáng được ca ngợi
biết bao!”.
(2) Ngài Bùi Văn Bảng
tục gọi Ông Mả Đá, vì cả nấm mộ Ngài
là một tảng đá lớn, nền và thành mộ cũng
lát và xây toàn bằng đá. Tục truyền khi Ngài qua đời,
các con cháu tẫn liệm rồi quàn quan tài trong nhà gần
đến đoạn tang. Những nhà đồ,
bàn lược, bàn triệu chạm trổ công phu, sơn phết
tỉ mỉ dùng trong tang lễ Ngài đều được
lưu trữ tại Nhà thờ Tứ thân ở An Lâm.
Chẳng may những công trình kiến trúc đó đều bị
quân Pháp phá hủy trong thời kỳ Nghĩa hội.
(3) Ngài Bùi Văn Thỉ
thi đỗ Tú tài 2 lần (khoa Q. Mão 1843 và khoa C. Tuất
1850) thường được gọi là ông Tú Lưỡng
khoa, phát khoa vùng Lục thôn lúc bấy giờ.
(4) Trước kia, tộc
có 2 Phái: Ngài Bùi Tấn Trừng (Phái I) và Ngài Bùi Văn Toản
(Phái II), nhưng vì phát triển đông, nên từ thế thứ
13 Tộc chia làm 5 Phái (từ Phái I đến Phái V).
(5) Mồ côi cha mẹ
rất sớm, Ngài Bùi Thân lớn lên trong sự bảo trợ
của vị chú ruột là Ngài Túi tài Bùi Văn Thỉ và của
vị anh rể là Ngài Cử nhân Phan Văn Diên. Mặc dù gặp nghịch cảnh, Ngài vẫn luôn
luôn phấn đấu, cố gắng tự lực, tự
cường. Ngài đã nêu cao gương tiến thủ
và chí kinh doanh cho con cháu. Ngài được
người ta biết và nhắc đến nhiều, không
những vì sản nghiệp đồ sộ mà còn vì những
công trình xã hội và từ thiện của Ngài.
(6) Ô. Bùi Thế Mỹ
là một nhà ngôn luận cang cường, lỗi lạc
vang tiếng cả Trung Nam Bắc vào đầu thế kỷ
20 này.
Ô. Bùi Giáng viết khá nhiều. Thơ, văn
của Ông chắc sẽ làm tốn không ít giấy mực của
người đời sau.
(7) Ô. Bùi
Kiến Tín là người đầu tiên ở Duy Xuyên tốt
nghiệp Y khoa Bác sĩ tại Pháp năm 1940.
(8) Noi gương các vị
ở Đệ Thập Ngũ thế như các Ông Bùi Cẩn
(Ô. Cai Cẩn), Bùi Lãm (Ô. Chánh Tùng) là những võ sanh nổi tiếng
đương thời ở Lục thôn, võ sĩ Bùi Hý (thế
thứ 16) đã đoạt giải vô địch võ Việt
Nam vào dịp Hội chợ năm 1937 ở Hội An và
đã giữ vững chức vô địch ấy tại
Quảng Nam suốt mấy năm liền.
Mộ Ngài BÙI VĂN BẢNG, Đệ Thập Nhị
Thế Tổ (trước
đợt trùng tu 1987)
Niềm quyết tâm của con cháu NỘI NGOẠI TỘC
BÙI: “Trùng tu Mồ Mả và tái thiết TỪ ĐƯỜNG”
trong Lễ Kỵ Ngài SƠ TỔ PHÁI NHẤT (năm
Đinh Mão 1987)
LỊCH SỬ KIẾN TẠO
& TÁI THIẾT
TỪ
ĐƯỜNG BÙI TỘC Ở VĨNH TRINH
VÀ
XÂY DỰNG CHI NHÁNH TỪ ĐƯỜNG
TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
----------0O0-------------
Ngày
trước, khi Tộc ta mới có hai phái, thì:
-
Phái Ngài BÙI VĂN BẢNG (Ngài Mã
Đá) có nhà thờ Phái gọi là “NHÀ THỜ TỨ THÂN”
ở xứ Bàu Dam, thôn An Lâm, và
-
Phái Ngài BÙI VĂN VIÊN có nhà thờ
Phái cũng tại xứ Bàu Dam.
Sau đó,
do sự phát triển, Tộc ta được chia làm 5
phái. Ngài BÙI THÂN (Ngài Quản Nghi) – với sự phụ
tá của hai vị con lớn của Ngài là Ông BÙI TÚC
(Ông Bá Huynh) và Ông BÙI DUY (Ông Nghè Trình) – đã tự nguyện
lạc cúng tư điền và phần lớn kinh phí, cùng
bà con 5 Phái cấu tạo Từ đường cho toàn Tộc
– thường được gọi là Nhà Thờ Tiền
Hiền tộc Bùi – tại một khu đất trên 2000 m2,
tọa lạc tại xứ Đồng Ngạch, thôn Vĩnh
Trinh (nơi tọa lạc Từ đường hiện
nay).
Từ đường được xây kiên cố,
công phu bằng đá thước và các loại danh mộc,
gồm Tiền đường, Hậu tẩm, Hữu vu,
Tả vu. Khởi công năm Nhâm Tuất
(1922) và tổ chức Lễ Lạc thành năm Quý Hợi
(1923).
Tiếc
thay, Từ đường bị chiến tranh tàn phá nặng
nề, chỉ còn lại dấu vết là Chánh tẩm và
Bình phong đã dày dạn phong sương và một cây trụ
biểu bên tả, nhưng cũng đã nghiên lệch không
còn dùng được.
Ngày
8.9.1989, Bà con toàn Tộc quyết tâm tái thiết lại Từ
đường trên nền móng cũ với cách kiến
trúc 3 gian, 2 chái phong quang như hiện nay tại Vĩnh
Trinh, với lịch trình như sau:
06.3.91
(21.01.Tân Mùi) : Cử Ban tái thiết
27.03.91 : Khởi công
03.05.91 : Thượng lương
21.07.91 : Hoàn tất
23.09.91 : Lễ An vị
20.02.92
(17.01.Nhâm Thân) :
Lễ Khánh thành
Thật là:
“Nền
xưa còn đó, dấu cũ Tiền nhân,
Đền mới giờ đây,
châu về Hợp phố”
Với đà tiến triển, chi nhánh Từ
đường đã được xây dựng tại Ấp
I, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh với
lịch trình như sau:
13.04.2000
(08.03.Canh Thìn) : Cử Ban vận động và
Ban
xây dựng
16.04.2000 : Chọn mua địa điểm
20.12.2000 : Lễ động thổ
26.04.2001 : Khởi công
31.12.2001 : Hoàn tất phần cơ bản
03.01.2003 : Các công đoạn sau cùng
và trang trí bên trong
06.04.2003 (05.03. Quý Mùi) : Lễ
An vị và Khánh thành
Việc
xây dựng Chi nhánh Từ đường tại TP. Hồ
Chí Minh nói lên sự phát triển thịnh mậu của Tộc
ta:
“Quả
tốt nhân lành, trước Hoan quận, sau Quảng Nam, gốc
vững cành xinh xây Tộc Phái
Duyên hay
cảnh đẹp, trung Vĩnh Trinh, nam Vĩnh Lộc, mây
hiền nước lặng giữ Từ đường”
Từ
đường ở Vĩnh Trinh và Chi nhánh Từ
đường ở TP. Hồ Chí Minh kết tinh tâm nguyện,
công sức của Bà con và là gia sản thiêng liêng của toàn
Tộc. Tất cả Bà con nội ngoại Tộc Bùi Vĩnh
Trinh chúng ta đều có trách nhiệm chăm sóc, giữ
gìn, tôn tạo để Tự sở được mãi mãi
trang nghiêm và kiên cố.
|
Ban
Xây dựng Chi nhánh Từ đường
tại TP. Hồ Chí Minh
|
----------0O0-------------
***
Sông
Thu một dãi uốn quanh, (1)
Đôi bờ dâu bắp soi hình mướt
tươi.
Đàng
xa cao ngất lưng trời !
Hòn Tàu sừng sững muôn đời chở che.
(2)
Non
sông thanh tú đủ bề,
Nước
nguồn cây cội, vọng về Tiền nhân. (3)
BÙI
GIA gốc ở NGHỆ AN, (4)
HOAN CHÂU tên cũ, mộ phần còn ghi.
Vào
đời HỒNG ĐỨC, HẬU LÊ, (5)
Rời
quê, THỈ TỔ quản gì gian truân.
Tôn
xưng ngài bằng Đại lang, (6)
TẤN
DIÊN tên húy, lên đường cùng con.
Kể
chi vượt suối trèo non,
Màn
trời chiếu đất hao mòn xiết bao
!
Sông
Gianh rộng, Hải Vân cao,
Đà mềm chân cứng lần vào QUẢNG NAM.
Bến
hiền thuyền đậu quyết tâm,
THĂNG
BA, LA THÁP khéo cầm chân ai. (7)
Lần
thâu tháng rộng ngày dài,
Cùng
chư Tộc khác ra tài khẩn hoang.
Sáu
thôn phân định lân bàng,
VĨNH
TRINH, LỆ TRẠCH, CÙ BÀN tiếp sau.
AN
LÂM, CỔ THÁP, THANH CHÂU,
Lục
thôn tự sở bắt đầu tạo chung.
(8)
Đống lương
lạc cúng hết lòng,
KHÁNH
SƠN CAI PHỦ nêu công bia đình (9)
Ngài
TAM THẾ TỔ phiên mình, (10)
Cần
lao theo nếp, gia thanh giữ lề.
Tiếc
thay mấy đợt loạn ly,
Trường
biên Gia phả thiếu đi mấy đời
!
Song
từ TIÊN TỔ THỨ MƯỜI, (11)
Một
cây cù mộc, xinh tươi nhiều chồi.
Thiên
thời, nhân lực đi đôi,
Bộn
bề mùa trúng, lần hồi người đông.
Trong
hàng Tiên tổ Quý công,
Ngài BÙI VĂN BẢNG tức Ông CAI ĐÌNH.
Ông
MẢ ĐÁ thêm tục danh, (12)
Vì
chưng tảng đá tạo thành
nấm y.
Tương
truyền tang lễ xưa kia,
Quan tài quàn đến gần kỳ đoạn
tang.
Nhà
đồ, Bàn triệu đẹp, sang,
Chạm
sơn tỉ mỉ, trang hoàng công phu. (13)
Thoi
đưa mãn Hạ sang Thu,
Ngày
càng phát triển đều do phúc nhà.
Nhiều
cành một cội sinh ra,
Hình thành năm Phái cũng là từ đây.
(14)
Trong
vùng: Học giỏi, văn hay,
PHÁI
NHÌ SƠ TỔ, tiếng Thầy Lưỡng khoa. (15)
Rỡ
ràng trên gấm thêm hoa, (16)
Người
người mến nể, nhà nhà ngợi khen.
Đến
đời MƯỜI BỐN vai trên, (17)
Một
ngôi sao lại chiếu lên sáng ngời.
Mồ
côi cha mẹ ấu thời,
Tế
huynh thúc phụ thay lời bảo ban (18)
Mặc
dù nghịch cảnh dở dang,
Tạo xây cơ nghiệp không hàng khó khăn.
Ấy
Ngài Sơ tổ BÙI THÂN,
Tức là ÔNG QUẢN xa gần biết danh.
Lạc
quyên, chẩn thại nhiệt tình, (19)
“Lương gia”, “Phù hộ” rành rành tuyên
dương. (20)
Cùng
hàng huynh đệ đồng đường, (21)
Cự nông trí thức chi nhường cho ai.
Đều
là Bá hộ các Ngài,
Đầu
Chi NHỊ PHÁI một hai rõ ràng.
Còn
ba Phái khác nhìn sang,
Nhiều
Ngài đảm trách Lý, Hương giúp đời.
Nông
tang lo liệu kịp thời,
Hai sương một nắng không dời
nghiệp xưa.
Việc
làm nào kể sớm trưa,
Sáng
cày Rộc Sách, chiều bừa Chà Rang
Cần
chuyên khỏi phải vội vàng,
Làm
xong Gò Thị, lại sang Bàu Cùng.
Cầu
Cao, Bàn Thát liên vùng,
Đồng
Nam, Đồng Ngạch cùng trong thôn nhà.
Như
chim lơ lửng lượn xa,
Vi
vu tiếng gió, ngân nga sáo diều.
Ác
tà bóng xế đìu hiu,
Nghêu ngao mục tử dắt dìu đàn trâu.
Trăng trong gió mát canh thâu.
Tiếng hò thôn nữ bên cầu vọng
đưa.
Đời MƯỜI LĂM lúc bấy giờ.
Một phần MƯỜI SÁU cũng thừa
dịp hay.
Chuyển
sang các huyện đó đây,
Kinh doanh quản trị giúp rày cha ông. (22)
Thư,
Kinh ra sức làu thông, (23)
Túc
Nho, Tú, Cử gia phong kế truyền. (24)
Gió
Âu, mưa Mỹ đến phiên ! (25)
Chương trình Tân học dùng liền mọi
nơi.
Bà
con theo đuổi kịp thời,
Tiểu,
Trung, Đại học cùng người đua tranh.
Văn
chương, khoa học đủ ngành,
Kỹ
sư, Tiến sĩ thành danh dồi dào.
Giao
lưu càng dễ bao nhiêu !
Xuất dương lập nghiệp càng
nhiều nước thôi.
Đến
nay Tộc được mấy đời ?
Có Chi đã tới hai mươi đời
rồi.
Dù cho cách trở xa khơi.
Lòng
bà con vẫn không rời cố hương.
Kẻ
đi, người ở vấn vương,
Từ
đường tái thiết vẫn thường chung lo.
Vườn
xưa, hướng cũ trùng tu,
Ba gian hai chái quy mô huy hoàng.
Thềm
cao, hiên rộng nghiêm trang,
Ruộng
đồng bao bọc, con mương chạy dài.
Châu
về Hợp Phố không sai, (26)
Nguyện lành trời đã liệu bài giúp xong.
(27)
Mộ
phần trang chỉnh thi công,
Bia
cao thành rộng, nhìn chung hài hòa. (28)
Bổ
sung Phổ hệ cùng là
Khánh thành Kỷ yếu đưa ra ấn hành.
Song song công tác tâm linh.
Tiểu
ban Khuyến học chương trình thực thi …
Nay
nhân Giỗ Tổ thường kỳ,
XUÂN THU HIỆP TẾ hội về cháu con.
Dâng
lên một tấm lòng son,
Từ
đường chi nhánh vuông tròn từ đây
Cúi
xin Ơn Tổ cao dày,
Độ
cho con cháu từ rày, khắp nơi.
Gia
phong mãi được sáng ngời,
BÙI MÔN NĂM PHÁI đời đời thịnh
khang.
PHỤ CHÚ
(1)
Sông Thu: Sông Thu Bồn, còn gọi là Sài Giang, con sông tiêu
biểu của đất Quảng.
(2)
Hòn tàu: Tào sơn, hòn Núi Chúa, núi Quắp.
(3)
Nước nguồn cây cội: Cây có cội, nước có
nguồn. Do câu: Mộc hữu bổn, thủy hữu
nguyên.
(4)
Nghệ An, Hoan Châu: Tiền nhân BÙI
TỘC đã di cư từ Hoan Châu (Nghệ An) vào khai phá và
sáng lập ra xã hiệu Bình Khương tức thôn Vĩnh
Trinh, Quảng Nam
ngày nay (Phổ hệ trang 13).
(5)
Hồng Đức, Hậu Lê: Theo Quốc sử, đoàn
quân nam tiến của triều Lê phát xuất từ thế
kỷ XV, dưới đời vua Lê Thánh Tôn, niên hiệu
Hồng Đức (Phổ hệ trang 13).
(6)
Đại Lang, Tấn Diên: Trong bản Cung lục Gia
phả của Ông Tú Tài BÙI GIÁC, có câu: Thỉ Tổ Bùi
Đại Lang húy TẤN DIÊN (Phổ hệ trang 667-669).
(7)
Thăng Ba, La Tháp: Bài minh bia Đình Châu bắt đầu
bằng câu: “Thăng Ba Phủ, Ba Châu Thuộc, La Tháp Châu
Quan Quân Đại Tiểu Đẳng Trùng Tu Công Đình Bi
Ký” (Phổ hệ trang 651-653).
(8)
Lục thôn tự sở bắt đầu tạo chung: Lục thôn làm chung công đình –
thường gọi là Đình Châu – đình chung của 6 thôn.
(9)
Khánh sơn CAI PHỦ nêu công bia đình: Ngài CAI Phủ Khánh
Sơn Hầu Bùi Quý công – húy TẤN TRƯỜNG Đệ
Nhị thế tổ, đã tham gia đắc lực vào
việc cấu tạo công đình và bia Đình Châu dựng
năm Cảnh Hưng thứ 15 (G. Tuất, 1754) đã tán
dương công đức của ngài (Phổ hệ trang
651-653).
(10)
Ngài Tam Thế tổ: Ngài Bùi Phủ quân húy TẤN MIÊN
(Phổ hệ trang 29).
(11)
Tiên tổ thứ mười: Ngài Đệ Thập
thế tổ húy danh BÙI TẤN HIỆU.
(12)
Ông Mã Đá – Ngài BÙI VĂN BẢNG: Một trong các vị
Đệ thập nhị thế tổ – thường
được gọi Ông Mã Đá, vì nấm mộ Ngài –
rất đặc biệt – là một khối đá nguyên.
(13)
Chạm sơn …… công phu: Tục truyền nhà đồ, bàn
lược, bàn triệu … dùng trong tang lễ của Ngài
đều được chạm trổ tỉ mỉ,
sơn phết công phu (Phổ hệ trang 15).
(14)
Hình thành năm Phái: Tộc phân thành 5 Phái từ Thế
thứ 13. Xin xem sơ đồ các Thế
thứ (Phổ hệ trang 31).
(15)
Lưỡng khoa: Ngài BÙI VĂN THỈ, Sơ
tổ Phái II, đỗ 2 lần Tú tài: Khoa Q. Mão (1843) và khoa
C. Tuất (1850).
(16)
Trên gấm thêm hoa: Do chữ “Cẩm thượng thiêm ba”:
Đẹp lại đẹp thêm.
(17)
Đời Mười bốn vai trên: Ngài BÙI THÂN là Sơ tổ chi 1 Phái 1, nên Ngài là vai trên
đối với chư Tổ cùng thế thứ với
Ngài.
(18)
Tế Huynh, thúc phụ: Tế huynh = anh rễ, chỉ ông
Cử nhân PHAN VĂN DIÊN; Thúc phụ = chú ruột, chỉ
Ngài Lưỡng khoa Tú tài BÙI VĂN THỈ.
(19)
Lạc quyên, chẩn thại nhiệt tình: Xem Tiểu
sử Ngài BÙI THÂN (Phổ hệ trang 74).
(20)
Lương gia, phú hộ: Gia đình tốt, làm giàu. Trong
Sắc phong của Ngài BÙI THÂN, có câu: “Nam quận lương gia,
Sài giang phú hộ”.
(21)
Huynh đệ đồng đường: Ngài BÙI THÂN và các
Ông Bá Sơ tổ các Chi của Phái II – là những anh em thúc
bá.
(22) Giúp
rày cha ông: Các con cháu giúp Ngài BÙI THÂN trong việc quản lý và
phát triển các cơ sở mà Ngài đã tạo lập
được ở các nơi.
(23)
Thư kinh – Tứ thư: (Luận
ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung Dung) và
Ngũ kinh (Thi, Thơ, Lễ, Nhạc, Xuân Thu) là những
bộ sách căn bản của Nho học.
(24)
Tú, Cử: Chỉ Ông BÙI GIÁC đổ Tú Tài và Ông BÙI HỮU
CHÍ đỗ Cử nhân.
(25)
Gió Âu mưa Mỹ: Do chữ Âu phong Mỹ vũ: Làn sóng
cạnh tranh của các nước Âu Mỹ.
(26)
Châu về Hợp Phố: Của đã mất mà
được lại, do chữ Châu hoàn Hợp Phố.
(27)
Nguyện lành trời đã liệu bài giúp xong: Do câu sách:
“Nhân hữu thiện nguyện, thiên tất tùng chi”.
(28)
Bia cao thành rộng nhìn chung hài hòa: Chỉ
mộ Tiền hiền và mộ Ngài Đệ Thập
thế tổ đã được trùng tu quy mô, huy hoàng.
(29)
Lòng son: Lòng thành, do chữ Đan tâm.
(Phỏng
theo sáng tác của Cố GS. BÙI TẤN)