Ngoài ra, trong thời gian trước đây,
chúng ta cũng đã tu bổ xong phần mộ của
Tiền nhân - từ các Ngài Đệ Thập tứ thế
tổ trở lên - thuộc đủ các Chi, Phái và cũng
đã hoàn tất việc tu chính quyển Phổ hệ
của Tộc.
Để đánh dấu các sự kiện
trọng đại trên, Tộc cho soạn và phổ
biến nội bộ tập Kỷ Yếu này mà trọng
tâm là ghi lại một số tài liệu liên quan đến
công tác tái thiết Từ đường và chỉnh trang
phần mộ của Ngài Thỉ tổ,
Và để thêm phần phong phú, tập
Kỷ Yếu có phụ lục một số thi văn – do
các bà con nội ngoại sáng tác – không ngoài mục đích nói
lên: niềm hân hoan, phấn khởi của con cháu, lòng tri ân
đối với công đức, sự nghiệp của
Tiền nhân, tình nhớ thương nơi quê cha
đất tổ, tinh thần đoàn kết và thân ái
của những người cùng chung một cội
nguồn, một huyết thống v.v…
Nhân đây, chúng tôi xin có lời tán
dương sự khuyến khích và giúp đỡ về
mọi mặt của Quý Bà con, để tập Kỷ
Yếu được ra mắt kịp thời.
Chúng tôi cũng không quên chân thành cảm ơn
Ô. Bùi Hoàn và các con đã giúp đỡ tận tình - từ
phương tiện đến công sức - trong phần in
ấn.
Ước mong tập Kỷ Yếu
đơn giản này sẽ là một món quà lưu niệm
hữu ích đối với bà con trong Tộc.
Hòa mình trong cuộc Nam tiến vĩ
đại của Dân tộc, vào cuối thế kỷ XV,
dưới đời vua Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng
Đức (1470-1497), Tiền nhân của Bùi Tộc chúng ta
đã di cư từ Hoan Châu (Nghệ An) và cùng Tiền nhân
của Đào tộc vào khai phá và sáng lập ra xã hiệu
Bình Khương tức là làng Vĩnh Trinh, tỉnh Quảng
Nam ngày nay.
Ngài Tiền Hiền, Đệ Nhất
thế tổ, BÙI Đại lang húy TẤN DIÊN và Ngài
Đệ Nhị thế tổ Cai phủ Khánh Sơn
hầu BÙI Quý công húy TẤN TRƯỜNG đã cùng Quý Ngài
đồng thời của các thôn tộc khác khai khẩn và
phân ranh giới của vùng Lục thôn tức là 6 thôn:
Lệ Trạch, Vĩnh Trinh, Thanh Châu, Cổ Tháp, Cù Bàn và An
Lâm sau này.
Sau Ngài Đệ Tam thế tổ húy BÙI
TẤN MIÊN - từng tiếp tục sự nghiệp
của hai Ngài trên - Phổ hệ còn ghi lại một
số vị như các Ngài Xá sai ty Lữ tài nam Bùi Quý công – có
trưởng nam là Ngài BÙI TẤN QUÝ -, Ứng xá ty BÙI
TẤN THẮNG, Thủ khoán BÙI TẤN MẪN.
Từ Ngài Đệ Thập thế tổ
húy BÙI TẤN HIỆU và 3 Ngài Đệ Thập nhất
thế tổ húy: BÙI TẤN TRỪNG, BÙI VĂN TOẢN, BÙI
TẤN CAO, thì sự sinh hoạt đã điều hòa và
bắt đầu phát triển.
Đến đời các Ngài Đệ
Thập nhị thế tổ húy BÙI VĂN BẢNG (2), BÙI
VĂN CANG, BÙI VĂN LỘC, BÙI TẤN QUỲNH, BÙI TẤN
NGA, thì cơ nghiệp thêm phần vững mạnh.
Sang Đệ Thập tam thế, với các
Ngài BÙI VĂN KIẾT, Tú tài BÙI VĂN THỈ (3), BÙI VĂN
VIÊN, BÙI VĂN CHÁP, BÙI VĂN CHUA, BÙI ĐẠT, BÙI VĂN
THÔNG, BÙI VĂN DOÃN, thì sự phân định làm 5 Phái đã
được hình thành (4).
Đến Đệ Thập tứ thế,
chúng ta có các Ngài BÙI THÂN (Ô. Quảng Nghi – (5)), BÙI VĂN PHÁN
(Ô. Thủ Quỵ), BÙI VĂN LẬP (Ô. Bá Đinh), BÙI
HOẰNG NGHỊ (Ô. Bá Soạn), BÙI VĂN HẢO (Ô. Bà Hành),
BÙI VĂN HỘI (Ô. Bá Ứng), BÙI VĂN CHUẨN (Ô.
Hương Hướng), BÙI VĂN XƯỚNG (Ô. Trùm
Độ), BÙI VĂN TIẾT (Ô. Thủ Sáu), BÙI VĂN
NGHĨA (Ô. Hương Lý), BÙI VĂN MẸO (Ô. Xã Thiều),
BÙI VĂN ĐÁNG (Ô. Trùm Đắng), BÙI VĂN THANH (Ô.
Thủ Dụng), BÙI HỢI (Ô. Trùm Hợi), BÙI VĂN
QUYỀN, BÙI VĂN LIÊU, BÙI VĂN CHIẾN, BÙI VĂN PHÁT,
BÙI DIỆM và BÙI VĂN HỀ (Ô. Trùm Thuần). Ngài BÙI THÂN là
một ngôi sao sáng của Tộc được nhiều
người biết đến không những vì sản
nghiệp đồ sộ mà còn vì các công trình xã hội và từ
thiện của Ngài. Từ Đệ Thập tứ
thế, Bùi gia đã nổi tiếng “của nhiều người
đông”, các huyện trong tỉnh đều biết.
Đến Đệ Thập ngũ thế,
việc quy tụ ở Vĩnh Trinh không còn thích hợp
với nhu cầu phát triển, nên nhiều vị đã
rời nguyên quán sang lập nghiệp tại các phủ
huyện khác như: Điện Bàn, Đại Lộc,
Quế Sơn, v.v… để quản trị và khuếch
trương các cơ sở mà Ngài Bùi Thân đã gầy
dựng được.
Đặc biệt trong Đệ Thập
ngũ thế, có Ô. BÙI TÚC (Ô. Bá Huynh) là vị tiêu biểu
nhất cho nếp sống Nho phong và 2 ông BÙI HỮU CHÍ (Ô.
Huyện Chí) và BÙI GIÁC (Ô. Tú Ba) đã đổ Cử nhân và
Tú tài Hán học.
Để bảo tồn di tích của
Tiền nhân – sau nhiều năm chinh chiến – vào những
dịp Thanh minh và Đông chí các năm Đ. Mão (1987), M. Thìn
(1988), bà con, con cháu đã lo trùng tu lại phần mộ
Tổ tiên, từ mộ Ngài Tiền Hiền –
đương được tái trùng tu quy mô vào dịp
Đông chí vừa rồi - đến mộ các Ngài
Đệ Thập tứ thế thuộc đủ các Chi,
Phái.
“Thiết duy: Bổn châu
tiền đợi Cai phủ Khánh sơn hầu Bùi Quý công
cấu tạo công đình. Địa linh nhân kiệt,
đại chấn châu lý chi phong, cận duyệt viễn
lai, hội vi nhật trung chi thị,
trách trách hưu thanh, chí kim vị mẫn giã. Nhiên nhi mao từ thảo sáng, tuế viễn niên
yên, suy chuyên vị miễn đồi hoại, tắc tuy di
chỉ thượng tồn, nhi điện vũ
đại bất như sơ. Tư dục
tái khoách tiền quy, dĩ chiêu thần đức.
Đệ niệm Bổn châu lịch niên đồ thán,
vật lực duy nan. An đắc
nhất như Bùi Quý công giả, tái vi thạnh cử tai !...
Nhưng sau khi do sự phát triển, Tộc
chia làm 5 Phái, thì Ngài Bùi Thân (Ô. Quản Nghi) - với sự
phụ tá của 2 vị con lớn của Ngài là Ô. Bùi Túc
(Ô. Bá Huynh) và Ô. Bùi Duy (Ô. Nghè Trình) – đã tự nguyện
lạc cúng tư điền và phần lớn kinh phí, cùng
bà con, con cháu 5 Phái cấu tạo Từ đường cho
toàn Tộc - thường được gọi là Nhà
thờ Tiền Hiền tộc Bùi - tại một khu
đất trên 2.000 m2, tọa lạc tại xứ Đồng
Ngạch, thôn Vĩnh Trinh.
Nhưng “trải qua một cuộc bể
dâu”, ngay trong giai đoạn đầu của cuộc
chiến tranh tàn khốc (1945-1975), cùng chung
một số phận với các kiến trúc to lớn khác,
Từ đường của Tộc đã bị phá
hủy rất nặng nề. Đến ngày hòa bình
được vãng hồi, chỉ còn lại dấu
vết cái Chánh tẩm, cái Bình phong đã dày dạn với
phong sương và một cây Trụ biểu bên tả
cũng đã nghiêng nhiều không còn dùng được.
Vào đầu Thu năm K. Tỵ (1989), nhân
một chuyến về thăm quê, hai Ông Bùi Tấn và Bùi
Tình lại một lần nữa mục kích cảnh tàn phá
rất thương tâm của Tự sở:
Khi về, hai Ông Tấn và Tình đã
đạo đạt ý nguyện đó với bà con ở
Saigon và qua buổi họp Tộc hôm 25-8-K.Tỵ (1989) – nhân
ngày hùy nhật của Ngài Đệ Thập tam thế
tổ, Sơ tổ Phái I – ý nguyện chính đáng ấy
đã được toàn thể bà con hiện diện
hưởng ứng nhiệt liệt.
21/1/T. Mùi (6/3/91): Cử Ban Tái Thiết
12/2/T. Mùi (27/3/91): Khởi công
19/3/T. Mùi (03/5/91): Thượng lương
10/6/T. Mùi (21/7/91): Hoàn tất công trình
Tháng 7/T. Mùi (8/91): Trang trí bên trong.
16/8/T. Mùi (23/9/91): Lễ An
vị
17/1/N. Thân (20/2/92): Lễ
Khánh Thành
(1) Ô. Bùi Sáu được
cử, nhưng vì bận, Ô. Sáu nhường lại cho Ô.
Tân.
Bên cạnh Ban Tái thiết, có Ô. Bùi Tấn và
Ô. Bùi Tình đại diện cho bà con ở trong Nam.
TÀI LIỆU VỀ HOÀNH & LIỄN Ở
TỪ ĐƯỜNG
KHÁM THỜ GIAN GIỮA
Phiên âm:
TIỀN
HIỀN
TIỀN
LIỆT LƯU QUANG NIÊN HỮU VĨNH;
HIỀN
CÔNG KHAM LẶC THẠCH DUY TRINH.
Trong thời kỳ chiến
tranh – năm 1954 - Từ đường bị phá hủy.
Một hôm, tình cờ Ô. Bùi Quang (Ô. Xã Sử) đi ngang qua,
nhặt được trong đống gạch gỗ
ngổn ngang, một tấm ván, lật lên xem, thì ra
đấy là một vế của câu đối nói trên. Ông
ra công tìm vế kia, nhưng nó đã
lọt vào tay một người khác. Ông bèn
tìm cách thương lượng, đổi chác để
có đủ hai về của câu đối. Ông mừng lắm, vác về, bó cất cẩn
thận ở trên gác.
Năm sau, khi Ô.B. Bùi Khắc Tục hồi
cư, sửa sang lại ngôi nhà – cũng đã đổ
nát – để có nơi thờ tạm Ông Bà, thì Ô. Bùi Quang
lại mang câu đối ấy đến tặng,
để treo hai bên bàn thờ, gọi là chút kỷ vật
còn sót lại của Tiền nhân.
Nhưng rồi chiến tranh tiếp
diễn và rất tiếc câu đối kia
lại xiêu lạc, chỉ còn lưu lại trong ký ức
của con cháu mà thôi.
(Phỏng theo lời
kể lại của Ô. Bùi Liễu).
Chú thích:
- Tiền liệt: công nghiệp đời
trước
- Lưu quang: sáng soi
- Lặc thạch: khắc vào đá
Phỏng
dịch:
ƠN
TỔ SÁNG NGỜI NĂM THÁNG RỘNG;
PHÚC
NHÀ GHI TẠC NÚI SÔNG BỀN.
KHÁM THỜ GIAN BÊN TẢ
(Trong nhìn ra)
Phiên âm:
QUANG TIỀN
NGHĨA
CHỈ NHÂN CƠ XƯƠNG HẬU THẾ;
THỦY
NGUYÊN MỘC BỔN NIỆM TIỀN NHÂN.
Chú thích:
- Quang tiền: do chữ: Quang ư tiền =
làm rạng rỡ Tiền nhân.
- Cơ chỉ: nền móng.
- Xương: thịnh, đẹp.
- Thủy nguyên mộc bổn: nước có
nguồn, cây có cội.
Phỏng
dịch:
NGHĨA
MÓNG NHÂN NỀN VUN HẬU THẾ;
NƯỚC
NGUỒN CÂY CỘI NHỚ TIỀN NHÂN.
KHÁM THỜ GIAN BÊN HỮU
(Trong nhìn ra)
Phiên âm:
DỤ
HẬU
CÔNG
ĐỨC HỮU DƯ HOÀN TẠO HÓA;
PHÚC
ÂN BẤT TẬN DỤ NHI TÔN.
Chú thích:
- Dụ hậu: do chữ: Dụ ư
hậu = làm cho hậu thế được sung mãn.
- Câu đối trên dựa theo
ý 2 câu sau đây:
Lưu hữu dư bất
tận chi công dĩ hoàn tạo hóa;
Lưu hữu
dư bất tận chi phúc dĩ hoàn tử tôn.
(Trích Vương Tham Chính tứ lưu
minh)
Phỏng
dịch:
CÔNG
ĐỨC CÓ THỪA TRỜI ĐẤT GỬI;
PHÚC
ÂN KHÔNG CẠN CHÁU CON NHỜ.
CÂU ĐỐI TRƯỚC HIÊN
(Hai cột giữa)
Phiên âm:
HỢP PHỐ
CHÂU HOÀN, PHONG THỦY HỮU TÌNH,
ĐỒNG
NGẠCH, CHÀ RANG CHUNG TÚ KHÍ;
PHI Y
PHƯỚC DIỄN, CƠ CẦU KẾ NGHIỆP, BÌNH
KHƯƠNG VĨNH ĐỊA
DIỆM PHƯƠNG DANH.
Chú thích:
- Hợp
phố châu hoàn = Châu về Hợp phố. Ngụ ý: Của
đã mất mà được lại. -
Đời Hậu Hán, đất Hợp Phố thuộc
về Giao chỉ (nước ta) là nơi có nhiều
hạt châu. Vì quan lại Tàu hà khắc,
bắt dân phải tìm hạt trai, nên những người
làm nghề lấy hạt châu tránh đi ở nơi khác.
Khi Mạnh Thường làm Thái thú, sửa đổi
lệ cũ, người lấy hạt châu lại trở
về Hợp Phố. Do đó có chữ: Châu hoàn Hợp
Phố.
- Chung tú khí = un đúc vận khí tốt.
- Phước
diễn = phước đầy dẫy
- Cơ cầu:
Cơ là cái thúng: cầu là áo cầu. Con cháu hay nối
nghiệp cha ông gọi là cơ cầu, ví như con nhà
thợ làm cung giỏi thì bắt chước cách làm cung
để uốn nắng thanh tre mà làm được cái
thúng, con nhà thợ hàn giỏi thì bắt chước cách
nối sắt để chắp và da thú mà làm
được áo cầu. Ý nói con cháu dòng không bao giờ
không giống cha ông.
Phỏng
dịch:
HỢP PHỐ
CHÂU VỀ, NON NƯỚC HỮU TÌNH,
ĐỒNG
NGẠCH CHÀ RANG UN KHÍ TỐT;
PHI Y
PHƯỚC CẢ, GIỐNG DÒNG NỐI NGHIỆP,
BÌNH
KHƯƠNG VĨNH ĐỊA NGỢI DANH THƠM.
CÂU ĐỐI TRƯỚC HIÊN
(Cột hai bên)
Phiên âm:
HỮU
MỤC TẢ CHIÊU, HƯƠNG HỎA TỨ THỜI
NĂNG
VĨNH BẢO;
XUÂN
HOA THU THỰC, PHÁI CHI VẠN ĐỢI
KHẢ
TRINH TRUYỀN.
Chú thích:
- Hữu
mục tả chiêu: Trong Tôn miếu hay Từ
đường, bên hữu gọi là MỤC, bên tả
gọi là CHIÊU.
- Hương
hỏa tứ thời: việc hương khói bốn mùa,
việc thờ phụng quanh năm.
- Vĩnh
bảo: giữ mãi.
- Xuân hoa thu thực: mùa xuân trổ hoa, mùa thu kết
trái. Nghĩa bóng: Người có tài thì lúc nào cũng hữu
ích.
- Trinh truyền: lưu
truyền mãi.
Phỏng
dịch:
TỰ SỞ UY
NGHIÊM, HƯƠNG KHÓI BỐN MÙA
LUÔN
BẢO QUẢN;
TÔNG MÔN PHÁT
TRIỂN, GIỐNG DÒNG MUÔN THUỞ
MÃI
LƯU TRUYỀN.
CỔNG TỪ ĐƯỜNG
Phiên âm:
BÙI TỪ MÔN
ĐỨC
BẤT DU, XUẤT NHẬP KHẢ GIÃ;
HÒA
VI QUÝ, TIỂU ĐẠI DO CHI.
(Câu này của tiền nhân còn truyền
lại)
Chú thích:
- Du: vượt qua
- Đức bất du: không có
gì hơn đức hạnh. Do câu: Đại
đức bất du nhàn (Kinh Thư).
Phỏng
dịch:
ĐỨC
LÀ HƠN, VÀO RA ĐƯỢC CẢ;
HÒA
LÀM QUÝ, LỚN
NHỎ NOI THEO.
CÂU ĐỐI Ở TRỤ BIỂU
(Mặt trước)
Phiên âm:
THIỆN
QUẢ THIỆN NHÂN, TÍCH HOAN QUẬN,
KIM
VĨNH TRINH, LÂN CHỈ PHỤNG MAO
HƯNG
VỌNG TỘC;
HẢO
SƠN HẢO THỦY, BẮC SÀI GIANG,
NAM
TÀO LÃNH, LONG BÀN HỔ CỨ
BẢO
TÔN TỪ.
Chú thích:
- Thiện quả thiện nhân: nhân
lành quả tốt. – Con cháu khương thịnh là nhờ
phúc ấm của Ông Bà.
- Lân chỉ phụng mao:
ngón chân con lân, lông con phụng. – Nghĩa bóng: con nhà danh gia
thế phiệt.
- Long bàn, hổ cứ: long quanh co,
uốn khúc, hổ ngồi chổm. – Những cuộc
đất tốt về Địa lý.
Phỏng
dịch:
QUẢ
TỐT NHÂN LÀNH, XƯA HOAN QUẬN
NAY
VĨNH TRINH, LÂN VUỐT PHỤNG LÔNG,
GÌN
TỘC PHÁI;
NON
XINH NƯỚC ĐẸP, BẮC SÀI GIANG
NAM
TÀO LÃNH, LONG TRIỀU HỔ PHỤC,
GIỮ TỪ ĐƯỜNG.
CÂU ĐỐI Ở TRỤ BIỂU
(Mặt bên)
Phiên âm:
DIỆP
MẬU CĂN THÂM, TỔ ẤM TRIỆU BỒI
NAM
CẬP NỮ;
ĐỊA
LINH NHÂN KIỆT, TÔN CÔNG TÀI THỰC
CÔ NHƯ KIM.
Chú thích:
- Diệp mậu căn thâm: cội rễ
sâu thì cành lá um tùm.
- Triệu bồi: xây dựng, vun
đắp.
- Tài thực: trồng trỉa.
Phỏng dịch:
LÁ
TỐT RỄ SÂU, ƠN TỔ ĐƯỢM NHUẦN
TRAI
LẪN GÁI;
ĐẤT
LÀNH NGƯỜI ĐẢM, PHÚC NHÀ THẮM GỘI
TRƯỚC NHƯ NAY.
BỨC HOÀNH
CỦA BỔN TỘC
BÙI TỪ
ĐƯỜNG
BỨC HOÀNH
CỦA TỘC ĐÀO TẶNG
THÂM TƯ
HẬU TRẠCH = LUÔN NHỚ ƠN DÀY
BỨC HOÀNH
CỦA TỘC ĐỖ (CỔ THÁP) TẶNG
TỔ
ĐỨC LƯU QUANG = ĐỨC TỔ SÁNG NGỜI
Lễ cung
nghinh tôn linh Tổ Tiên Tộc Bùi tại
Mộ
TIỀN HIỀN trong ngày Khánh thành Từ đường
Mộ Ngài
Đệ Thập Thế Tổ: BÙI TẤN HIỆU
trùng tu trong dịp Thanh Minh 1993
Cúng Khánh thành
Từ đường Bùi Tộc
Đọc:
Văn Tế
Đại
diện Tộc Đào mừng lễ Khánh Thành Từ
đường Bùi Tộc
CÂU ĐỐI CỦA PHÁI I CÚNG
Phiên âm:
BÙI
GIA YẾN DỰC DI MƯU, LAN QUẾ
ĐÌNH
GIAI QUANG TỔ ĐỨC;
VĨNH
ĐỊA PHỤNG MAO TẾ MỸ, NHẠN HỒNG
THỨ ĐỆ THIỆU MÔN PHONG.
(Câu này do Ô. Bùi Mộng Vũ tức Ô. Giáo Nhì
soạn lúc sinh tiền).
Chú thích:
- Yến dực: cánh én. – Di mưu:
Phương pháp làm ăn của Ông Cha
để lại.
- Yến dực di mưu: làm ăn
cần lao, kiên trì như chim én gầy
tổ.
- Lan quế đình giai: sân thềm
đầy lan quế. Do câu: Tử tôn
phát đạt viết lan quế
đằng phương.
- Nhạn hồng thứ
đệ: anh em, con cháu biết kính nhường như
đàn chim hồng nhạn bay luôn giữ hàng ngũ,
thứ lớp.
Phỏng
dịch:
BÙI
GIA BỀN CHÍ MƯU SINH, LAN QUẾ
ĐƠM
HOA NGỜI TỔ ĐỨC;
VĨNH
ĐỊA RA CÔNG LẬP NGHIỆP, NHẠN HỒNG
TUNG CÁNH RẠNG MÔN PHONG.
BỨC HOÀNH CỦA PHÁI II CÚNG
TÍCH THỌ KIM BA = Cây ngày
trước quả hôm nay.
Chữ
do Ô. Thầy Quế ở Duy An soạn.
BỨC HOÀNH CỦA PHÁI III CÚNG
TỔ ẤM ĐỒNG TRIÊM
= Cùng hưởng phúc ấm của Tổ tiên.
BỨC HOÀNH CỦA PHÁI IV CÚNG
PHƯỚC
LƯU HẬU DUỆ = Để phúc cho con cháu
đời sau.
BỨC HOÀNH CỦA PHÁI V CÚNG
LAN QUẾ ĐẰNG
PHƯƠNG = Lan quế ngát thơm.
Do
câu sách: Tử tôn phát đạt viết Lan
quế đằng phương.
BỨC HOÀNH CỦA CON GÁI & RỂ
CHI 2 PHÁI I CÚNG
BĂNG THANH
NGỌC NHUẬN: Giá trong ngọc lành.
Sách xưa có câu: Băng thanh ngọc
nhuận nhạc gia nghĩa tế đồng vinh.
Chữ
do Ô. Thầy Lê ở Duy Châu soạn.
BỨC HOÀNH CỦA NHÁNH BÙI MỸ SƠN
CÚNG
PHƯỚC
LỘC THỌ
BỨC HOÀNH CỦA GIA ĐÌNH Ô.B. BÙI
XƯỚC CÚNG
ẨM HÀ TƯ NGUYÊN = Uống
nước nhớ nguồn.
CÂU
ĐỐI CỦA GIA ĐÌNH Ô.B. BÙI QUÁN CÚNG
Phiên âm:
TỔ MIẾU
VIÊN THÀNH, DỊCH THẾ PHỒN XƯƠNG
HÒE QUẾ
MẬU;
TÔN CHI ĐOÀN
KẾT, THIÊN NIÊN THỊNH ĐẠT
TỬ PHẦN
HƯƠNG,
Chú thích:
- Tổ
miếu: Từ đường, Nhà thờ Tổ tiên.
- Dịch
thế: Trải qua nhiều đời.
- Phồn
xương: Đông đúc, thịnh vượng.
- Hòe
quế: Anh em, con cháu. Trong truyện Kiều có câu: “Một cây cù mộc, một sân
quế hòe”.
- Mậu:
Sum sê, tươi tốt.
- Tử
phần: - Tử: Cây thị. – Quê mình sinh đẻ.
- Phần: Loại cây hay trồng ở thôn
quê. – Nơi chôn nhau cắt rốn.
“Đoái
trông muôn dặm tử phần”. (Nguyễn
Du).
Phỏng dịch:
TỔ MIẾU
HOÀN THÀNH, MUÔN THUỞ PHỒN VINH
THƠM GỐC
TỬ;
PHÁI CHI ĐOÀN
KẾT, NGHÌN THU THỊNH ĐẠT
RỢP SÂN HÒE.
CÂU
ĐỐI CỦA GIA ĐÌNH Ô.B. BÙI THUẦN CÚNG
Phiên âm:
ĐỊA
KHẢI SÙNG TỪ VĨNH BẢO TIỀN CƠ
LONG MẠCH
VIỄN;
THIÊN TĂNG
VĨ KHOÁN TRINH LƯU HIỀN DUỆ
PHÚC CĂN THÂM.
Ô. Thầy Quế ở Duy An
soạn.
Chú thích:
-
Khải: Mở.
-
Sùng từ: Nhà thờ tôn nghiêm.
-
Long mạch. – Theo khoa Địa lý, khí thế của núi
sông gọi là long mạch.
-
Vĩ khoán: Bằng cứ vĩ
đại.
-
Trinh lưu: Để trọn lại.
-
Hiền duệ: Con cháu đời sau.
-
Phúc căn: cội phúc.
Phỏng dịch:
ĐẤT
TRỔ ĐỀN CAO, LUÔN GIỮ NỀN XƯA,
LONG MẠCH
TỐT;
TRỜI DÀNH
CẢNH ĐẸP, MÃI TRUYỀN LỚP TRẺ,
PHÚC CĂN
BỀN.
CÂU
ĐỐI CỦA GIA ĐÌNH Ô.B. BÙI KHẮC TỤC CÚNG
Phiên âm:
TỘC PHÁI THÙY
THANH, SỰ NGHIỆP
PHƯƠNG
TRUYỀN TRIÊM HẬU TRẠCH;
SƠN XUYÊN
DỤC TÚ, CƠ ĐỒ
GIAI KHÁCH
CHẤN TIỀN HUY.
Chú thích:
- Thùy
thanh: Để tiếng tốt về sau.
- Triêm
hậu trạch: thấm nhuần Ơn dày.
- Dục
tú: Un đúc khí tốt mà sinh người
giỏi.
- Giai
khoách: Mở mang, khoách trương.
- Chấn:
Phấn phát lên, nổi tiếng.
- Huy:
Đẹp. Tiền huy: Thanh danh đời trước.
Phỏng dịch:
TỘC PHÁI
VẺ VANG, SỰ NGHIỆP KHÉO TRUYỀN
NHUẦN PHÚC
CẢ;
NON SÔNG UN
ĐÚC, CƠ ĐỒ RỘNG MỞ
RẠNG
DANH XƯA.
CÔNG TRÌNH TÁI TRÙNG TU
MỘ TIỀN HIỀN BÙI TỘC
I.
Sơ lược
về lịch sử mộ Tiền Hiền:
Mộ Tiền Hiền là song phần của:
- Ngài
Hiển Thỉ tổ (Đệ I thế tổ) BÙI
Đại lang húy TẤN DIÊN và
- Ngài
Hiển Cao cao tổ (Đệ II thế tổ) BÙI Quý công
húy TẤN TRƯỜNG.
Mộ tọa lạc tại xứ
Đại Tha tục gọi là Gò Sỏi, thôn Vĩnh Trinh,
cách Từ đường của Tộc khoảng 1 km
về phía Tây Bắc.
Mộ triều Đông, tọa Khôn,
hướng Cấn, kiêm Giáp Dần, được Ngài Bùi
Thân (Ô. Quản Nghi) sùng tu phụng cúng Bổn tộc năm
Giáp Tý (1924) một cách quy mô, tráng lệ: Huynh, nấm
đều bọc đá, bia có nhà bia, trước có bình
phong, trụ biểu, xung quanh có thành, sân mộ lát đá
tấm!
Nhưng qua thời kỳ chiến tranh
khốc liệt (1945-1975) bia bị ngã
bể, còn các phần khác như: nấm, huynh, nhà bia, bình
phong, trụ biểu, thành đều bị hư hại
nặng nề: gạch đá phần thì bị mang đi
nơi khác, phần thì bị lấp vùi dưới
đất cỏ hoang vu.
Trong đợt tiểu trùng tu phần
mộ Tiền nhân vào những dịp Đông Chí Đ. Mão
(1987) và Thanh Minh M. Thìn (1988), Tộc có cử Ô. Bùi Văn
Lập (Thế thứ 18) về phối hợp với bàn
con ở địa phương để tạm tu bổ
lại mộ Tiền Hiền như gắn bia bị
bể, làm áo bia và xây hai nấm có dạng áo quan.
II. Công tác tái
trùng tu mộ Tiền Hiền
Sau khi Từ đường đã
được tái thiết xong, vào đầu Thu năm T.
Mùi (1991), bà con - ở nguyên quán cũng như ở trong Nam -
đều đồng ý cho tiến hành đại tu bổ
ngôi mộ Tổ một cách mỹ quan, kiên cố - vừa
xứng đáng với công đức khai sáng của
Tiền nhân, vừa hài hòa với Từ đường
mới được hoàn chỉnh – theo quy cách như sau:
1. Họa đồ:
Họa đồ tái trùng tu đã do Ô. Bùi Minh Châu vẽ - sau
khi tham khảo ý kiến của bà con – và đã
được Tộc phúc duyệt trước khi thi hành.
Tuy có tăng cao so với đợt tu bổ gần
đây, bia và nhà bia vẫn giữ đúng
phương hướng cũ. Thành mộ (14,5
m x 17,75m) làm theo dấu móng ngày xưa.
2. Ban Tái trùng tu: Ban này
gồm có:
- Ô. Bùi Ngọc Kính:
Trưởng ban
- Ô. Bùi Vinh: Phó ban, kiêm ủy
viên Tài chính
- Ô. Bùi Tân: Ủy viên
- Ô. Bùi Nên: Ủy viên
Bên cạnh Ban Tái
trùng tu, có Ô. Bùi Tấn, Đại diện thường
trực của bà con ở trong Nam.
3. Thời gian công tác: Khởi công đúng vào ngày
Đông Chí 17/11/T. Mùi (22/12/1991).
Vì thời
tiết Đông thiên, nên công trình kéo dài hơn 5 tuần
lễ và hoàn thành vào ngày 27/12/T. Mùi (31/1/1992).
4. Kinh phí:
Vật liệu:
-
Sắt các loại 2.591.000
(303,5 kg + 45 cây)
-
Xi măng (7,1 tấn) 5.089.000
-
Gạch (7.600 viên) 816.000
-
Cát (xây, tô, đổ nền) 649.000
-
Sạn 352.000
Linh
tinh: 1.335.500
Công
thợ: 2.300.000
--------------
Tổng cộng: 13.132.500
III. Bia – Nhà bia – Bình phong – Trụ
biểu
1. Bia: Để
bảo tồn di tích của Tiền nhân, tấm bia cũ đã được chỉnh trang
và dựng lại. Chúng ta đọc:
Mặt
trước:
Phiên âm:
Tuế thứ Giáp Tý niên mạnh hạ kiết
nhật.
Cổ Thăng Ba phủ, Ba Châu thuộc, La Tháp
châu, Bình Khương thôn.
ĐẠI
NAM HOAN QUẬN NAM LAI TIỀN HIỀN:
HIỂN THỈ TỔ BÙI ĐẠI LANG QUÝ
CÔNG,
HIỂN CAO CAO TỔ BÙI TÔN LINH QUÝ CÔNG
CHI MỘ
Kim
Điện Bàn phủ, Duy Xuyên huyện, Đông An tổng, Vĩnh Trinh thôn.
Bùi
tộc Tự tôn Bùi văn Thân sùng tu
phụng cúng Bổn Tộc
đồng lập thạch.
Mặt sau:
Phiên âm:
PHÚ THỌ
KHƯƠNG NINH
Bài Minh:
Ẩm hà tư
nguyên, nhân sinh khởi vong bổn thỉ chi báo hồ ?
Cung duy ngã:
Hiển
Thỉ tổ Bùi Đại lang Hoan châu
nhân sinh hạ,
Cao cao tổ Bùi Quý công bổn châu khai cơ.
Tiền hiền công đức biểu biểu vu
công đình, tự vu gia miếu, mộ vu Đại Tha
(tọa Khôn, hướng Cấn, kiêm Giáp Dần).
Tưởng y quan
chi xuất du, miến tùng thu chi tại
vọng, ư thị hồ minh.
Minh viết:
Hải Bắc nguyên lai, Hà đông hệ kỷ. Kiết xã cưu dân, lập đình tạo
thị. Châu thôn triệu tích, tộc phái
thùy thanh. Phụng mao tế mỹ,
lân chỉ tường trình. Miến duy
tiền huy, sơn công hải đức, Đại Tha qui
tàn, trinh mân vĩnh thực.
Câu đối:
KIỀU TỬ PHONG CAO TRUYỀN
VĨ KHOÁN;
GIÁ TÙNG VÂN HẠ
ĐIỆN GIAI THÀNH.
Phỏng
dịch:
CẢNH TRÍ PHONG QUANG, KIỀU
TỬ VUN BỒI CƠ NGHIỆP CŨ;
CÔNG TRÌNH MỸ
LỆ, GIÁ TÙNG TÔ ĐIỂM MỘ PHẦN XƯA.
2. Nhà bia:
- Trên phần
cổ lầu Nhà bia, có 4 chữ:
TIÊN TỔ THỊ HOÀNG
(chữ
trong Kinh Thư) hàm ý: Tổ tiên là trên cả,
- Câu đối
ở hai trụ phía trước:
Phiên âm:
CÔNG
ĐỨC TRIỆU BỒI ĐÔNG HẢI QUẢNG;
PHƯỚC
ÂN TRIÊM NHUẬN THÁI SƠN CAO.
Phỏng dịch:
CÔNG
ĐỨC TÔ BỒI ĐÔNG HẢI RỘNG;
PHÚC ÂN NHUẦN ĐƯỢM THÁI SƠN CAO.
Câu đối
ở hai trụ phía sau:
Phiên âm:
SỰ
NGHIỆP PHƯƠNG TRUYỀN THÙY HẬU THẾ;
MỘ PHẦN TRANG CHỈNH PHỤNG TIÊN LINH.
Phỏng dịch:
PHẦN
MỘ NGUY NGA THỜ TỔ TRƯỚC;
CƠ ĐỒ TRÁNG LỆ ĐỂ ĐỜI SAU.
3. Bình phong hậu:
Nơi Bình phong
sau hậu đầu, có đắp 6 chữ lớn:
BÙI
TỘC TIỀN HIỀN THẦN MỘ
Kèm hai bên có hai
hàng chữ:
Tuế thứ Tân Mùi nhất
cửu cửu nhất niên trọng đông.
Bổn Tộc tái sùng tu đồng phụng
tạo.
4. Trụ biểu
Câu đối
mặt trước:
Phiên âm:
HOAN
QUẬN BẮC SINH, VĨNH ĐỊA KHAI CƠ
LƯU THẠC
CHÍ;
LÊ
TRIỀU NAM TIẾN, BÙI MÔN SÁNG NGHIỆP
BIỂU
HÙNG TÂM.
Phỏng dịch:
RỜI
BẮC TẠI HOAN CHÂU, VĨNH ĐỊA MỞ MANG
LƯU CHÍ
CẢ;
VÀO
NAM TỪ LÊ HẬU, BÙI MÔN XÂY DỰNG
QUYẾT TÂM
CAO.
Câu đối
mặt trên:
Phiên âm:
TỘC
PHÁI PHỒN XƯƠNG, LÂN CHỈ PHỤNG MAO
THỪA TỔ
ẤM;
SƠN
XUYÊN TÚ MỸ, LONG TRIỀU HỔ PHỤC
BẢO TÔN
PHẦN.
Phỏng dịch:
TỘC
PHÁI PHỒN VINH, LÂN VUỐT PHỤNG LÔNG,
NOI NGHIỆP
TỔ;
NON
SÔNG MỸ LỆ, LONG TRIỀU HỔ PHỤC,
GIỮ
LĂNG ÔNG.
CHƯƠNG TRÌNH LỄ KHÁNH THÀNH
TỪ ĐƯỜNG &
MỘ TIỀN HIỀN BÙI TỘC
- Ngày
14/1/N. Thân (17-2-92): Cầu Siêu và Cầu An
tại chùa Tỉnh Giáo Hội Quảng Nam ở Hội An.
- Ngày
15/1/N. Thân (18-2-92): Đi lễ Thập tự (viếng và
lễ 10 chùa từ Hội An qua Duy Xuyên,
lên đến An Lâm).
- Ngày
16/1/N. Thân (19/2/92):
Buổi sáng: Thăm và ủy
lạo một số bà con già yếu neo đơn.
Buổi chiều: Lễ Nghinh
hương: Cung Nghinh Tôn linh Tiên tổ từ mộ
Tiền Hiền về Từ đường. Cúng Lễ túc.
- Ngày
17/1/N. Thân (20/20/92):
2 giờ - 3 giờ: Cúng
đất. Cúng Khánh thành
3 giờ - 5 giờ: Nghi
thức cổ truyền:
+ Văn tế Hán văn
+ Cung trí Phổ hệ
+ Văn tế Quốc văn
+ Lịch sử Cấu
tạo và Tái thiết Từ đường
+ Hoài niệm Tổ tiên qua Thi
Văn của con cháu
5 giờ - 6 giờ 30: Giải
lao. Điểm tâm
6 giờ 30 - 8 giờ: Các
Tộc bạn và Thân hữu đi lễ
mừng
8 giờ - 9 giờ 30: Nghi
thức hành chính:
+ Tuyên bố lý do
+ Giới thiệu Quan khách
+ Diễn từ của Ban
Tổ chức
+ Sơ
lược Lịch sử Gia tộc
+ Dâng hoa. Tưởng niệm
Tổ tiên
+ Cảm tưởng của
Đại diện con cháu
+ Cảm tạ của Ban
Tổ chức
9 giờ 30 – 13 giờ: Chiêu
đãi Quan khách và Bà con nội ngoại. Có đệm Thi
Văn do Bà con sáng tác cho tập Kỷ Yếu.
VĂN
TẾ (HÁN VĂN):
Phiên âm:
Tư thời:
Nhâm Thân niên chánh
nguyệt thập thất nhựt. Việt Nam Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa quốc, Quảng Nam tỉnh,
Duy Xuyên huyện, Duy Hòa xã, Vĩnh Trinh thôn, Bùi Tộc tự
tôn Bùi thành Dương hiệp Tộc nội Bá thúc, cô
nương, huynh đệ tỷ muội, nam nữ tử
tôn hôn tế nội ngoại đại tiểu
đẳng.
Tư nhân:
- Bổn
tộc Từ đường tái thiết sự hoàn, cung
hành An vị Tổ tiên, Khánh thành Sùng từ chi lễ,
- Bổn
tộc Tiền Hiền thần mộ tái sùng tu hoàn mãn, cung
hành Lạc thành khánh diên,
- Bổn
tộc Phổ hệ tu chính dĩ thanh, cung nghinh phụng
trí tại Từ đường chi lễ;
Vị thử cẩn trạch
Bùi Diệm vi chánh bái, Bùi Do dữ Bùi Sáu
vi bồi bái, cung trần: hương, đăng, hoa
quả, thanh chước, sinh tư, hào soạn, thứ
phẩm chi nghi.
Cảm trí tế vu:
-
Phụng vì thượng tiến Tiền Hiền khai
khẩn Bùi tộc, Hiển Thỉ tổ Bùi Đại lang khảo tỷ chi thần chánh vị
tiền.
-
Phụng vì thượng tiến Tiên tổ khai cơ
Bùi tộc, Hiển Thượng Cao cao tổ Cai phủ
Khánh Sơn hầu Bùi Quý công khảo tỷ chi thần chánh
vị tiền.
-
Phụng vì Hiển Lịch đợi Tôn tổ
khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.
-
Phụng vì Hiển Cao cao tổ khảo tỷ chi
thần chánh vị tiền.
-
Phụng vì Hiển Cao cao tổ bá thúc khảo tỷ,
đồng Cao cao tổ bá thúc khảo tỷ chi thần
chánh vị tiền.
-
Phụng vì Hiển Cao cao tổ cô, đồng Cao cao tổ
cô chi chánh liệt vị.
-
Phụng vì Hiển Cao tổ khảo tỷ chi
thần chánh vị tiền.
-
Phụng vì Hiển Cao tổ bá thúc khảo tỷ,
đồng Cao tổ bá thúc khảo tỷ chi thần chánh
vị tiền.
-
Phụng vì Hiển Cao tổ cô, đồng Cao tổ
cô chi chánh liệt vị.
-
Phụng vì Hiển Tằng tổ khảo tỷ chi
thần chánh vị tiền.
-
Phụng vì Hiển Tằng tổ bá thúc khảo
tỷ, đồng Tằng tổ bá thúc khảo tỷ chi
thần chánh vị tiền.
-
Phụng vì Hiển Tằng tổ cô, đồng
Tằng tổ cô chi chánh liệt vị.
-
Phụng vì Hiển Tổ khảo tỷ chi thần
chánh vị tiền.
-
Phụng vì Hiển Tổ bá thúc khảo tỷ,
đồng Tổ bá thúc khảo tỷ chi thần chánh
vị tiền.
-
Phụng vì Hiển Tổ cô, đồng Tổ cô chi
chánh liệt vị.
-
Phụng vì Hiển Khảo, Hiển Tỷ chi thần
chánh vị tiền.
-
Phụng vì Hiển Bá thúc khảo tỷ, đồng
Bá thúc khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.
-
Phụng vì Hiển Cô, đồng Cô chi chánh liệt
vị.
Kỵ:
-
Phục vì Tộc nội chư Chi
Phái huynh đệ tỷ muội, nam nữ tử tôn hôn
tế nội ngoại quá vãng chư tôn linh, hương
linh.
-
Phổ tiến Môn trung hữu danh vô vị, hữu
vị vô danh, huyết sảo tảo thương, sa
lạc bất tường, vong biên thất ký, biệt quán
ly hương, quyên thi thất mộ, đẳng
đẳng chư hương hồn liệt vị (3).
Viết cung duy:
Tiên tổ Triệu bồi hữu nhật;
Tích
lũy đa niên.
Minh đức kỳ lai giã
viễn;
Thành hiến kỳ
vĩnh vô khiên.
Thiên thu nghĩa
chỉ nhân cơ, khắc xương quyết hậu;
Bách thế ân
thâm trạch hậu, hữu khai tất tiên.
Hữu mục tả chiêu,
đường thượng chi tinh thần tụy tụ;
Thống Tôn hội
Phái, niên lai chi hương hỏa lưu truyền.
Tư nhân:
Mộ phần trang chỉnh;
Phổ hệ chính
biên.
Từ đường tái
thiết;
Cơ chỉ y nhiên.
Hỷ tai
Lạc thành khánh lễ;
Hân giã An vị
tế diên!
Phục kỳ lai hưởng lai
hâm, mặc hựu sùng từ thiên niên vĩnh bảo;
Vô nại nhi tôn
nhi tử, trường lưu tộ dận vạn
đợi bất thiên.
Ngưỡng lại:
Tổ tiên thùy dụ phúc hậu ân thâm giả giã!
Phục duy
thượng hưởng.
Ghi chú: Từ bài
Văn Tế Xuân của Tiền nhân ngày xưa, đã thay
đổi, thêm bớt đôi chi tiết cho phù hợp.
VĂN TẾ (QUỐC VĂN)
Kính lạy Tổ tiên!
Non Tào lãnh (1) cây cao xanh ngát,
ngắm tàng cây tưởng lại cội xưa;
Sông Sài giang (2)
nước chảy trong veo, nhìn dòng nước nghĩ
về nguồn cũ.
Nhớ Tổ tiên xưa:
Tánh quận Hà Đông (3);
Phi Y (4) thế
phố.
Theo đoàn Nam tiến,
dưới thuở Hậu Lê;
Từ đất Hoan châu (5)
chính nơi cựu thổ (6)
Trên đường lập
nghiệp, khi băng ngàn, khi vượt suối, xiết
nỗi gian lao;
Đến
chốn định cư, có đất rộng, có khe trong,
thuận bề quy tụ.
Xây đình mở chợ,
đống lương góp sức, Lục châu tự
sở, bia cũ từng ghi (7);
Đắp
đập khai hoang, kiến thiết ra công, xã hiệu Bình
Khương (8), tên xưa từ đó.
Nêu gương nghĩa cử,
Cai phủ Khánh sơn hầu (9);
Nối bước cần lao, Lữ Tài nam Việt cố.
Việc tôn linh ngưỡng
mộ, nhà cao vườn rộng, đình tự, từ
đường;
Nếp sinh
hoạt kinh doanh, nương cạn ruộng sâu,
lương điền, thổ phụ.
Cải danh Bình Thuận, sau
đổi Vĩnh Trinh;
Kết nghĩa
Đào gia, thêm nhiều vọng hộ (10).
Đây Đồng Ngạch,
Chà Rang, đây Bàu Cùng, Cầu Cao, Rộc Sách, khi sương
chiều, khi nắng sớm, nghĩa hương thôn ấm
lạnh đỡ đần;
Kìa Thanh Châu, Cổ Tháp, kìa An
Lâm, Lệ Trạch, Cù Bàn, lúc nắng hạ, lúc mưa thu,
tình lân lý răng môi gắn bó.
Thuật xử thế ngoài êm
trong ấm, thầy hay bạn tốt, chọn nhân nghĩa
làm phương châm;
Việc tề
gia trên thuận dưới hòa, con thảo cha hiền,
lấy hiếu từ làm quy củ.
Cày sâu cuốc bẩm, vui
với điền viên;
Dậy sớm
thức khuya, bạn cùng kinh sử.
Thời Cựu học bút
nghiên gắng sức, sân Trình cửa Khổng, bậc túc
Nho, Tú Cử có đều;
Buổi Tân
văn đèn sách ra công, gió Á mưa Âu, hạng kỹ
thuật chuyên viên chẳng hổ.
Theo đà tiến triển,
khách văn chương, nhà khoa học, năm châu bốn
bể, cùng người thích cánh, tô điểm quê cha;
Giữ nếp cổ
truyền, người mục súc, kẻ canh nông, một
nắng hai sương, quyết chí chen
vai, dựng xây đất tổ.
Trải lúc cơ trời
biến cải, dù buổi thái bình hay cơn binh hỏa,
sức âm phò quả đã vô cùng;
Qua tuần cuộc thế
đổi thay, dù nơi đất khách hoặc ở quê
nhà, ơn mặc trợ thật là sáng tỏ.
Đất lành người
đảm, đời này sang đời nọ, thụ
hưởng hồng ân;
Nhân tốt
quả xinh, lớp trước tiếp lớp sau,
đượm nhuần phúc thọ.
Thật là: Đức sánh sơn hà;
Ân
tày vũ lộ (11)
Mênh mông bể cả, tổ
ấm tài bồi;
Thăm thẳm
non cao, tôn công tế độ.
Nay nhân: Tái thiết Từ đường;
Chỉnh trang
Phần mộ.
Mừng thay Khánh lễ
Lạc thành;
Vui bấy sự hoàn tu
bổ!
Theo gương Tộc
bạn, góp phần hàn gắn dấu vết chiến tranh;
Cảm tạ
địa phương, có chỗ chăm lo khói hương
tổ phụ.
Nhờ ơn Tiên tổ, mách
thầy mách thợ, công tác chu toàn;
Với sức bà con, góp
của góp công, quy trình thành tựu.
Vườn xưa còn đó,
dấu cũ Tiền nhân;
Đền
mới giờ đây, châu về Hợp Phố (12).
Mộ phần tu chỉnh, giai
thành (13) viên mãn, nghìn thu cựu tích tô
bồi;
Tự sở phong quang, an vị uy nghiêm, năm Phái cơ ngơi
trường cửu.
Lại thêm: Phổ hệ chính thu;
Ấn hành
cập số.
Lần xem tiểu sử, công lao các Tổ, sự nghiệp muôn đời;
Theo dõi sơ
đồ, cù mộc một chồi, quế hòe trăm
nụ (14).
Sưu tầm tài liệu, thi
văn tuyển trạch, phụ lục dồi dào;
Bổ túc di dung,
thế thứ phân minh, Phái Chi đầy đủ.
Giờ đây:
Trầm hương nghi ngút,
lễ bạc tiến nghinh;
Văn tế nôm na,
lòng son biểu lộ.
Con đàn cháu lũ,
rộn rã sân Lai (15);
Hướng
cũ nền xưa, vui vầy gốc Tử (16).
Xin nguyện:
Rách lành đùm bọc,
trước sau đoàn kết, nội ngoại tương
lân;
Linh hiển
chở che, năm tháng hộ trì, Từ đường kiên
cố.
Thăm thẳm non cao bể
rộng, nước có nguồn, cây có cội, trông
đền ơn cả ba xuân;
Miên man nay lại
xưa qua, chim có tổ, người có tông, mong chứng lòng
thành tấc cỏ (17). Hồng ân
bất tận, ngửa xin Trời Phật, độ
Tiền nhân thanh thản Lạc bang (18);
Thạc
đức trường tồn, cúi nguyện Tổ tiên,
giúp hậu thế dồi dào phước tộ (19).
Kính thay xin hưởng!
Chú thích:
(1) Non
Tào lãnh: hòn núi Chúa, hòn núi Quắp.
(2) Sông
Sài giang: sông Chợ Củi, sông Thu Bồn.
(3) Tánh
quận Hà Đông: Theo bảng Bách gia Tánh quận danh in trong
Lịch Tàu, thì tộc Bùi thuộc Hà Đông Quận.
(4) Phi
Y: chiết tự của chữ Bùi. Khi chiết tự
chữ Bùi gồm có hai phần: Phi = lụa đào và Y = áo.
(5) Hoan
châu: Theo Phổ hệ, Tiền nhân của Tộc Bùi
gốc từ Hoan Châu (Nghệ An).
(6) Cựu
thổ: nơi cũ.
(7) Lục
châu tự sở, bia cũ từng ghi:
Bia Đình Châu dựng năm Giáp Tuất (1754), niên hiệu
Cảnh Hưng thứ 15 đã từng ghi.
(8) Bình
Khương: xã hiệu cũ của Vĩnh Trinh.
(9) Cai phủ Khánh sơn hầu: vị có công
cấu tạo công đình, đã từng được tán
dương trong bia Đình Châu nói trên.
(10) Vọng hộ:
tộc họ danh tiếng.
(11) Vũ lộ:
mưa móc.
(12) Châu về Hợp
Phố: xin xem chú thích trang 42,
(13) Giai thành: phần
mộ.
(14) Quế hòe trăm
nụ: con cháu đông đúc.
(15) Sân Lai: Đời
nhà Chu, có Ông Lão Lai đã 70 tuổi, cha mẹ hãy còn. Một
hôm ông mặc áo ngũ sắc ra sân múa
rồi giả cách ngã, khóc như trẻ con, để làm
vui cho cha mẹ. Sân Lai: ngụ ý gia đình đông đúc
đoàn tụ.
(16) Gốc tử: xem
chú thích về “tử phần” trang 54. Trong truyện
Kiều có câu:
“Sân Lai cách mấy nắng
mưa,
Có khi gốc
tử đã vừa người ôm”.
(17) Tấc cỏ: Do
câu thơ của Mạnh Giao đời Đường:
Dục tương thốn thảo tâm, báo đáp tam xuân huy
= Muốn đem tấc lòng cỏ đền đáp ánh sáng
ba tháng xuân (vì nhờ có ánh sáng ấm áp của mùa Xuân, cây
cỏ mới xanh tươi, cũng như nhờ có công
ơn cha mẹ, con mới nên người).
“Liệu đem
tấc cỏ, quyết đền ba xuân” (Nguyễn Du).
(18) Lạc bang:
cảnh giới Cực lạc của Đức Phật
A-Di-Đà.
(19) Tô: phúc, vận
may.
LƯỢC
THUẬT
LỄ KHÁNH
THÀNH TỪ ĐƯỜNG
VÀ MỘ
TIỀN HIỀN BÙI TỘC
Những ngày đầu Xuân, quê
hương Vĩnh Trinh còn lành mạnh. Buổi sáng,
xóm làng ẩn khuất trong màng sương. Nhà
nhà vẫn còn bánh mứt và hoa mai rộn nở.
Từ đường Bùi
Tộc đã làm xong. Ngôi mộ Tiền Hiền
cũng được hoàn tất vào cuối năm Tân Mùi,
do sự hiệp lực của bà con đã xây dựng
giữa những ngày Đông mưa lạnh.
Cả Tộc đều mong
đợi lễ Khánh thành Từ đường và mộ
Tiền Hiền, dự trù sẽ diễn ra từ 14
đến 17-1-Nhâm Thân (1992). Ban Tổ chức
được đề cử gồm những bà con
hiện ở quê hương, với ý nghĩa tôn trọng
cội nguồn. Trước một cuộc lễ có tính
cách quy mô và quan trọng, mỗi người con cháu trong
Tộc đều ưu tư, lo lắng.
Cảm nhận được trách nhiệm
và danh dự chung, số bà con trong Tộc hiện ở Sài
Gòn đã hội bàn và cử bốn vị lo về quê
sớm, trước cuộc lễ độ 10 ngày,
để yểm trợ, đồng thời huy
động và tài trợ phương tiện di chuyển
cho khoảng 40 bà con khác, ở rải rác trong Nam, cùng về
dự lễ.
Khi về đến quê
hương, bộ phận yểm trợ nhận thấy
có một số trở ngại - từ ngoại cảnh
không thuận lợi đến tinh thần dao động
của bà con – tưởng chừng như không vượt
qua được. Mọi nhu cầu, tiện nghi
vật chất, mọi phương tiện đều khó
khăn, thiếu thốn!
Trước tình huống này, toàn thể bà con
đã nhất trí họp bàn liên tục 3 đêm để
ổn định tổ chức, củng cố tinh
thần, quyết tâm hoàn thành viên mãn cuộc lễ, vì danh
dự của Gia tộc, vì kỳ vọng của bà con, con
cháu ở khắp nơi nơi.
Như vậy, việc tổ
chức thực sự khởi đầu từ ngày
mồng 10. Chỉ trong 6 ngày, tất cả yêu cầu
phục vụ cho cuộc lễ đã hoàn tất với
kết quả:
- Một
lều dù tiếp khách với đầy đủ ghế
ngồi cho khoảng 150 vị.
- Một
nhà bếp cho 10 bếp nấu liên tục.
- Một
trại trần thiết để phục vụ tiệc
với số nhân viên phụ trách trên 30 người cả
nam lẫn nữ.
- Một
trại đãi tiệc đủ thiết trí 30 bàn tròn,
để dọn mỗi hiệp 300 thực khách.
- Một
bàn kiệu nghinh Tổ, cổng chào, cờ hoa, liễn
đối, trụ cờ, trụ pháo, cờ phương,
hoa kiểng.
- Cử
người phụ trách việc cất giữ nón, mũ,
dù, khay, quả v.v…, bố trí bãi giữ xe.
- Trần
thiết hoa mỹ và uy nghiêm 3 gian bàn thờ. Thiết trí các
bàn cúng đất.
- Mua
sắm bò heo tận Trà Kiệu, Mỹ Sơn, chuẩn
bị đội ngũ chuyên lo việc
tể sinh.
- Nấu
500 bánh rò.
- Hệ
thống âm thanh, ánh sáng trong và ngoài địa điểm.
- Dự
phòng máy điện.
- Thuê
mướn bàn ghế, chén bát, đặt mua bánh mì tận
Vĩnh Điện, Hội An.
- Sắp
xếp các ban nghi lễ, tiếp tân, đãi tân, nhà bếp,
vệ sinh, trật tự v.v…
- Mời
ban cổ nhạc, tập huấn các bộ phận
xướng lễ, đọc văn tế, các vai chánh bái,
bồi bái theo nghi thức cổ
truyền.
- Hợp
đồng việc nhiếp ảnh, quay phim…
Nhìn chung công việc
tổ chức lễ được hoàn tất đúng
kế hoạch vào trưa 16.1.
Theo chương trình đã
phổ biến, lễ Cầu siêu và Cầu an sẽ
được tổ chức ngày 14-1 tại Từ
đường. Nhưng vì có sự thay đổi
đột ngột ngoài dự kiến về địa
điểm, nên các trai lễ đã được cử
hành – cùng ngày – tại chùa Tỉnh Hội ở Hội An.
Số bà con ở Hội An, Đà Nẵng và một số
đại diện ở trên quê đã tập trung về
dự lễ suốt cả ngày. Quý vị Thượng
Tọa, Đại Đức, Tăng Ni của Tỉnh
Hội đã khai kinh, dâng sớ cầu siêu cho Cửu
huyền thất tổ, cầu an cho toàn thể bà con, con
cháu nội ngoại xa gần và bá tánh chúng sanh, ước
mong tất cả đều được đấng
Từ Bi gia hộ.
Ngày 15 và buổi sáng ngày 16-1, một đoàn –
đại diện Tộc – lo đi cúng dường
Thập tự, từ khu vực Hội An,
Cẩm Hà, qua thị trấn Nam Phước, lên Duy Xuyên và
về đến Lục thôn. Tiếp theo,
đoàn đến thăm các bà con trong Tộc già yếu,
neo đơn, nghèo khó mà tổng số là 50 vị và số
tiền làm tặng phẩm gần tròn 2 triệu
đồng.
Trước 14 giờ ngày 16-1, ban Tổ
chức tổng duyệt lại các phần hành và chuẩn
bị lễ cung nghinh Tôn linh Tiên tổ.
Một buổi chiều đẹp trời,
nắng ấm, trên đồng lúa xanh mượt mà, bà con
con cháu nội ngoại tộc Bùi, hàng ngũ chỉnh
tề, theo tuổi tác, y trang, kính cẩn theo sau linh
kiệu, xuất phát từ Từ đường, tiến
về mộ Tiền Hiền tại xứ Đại Tha.
Những lá cờ ngũ sắc đuôi
nheo, lọng đỏ, tiếng lễ nhạc, trống
chiêng vang lên thật huy hoàng và đẹp mắt! Niềm vui mọi người dâng cao, phấn
khởi, chan hòa những giọt nước mắt xúc
động. Tại mộ Tiền Hiền, sau lễ
cáo Đất đai, là lễ cung nghinh
Tôn linh Tiên tổ. Tiếng pháo mừng vui
rộn rã. Đoàn Nghinh hương
về đến Từ đường lúc 16 giờ.
Một lần nữa, sau lễ cáo Đất đai, là Lễ túc, an vị Tổ tiên.
Số con cháu tham dự khoảng trên 500 người.
Sau bữa cơm tối,
một số bà con tản mác về nhà người thân
tạm nghỉ. Số khác vẫn túc trực
để lo việc tế lễ từ 2 giờ khuya
đến 5 giờ sáng.
Trong thời gian này, sau diên cúng Đất,
cúng Khánh thành, là diên Chánh tế - theo nghi thức cổ
truyền - gồm có: Văn tế (Hán văn), Cung trí
Phổ hệ, Văn tế (Quốc văn), Lịch
sử cấu tạo và tái thiết Từ đường,
Hoài niệm Tổ tiên qua thi văn của con cháu. Tuy đông đúc, nhưng buổi lễ rất
mực trang nghiêm, trọng thể.
Sáng 17-1, ngay sau bữa điểm tâm
(khoảng trên 200 người) ban Tổ chức tăng
cường thêm, vào phần hành tiếp tân, nhiều anh
chị em trẻ, năng động để đáp
ứng nhu cầu tiếp đón và xã giao. Ngoài số bà con
ở địa phương, các bà con từ các nơi xa
như Sài Gòn, Vũng Tàu, Đồng Nai, Phan Rang, Hàm Tân, Lâm
Đồng, Đà Lạt, Ban Mê Thuột, Huế, Đà
Nẵng, Hội An, Cẩm Lệ, Tam Kỳ… và từ các làng
phụ cận cũng tấp nập kéo về. Tất cả đều được gắn
phù hiệu để phân nội ngoại và thế thứ.
Chúng ta còn hân hạnh tiếp đón các
vị Đại biểu các cơ quan, đoàn thể
địa phương, các Đại diện chư
Tộc bạn trong Lục thôn, các thân hữu trong thôn xóm,
các ban thợ mộc, thợ nề và các ban chuyên môn khác.
Mỗi phút, mặt trời lên cao, con
đường mương nước - lối vào Từ
đường - lại tràn ngập người đi. Tất cả đều nghiêm trang tụ về
địa điểm. Giờ phút này là
lúc mà mọi người đều dồn hết tâm
lực mình để hoàn tất nhiệm vụ. Anh
Bùi Nguyên Dư, được giao phận sự giới
thiệu và điều khiển chương trình, đã
mệt nhoài vì công việc.
Vào khoảng 8 giờ, phần
nghi thức hành chính bắt đầu. Theo phân bổ,
các anh Bùi Quang Lộc đọc Diễn từ khai mạc,
anh Bùi Bảy trình bày Quá trình phát triển của Gia Tộc,
cô Bùi Thị Đạt nói lên Cảm tưởng chung của
bà con, con cháu nội ngoại và anh Bùi Văn Bảy đọc
Lời cảm tạ quan khách.
Mục các cháu nhỏ dâng hoa
để tưởng niệm Tổ tiên vừa uy nghi,
vừa xinh xắn. Cũng có phần thi
lễ của các Tộc bạn. Đây
là một hình ảnh thắm thiết nhất, đã nói lên
sự quý trọng lẫn nhau trong tình lân lý, hương thôn
và cách ứng xử cao đẹp khó phai mờ trong tâm
hồn người dân Việt.
Trời hôm nay xuống
nhiều sương muối. Buổi sáng còn lạnh.
Các con cháu lần lượt vào lễ bái. Giờ phút này
không còn niềm vui nào vui hơn! Nhìn vào hương án, khói
trầm bay nghi ngút, những cổ bánh, mâm rượu, hoa
quả đủ màu của bà con khắp nơi dâng cúng
đã làm tăng thêm vẻ huy hoàng, lộng lẫy.
Các niên trưởng trong Tộc và ban
Tiếp tân đã đến mời quý vị khách cùng tham
dự tiệc rượu mừng vui. Số
hiện diện lên khoảng 1200 người. Để tỏ lòng kính trọng và ưu ái, những
tiệc đầu được dành riêng cho quan khách và con
cháu ngoại. Con cháu nội tiếp tục vào sau.
Thực đơn gồm có bò tái, xáo tái, bánh
mì, bánh rò, chuối, trà, thuốc và mỗi bàn một chai
rượu. Các tiếp viên nam nữ làm
việc tận tình, vui vẻ và lễ phép. Tiệc chót chấm dứt lúc 13 giờ.
Không có cuộc vui mừng nào là
thiếu pháo. Và cũng thể theo
yêu cầu của bà con, nhất là giới trẻ, số
pháo được sử dụng tương đối
nhiều. Trong đêm Chánh tế, ngoài pháo dây – dài hàng 10 m –
còn có pháo hoa đủ màu, thỏa mãn được niềm
hoan hỉ, nỗi ao ước lâu nay của con cháu.
Buổi chiều 17, các phần
hành lo dỡ trại và tổng kết số tiền
lạc cúng lễ Khánh thành (trên 3 triệu đồng).
Ngày 18-1, trong buổi sáng, ban Tổ chức
đã hoàn tất các khâu dọn dẹp, hoàn trả,
đền bù và tặng quà cho quý bà con đã góp công, giúp
sức bền bỉ cho đến giờ chót.
Sau lễ Khánh thành, có một phiên họp
để rút kinh nghiệm và tổng kết thu
chi.
Công việc gì, đã thực
hiện, thường không tránh khỏi ít nhiều
khuyết điểm. Nhưng qua dư luận thu thập được, bà con đều
mừng là ngoài những sơ sót thường tình, suốt
trong tiến trình gần trọn 4 ngày, cuộc lễ nhìn
chung đã đạt được kết quả mong muốn.
Nhân đây chúng ta không quên cảm ơn
tất cả những bà con đã nhiệt tình trong các công
tác của Tộc, cụ thể là đã đem hết tâm
trí, sức lực vào các việc như:
- tái thiết Từ đường.
- tu bổ phần mộ, nhất là mộ
Tiền hiền.
- tổ chức hoàn mãn lễ Khánh thành.
Chúng ta cũng chân thành tán dương
thiện chí của tất cả bà con nội ngoại, xa
gần đã hưởng ứng tích cực chủ
trương của Tộc, đã xung phong lạc cúng
xứng đáng mới có được thành quả
tốt đẹp như ngày nay.
Ngày xưa, lễ Lạc thành
Nhà thờ được tổ chức vào năm 1923.
Trải qua một cuộc bể dâu, năm
1992 này, chúng ta lại khánh thành Từ đường.
Từ đây, trên nền móng cũ, giữa đồng lúa
bao la, bát ngát, mỗi lần con cháu về thăm cố
hương, lại được thấy cái tổ
ấm muôn đời của Gia Tộc vẫn rạng
rỡ, uy nghi.
Cái cảnh: “Lạnh
lẽo thềm rêu cỏ ngập tường” không còn
nữa.
Chúng ta khỏi ngậm ngùi than thở:
Tôi
đứng bên thềm hoang lạnh cũ,
Nghẹn
ngào không nói mắt rưng rưng!
Và từ nay bà con chúng ta:
Ân trước,
tình sau, nghĩa vẹn toàn,
Dặm dài con cháu viết thêm trang.
Tô
bồi gia tộc cùng ra sức,
Rực
rỡ trời Xuân hoa hướng dương
Minh
Tuyền.
BC. Xin phép trích các câu thơ trên
của Ô. Bùi Hoàn và Ô. Bùi Văn Nam Sơn.
PHỤ LỤC
THI VĂN SÁNG TÁC
CỦA
BÀ CON NỘI NGOẠI
Nỗi quê
nghĩ một hai điều ngang ngang
Nguyễn Du
CẢM
ĐỀ
Kỷ
niệm ngày Khánh thành Từ đường
Ngang
qua đấy…
Ai cười? Ai
khóc!
Nhà
Từ đường – hoang địa trơ vơ!
Thế
là hết! Trải cơn gió bụi,
Mỗi
Xuân Thu, giỗ Tổ vắng lâu rồi!
Gió
Gò thị, Đồng Nam lộng thổi,
Tịch liêu buồn. Nền lạnh trải bao trăng.
Ngậm
ngùi thương, thổn thức bên lòng,
Bởi
ly loạn “Tang điền thương hải”.
Ba
sáu năm mưa dầu nắng dãi,
Cháu con còn tản mạn nơi nơi.
Lòng
thương Tổ nhớ Tông cao vọi,
Ao ước mong tái thiết Từ đường.
Vui
mừng thấy gió hiền thổi rộ,
Nhà thờ nay dựng lại nền xưa.
Viên
đá cũ ấm lòng chào ngói mới,
Trụ
biểu mừng hết thuở cô đơn.
Mạch
hồ thơm gắn chặt mối
đồng tâm,
Đàn
con cháu thi công lo phận sự.
Ngành
Khánh thành, “Châu nhi phục thỉ”,
Hội trống chiêng giục giã gọi nhau về.
Để
Sài giang không lạnh mặt ủ ê,
Cho Tào lãnh đời đời thêm sừng sững.
Ngày
Khánh thành - niềm vui tâm tưởng,
Dẫu
đơn sơ nghi ngút khói trầm
hương.
Nhưng
tha thiết vì tràn đầy ý nguyện,
Nối ngàn xưa tiếp mãi với ngàn sau.
Trong
thân tộc dù kẻ còn người khuất,
Đạo lý xưa luôn vẫn giữ cội
nguồn.
Giờ
này đây, sao nói hết nguồn cơn?
Con
xin đốt nén hương lòng quy phục,
Nguyện
cầu xin Trời cao gia ân phúc,
Nghinh Tổ tiên về an vị án linh xưa.
Quê
Bình Khương đá sỏi nắng cùng mưa,
Mãi
hội nhập khí thiêng Bùi môn trường cửu!
Minh
Tuyền
BÙI PHAN
Lục Thôn từ trước đến nay ơi !
Tình nghĩa Bùi Phan đã mấy
đời.
Ngoại Nội trăm năm còn nhớ hết,
Họ hàng nghìn thuở vẫn tìm
chơi.
Phong lưu, phú quý đâu ngoài nước,
Khoa học, văn chương có đủ nơi.
Cùng với Lục Thôn gồm các Tộc,
Giữ cho bản lĩnh sáng ngời ngời.
Phan Biển
(Ngoại tôn)
SẼ VỀ,
NGOẠI ƠI! …
Chiều
chiều ra đứng ngỏ sau,
Ngó về quê
mẹ, ruột đau chín chiều.
Ca dao
Lúc còn bé,
được theo gót mẹ,
Về ngoại
gia ăn Kỵ, rất mừng.
Thôi thì sửa
soạn tưng bừng:
Nào là tắm
rửa, nào chưng áo dài…
Đường
thôn dã, chẳng ai còn lạ:
Rộng vài gang,
hữu tả ruộng đồng.
Xanh xanh sóng lúa
mênh mông,
Người
như say sóng, đòi bồng, mẹ la.
Qua cầu
Cận thật là khiếp sợ,
Được
gia nhân cõng ở trên lưng.
Tay ôm chặt
cổ, đôi chân,
Quắp vào
trước bụng, xem chừng chưa yên.
Tre cầu nhún,
khi lên khi xuống,
Nhắm
mắt mà cảm tưởng vẫn ghê.
Tai nghe ọt
ẹt thân tre,
Rợn rùng
chị muốn đòi về đi thôi!
Con khe rộng
chỉ đôi ba trượng,
Gây hãi hùng
những tưởng đại dương.
Qua rồi,
mừng rỡ lạ thường,
Được
ngồi trong thúng, dặm đường còn xa.
Xong Bàn Thát,
rồi qua Rộc Sách,
Nhà Ngoại kia! Còn cách không xa.
Ao sen lác đác
những hoa,
Tường cao,
cổng rộng thật là trang nghiêm.
Sân lát đá,
bực thềm cao rộng,
Nhà mênh mông,
lồng lộng cột cao.
Người
người đông đảo, ồn ào,
Mình đành khép
nép, chẳng chào, chẳng thưa.
Bà Ngoại
gọi: “Lại đây coi tướng,
À
chú này xem bướng lắm đây.
Nhưng mà
được cái mặt mày,
Trán cao, tai lớn là tay… chọc trời…”
Nay cháu đã
bảy mươi ngoài lẻ,
Nơi tha
hương, nhớ mẹ, nhớ quê.
Tâm tư tẩu
quốc não nề,
Vá trời cho
kín, sẽ về Ngoại ơi!
Ảo
Giản Phan Ngô
(Ngoại
tôn)
TẢN
MẠN…
Nói đến xây dựng
Từ đường, phải nghĩ đến phần
tinh thần của công trình: đó là liễn đối
trang trí cơ sở kiến thiết.
Trước hết trong
tầm cỡ quốc gia, khi viếng thăm đền
thờ Hùng Vương, khách viếng đã từng chiêm
ngưỡng câu đối lừng danh:
Thác
thủy khai cơ, tứ cố sơn hà qui bản
tịch;
Đăng
cao vọng viễn, quần phong la liệt tự nhi tôn.
Tạm dịch:
Mở
lối đắp nền, bốn mặt non sông châu về
đất nước;
Lên
cao nhìn rộng, nghìn trùng đồi núi trông tựa đàn
con.
Câu đối nói lên
được vị trí đền thờ trong một
cảnh quan hùng vĩ và biểu
dương rõ nét công lao dựng nghiệp của vua Hùng.
Trong tầm
cỡ một tỉnh - tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng –
Gò Nổi của huyện Điện Bàn là đất khoa
bảng. Trước thời kháng chiến, ai đi
qua trước nhà thờ một họ Phan ở trung
độ Gò Nổi cũng thầm phục tính hào hùng
của câu liễn trụ:
Tố
Nam Ảo Giản, Tố Bắc Vinh Dương, thử
địa tùng lai danh tứ hải;
Như
thạch Điện Bàn, như qua Diên Phước, hồng
cơ thiên cổ ngật trung châu.
Ảo Giản,
Vinh Dương là hai địa danh ở Trung Quốc
chỉ nơi xuất xứ của họ Phan. Điện Bàn, Diên Phước là phủ
Điện Bàn, huyện Diên Phước, chỉ nơi
tọa lạc của Từ đường.
Câu đối
nhắc đến nguồn gốc của tộc Phan và quy
hoạch rõ vị trí của nhà thờ.
Chuyện kể
rằng một hôm tộc Phan nói trên cho đem lễ
vật đến nhà một vị Phó bảng trong họ
để xin một câu đối trụ biểu. Ông
Phó bảng hì hục một buổi mới sáng tác
được một câu. Cậu con trai đi chơi
về, đọc câu đối của cha và xin thay
bằng một câu khác. Trong một thời
gian ngắn, cậu trình cha xem câu đối như trên.
Vị Phó bảng tự hủy câu đối của mình và
dùng câu đối do cậu con vừa sáng tác…
Câu đối
trụ biểu ấy, tuy đầy hào khí, nhưng dầu
sao cũng thiếu khiêm tốn, nếu không muốn nói là
hách dịch.
Nay xin khách viếng 1 nhà
thờ khác, cũng ở Gò Nổi, cách nhà thờ họ
Phan trên đây chưa đầy 3 cây số. Khách sẽ
đọc:
Hiếu
trung kinh sử gia điền bửu;
Đạo đức văn chương thế
đẩu sơn.
Câu đối nói
lên được họ này đời đời dùi mài
kinh sử và có nhiều nhà mô phạm đã từng đào
tạo nhiều thế hệ môn đồ. Tác giả câu đối ấy là một vị
Cử nhân Hán học đã từng giữ chức
Đốc học.
Được tin họ
Ngoại xây dựng lại Từ đường tại
địa điểm cũ, cho phép tôi bắt chước
người xưa cũng mừng một câu đối,
chỉ e lực bất tùng tâm.
Đối rằng:
MỪNG
HỌ NGOẠI XÂY LẠI NHÀ THỜ,
NỀN
MÓNG CŨ ĐỜI ĐỜI KIÊN CỐ;
CHÚC
ÔNG BÀ CÓ NƠI HƯƠNG KHÓI,
CON
CHÁU NAY LỚP LỚP HANH THÔNG.
Phan
Khôi
(Ngoại
tôn)
CHÂU VỀ HỢP PHỐ
Hàn gắn chiến tranh đổ nát này,
Từ đường tái thiết mỹ quan thay !
Đền cao nghiêng bóng bên đồng lúa,
Mái đỏ khoe màu giữa
rặng cây.
Hương khói muôn đời luôn ấm cúng,
Cháu con năm Phái mãi vui vầy.
Dấu xưa cảnh cũ nay nhìn lại,
Hợp Phố châu về nghĩ cũng hay
!
Bùi Tấn
THỜI THƠ ẤU
Con nhớ chiều Thu tựa bức mành,
Gió hiu hiu thổi cửa cây chanh (1)
Nắng vàng còn đọng trên tàu chuối,
Ngọn gió hoàng hôn, cảnh thái bình.
Con nhớ những khi học Huế về,
Sáo diều dịu vợi cánh
đồng quê.
Chuồn chuồn bay lượn như mừng
đón,
Tràn ngập niềm vui, biết nói gì?
Con nhớ ngày Đông rỉ rả mưa,
Đường làng lầy
lội, cảnh tiêu sơ.
Quây quần bên Ngoại, quanh lò sưởi,
Tai lắng nghe Bà kể chuyện
xưa.
Con nhớ hàng mai nở trước hiên,
Mùi trầm ngào ngạt cả nhà
trên.
Cổ bàn, bánh trái mừng Xuân mới,
Xác pháo đỏ tươi, rực cả thềm…
Bùi Luân
(1) Cửa cây chanh: Bên cửa có
cây chanh lớn. Nhà có nhiều cửa.
Để dễ phân biệt, thường gọi: cửa
cây chanh, cửa cây mai, cửa cây bông trang v.v…
VIỆC KHÓ
ĐỀU NÊN
Từ
đường tái thiết đề ra,
Bà con
họp lại thông qua quy trình.
Tìm
người phụ trách tận tình,
Theo
đòi công tác chấp hành thủy chung.
Anh
TÌNH, anh TẤN một lòng,
Cùng
mong góp sức thi công chu toàn.
Anh
ANH tài chánh sẵn sàng,
Chuẩn
chi sổ sách rõ ràng trước sau.
Trưởng
ban, anh KÍNH được bầu,
Họa đồ đã có anh CHÂU vẽ rồi.
Phó
ban phụ tá một đôi,
Chú
VINH, anh TRIẾT đồng thời chung
lo.
Vật
tư mọi thứ dự trù,
Khen
thay khéo tính chẳng dư, đều vừa.
Giữ
gìn biên bản hồ sơ,
Ấy
là anh DIỆM trước giờ quen tay.
Khi
cần có kẻ đổi thay,
Chú NGÀ
trở sự, có rày chú TÂN.
Nhờ
tìm thấy thợ xa gần,
Công trình tái thiết mười phân vẹn
mười.
Trùng
tu mộ Tổ kịp thời,
Mỹ
quan, kiên cố, cơ ngơi hoàn thành.
Trước
đây Phổ hệ tiến hành,
Bổ
sung, tu chính công trình biết bao !
Phái,
chi, thế thứ thấp cao,
Bóng
hình, tài liệu dồi dào sọan biên.
Mới
hay gắng sức cho bền,
Dẫu
là việc khó đều nên, ngại gì ?
Nôm
na chắp nhặt lời quê,
Góp bài
KỶ YẾU, chung vui khánh thành.
Bùi Hốt
HƯỚNG
VỀ QUÊ NGOẠI
Con nay tuổi
sắp cửu tuần,
Nhớ
về quê Ngoại tưởng chừng còn thơ!
Nhớ thời
dĩ vãng xuân tơ,
Về
thăm quê Ngoại, canh mơ rộn ràng.
Vĩnh Trinh một
buổi nắng vàng,
Thu
Bồn lộng gió mơ màng hồn thơ…
Xa xưa
ngỡ tưởng bây giờ,
Bao năm phiêu bạt, tuổi thơ suy mòn.
Xa xôi nghìn
dặm nước non,
Hướng về quê Ngoại hương hồn
Tổ tiên.
Khánh thành ngày
lễ thiêng liêng,
Tôn
đường tái lập, khắp miền phấn
hưng.
Trang nghiêm
hương khói không ngừng,
Pháo
chào dòn dã, chuông mừng ngân nga.
Cúi đầu
khấn vái Ông Bà,
Già
nua xin gắng nôm na mấy vần.
Hoàng
Ấp
(Ngoại
tôn)
NHỚ QUÊ
NGOẠI
Đất
trời một cõi bao la,
Vĩnh Trinh quê Ngoại thiết tha nghĩa tình.
Khắc
ghi trong dạ bóng hình,
Nghìn năm khai khẩn công trình dựng xây.
Bao
nhiêu thao thức đêm ngày,
Bấy nhiêu tình cảm đắp xây mặn
nồng.
Miệt
mài những ngóng cùng trông,
Khói
hương thờ tự Tổ Tông sum vầy.
Từ
đường Bùi Tộc hôm nay,
Nguy nga trang trọng ngất ngây lòng người.
Trong
niềm xúc động khôn nguôi,
Xa gần
con cháu tươi cười hân hoan.
Cúi
đầu thắp một nén nhang,
Hướng về quê Ngoại muôn vàn kính yêu.
Hoàng Liên
(Ngoại tôn)
TIỀN NHÂN
TRUYỀN HẬU NHÂN KẾ
Người đời trước nói là có
căn cứ. Sau một thời gian, vật
chứng bị lưu lạc, thất thoát.
Người sau nói lại dù đúng sự thật, nhưng
có người thiếu tin, cho việc ăn cơm mới nói chuyện cũ là khẩu
thuyết vô bằng, nên ít ai quan tâm đến.
Qua thời gian nghiên cứu Phổ Hệ,
tôi xem bia mộ Tiền Hiền, thì thấy mặt
trước, bên cạnh lòng linh, có hàng chữ Hán: Cổ Thăng Ba phủ, Ba Châu
thuộc, La Tháp châu, Bình Khương thôn. Và trong bài minh
ở mặt sau bia, lại có chữ: Mộ vu Đại Tha, …
Đại Tha qui tàn.
Sau khi tìm hiểu, tôi xin mạo muội
đóng góp bài này vào tập Kỷ Yếu nhân dịp lễ
Khánh thành Từ đường của Tộc, với
những điều mà tôi đã nghe, đã thấy và đã
biết về quê ta ngày trước. Nếu có
điều gì sơ sót, xin Quý Bà con vui lòng chỉ vẽ và
bổ sung cho.
Phủ
Thăng Ba – đã có từ giữa thế kỷ XV -
tức là Quảng Nam-Đà Nẵng ngày nay. Nhà Sử
học Lê Quý Đôn đã viết: Phủ Thăng Ba phía
Đông là cửa Đại Chiếm, có Cù lao Chàm, từ
bờ ra khơi đi vài canh thì đến; phía Nam là
phủ Quảng Ngãi có Cù lao Ré, có xã Vĩnh An; phía Bắc
giáp Hóa Châu, có núi Ngự Bình; phía Tây rừng núi trùng
điệp, giáp Chân Lạp.
Thuộc Ba Châu
– theo tham khảo - gồm có Duy Xuyên, Điện Bàn, Hội
An và một số xã phía Đông của Đại Lộc,
có tháp Bằng An, tháp Mỹ Sơn, trấn thủ Trà
Kiệu của người Chàm ngày trước, có bàu
Thạch Bộ, có sông Bến Đền mà các cụ già
thường nhắc đến.
Châu
La Tháp là khu vực miền Tây Duy Xuyên, sông núi hai bên bao
bọc. Ở Trà Nê (Rộc Khế), ở Lầu Ngà
(Khe Lấp), ở Cồn Hường (Bàu Ấu) có lâu
đài của người Chiêm Thành mà di tích còn lại
như nền gạch ở Bồ Đồng (Bàu Gai), Ngõ
Tre, Gò Tháp…
Thôn
Bình Khương có xứ Chà Rang, Chà Là… nay gọi là
Vĩnh Trinh. Người đến khai
cơ lập nghiệp đầu tiên là Tiền nhân của
hai tộc Bùi và Đào.
Lục thôn - gồm có 6 thôn: Lệ Trạch,
Vĩnh Trinh, Thanh Châu, Cổ Tháp, Cù Bàn và An Lâm – là nơi con
sông bồi lấp, nên khi đào giếng, có người
nhặt được dây neo, ván thuyền còn sót
dưới lòng đất.
An Lâm là trung tâm chính trị, văn hóa,
thương mại, có Đình Châu (đình chung
của 6 thôn), có chợ La Tháp, có trường học.
Từ trước thời Cảnh Hưng, tộc Bùi
đã có tên tuổi ở nơi đây, bút tích trên bia
Đình Châu còn để lại: Thiết
duy Bổn Châu tiền đợi Cai phủ Khánh Sơn
hầu Bùi Quý công cấu tạo công đình…
Và xứ
Đại Tha - tục gọi là Gò Sỏi – là nơi
thượng đồi hạ trũng. Ở
Gò Sỏi có loại son màu đỏ thắm. Các
Thầy đồ và Nho sinh hay tìm đến để
vừa ngắm cảnh gò suối thiên nhiên vừa nhặt
son đem về để chấm bài hay phóng chữ cho
học sinh nhỏ tập đồ theo.
Như vậy Ngài Tiền Hiền Bùi
Đại lang húy Tấn Diên và Ngài Cao cao
tổ Bùi Tôn linh quý công húy Tấn Trường đã
chọn vùng này để an cư lạc nghiệp; con cháu
đã nối gót cha ông dĩ
nông vi bổn. Tiền nhân đã tiến
dần qua bờ suối phía Nam, khai phá, trồng trọt
nên có địa danh Đồng Nam và lập ra các xứ
Đồng Ngạch, Bàu Cùng.
Xã hiệu Bình Khương đã theo thời gian lần lượt
đổi thành Bình Thuận và sau lại thành Vĩnh Trinh.
Đến triều Gia Long, với sự
tăng cường trị an, phát triển giao thông, khai thác
tài nguyên, hai con đường hương lộ: Đình
Châu đi Châu Mưu (qua xứ Đại Tha), Đình Châu
đi Dương Thông (qua giữa Vĩnh Trinh) đã
được thiết lập để phục vụ
quân lính ở trại, quản lý nhà lao. Có lẽ từ đó mà xuất hiện những
địa danh Đồng Trại, Gò Lao chăng?
Dọc theo trục
đường hương lộ ở Vĩnh Trinh, nhân
dân lần lượt dựng lên: đình, chùa, am, miếu
huy hoàng. Xứ Đồng Ngạch có một
cây đa cao bên đường. Một nhà Nho, trên
đường đi trẩy hội, bị cảm
nắng, nghỉ lại nơi gốc đa, không may qua
đời. Dân làng lập miếu phụng
thờ kỷ niệm mà người địa
phương thường gọi là miều Ông Nghè. Lúc bấy giờ, Vĩnh Trinh trở thành trung tâm
kinh tế. Trên đà phát triển, xe
cộ (xe trâu) vào ra tấp nập, đồng bào các nơi
khác kéo đến ở, hình thành thêm một số tộc
bạn mới nữa.
Vĩnh Trinh là một thôn có đất
rộng, phì nhiêu, ở phía Nam có rừng núi giàu tài nguyên, có
nguồn nước chảy vô tận, nên dưới
thời Bảo Đại, người Pháp đã cho xây
đập Vĩnh Trinh mà nước chứa có thể
tưới được ruộng đất của
mấy thôn lân cận. Sau ngày hòa bình vãn hồi
(1975), Chính quyền lại cho cơi bờ đập cao
thêm để tăng cường vấn đề
thủy lợi một cách đáng kể.
Ngày nay Từ đường Bùi Tộc chúng
ta được tái thiết huy hoàng trên nền móng cũ
tại nguyên quán Vĩnh Trinh, có mương thủy lợi
chảy dọc bên rào với chiều dài thẳng tắp,
có thác nước rì rào, có cầu vượt khe, hai bên
bờ là đường đi qua lại rộn rịp
hơn xưa. Ở nơi đây còn có cây cao
bóng mát với đồng lúa xanh, khách qua đường ai
mà chẳng thích dừng chân ngoạn cảnh.
Bùi Khiêm
HỒN QUÊ
Đoái trông muôn dặm tử phần,
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa
xa.
Nguyễn Du
Bốn bể năm châu khắp nẻo
đường,
Tử phần muôn dặm nặng
tình thương.
Cần lao lập nghiệp noi
truyền thống,
Hiếu thuận tề gia giữ
kỷ cương.
Ơn Tổ chở che luôn thịnh đạt,
Phúc nhà nhuần gội thảy an
khương.
Từ đường nay có nơi hương khói,
Vơi bớt hồn quê nỗi vấn vương
!
Bùi Thạnh
XA QUÊ
Trăng
treo đầu núi trắng ngần,
Biển khơi
sóng vỗ, ì ầm bao la.
Quê người
lạc bước mình ta,
Chạnh lòng
nhớ nước non xa nghìn trùng!
Bốn bề
đồi núi chập chùng,
Cỏ
cây có thấu nỗi lòng ta chăng?
Bùi
Như Hải
1979
CẢM TÁC
Nhân ngày Khánh thành Từ
đường
Xem
phim thấy cảnh, thấy người,
Nhớ
quê hương, thấy ngậm ngùi lòng ta !
Ngày
về chắc hẳn không xa,
Tha
hồ chiêm ngưỡng ngôi nhà Tổ tiên !
Bùi
Như Hải
1992
BÙI GIA VĨNH
THẾ
Phúc nhà con cháu gội xa gần,
Nhân đức trau dồi mỹ
thiện chân.
Nghiên bút trai noi hàng mặc khách,
Hạnh tài gái học bực danh
nhân.
Cần lao bền chí gương muôn
thuở,
Tiến thủ ra công tiếng
bội phần.
Lăng mộ, Từ đường đều tái
thiết,
Nước nguồn, cây cội,
niệm thâm ân.
Nước nguồn, cây cội, niệm thâm ân,
Trước án hương trầm
đảnh lễ dâng.
Khấn nguyện tiên linh tròn đạo lý,
Phụng thờ tổ phụ
vẹn nhân luân.
Non cao bát ngát tình gia tộc,
Bể rộng mênh mông nghĩa
phụ thân.
Vật đổi sao dời, nhân đức trọng,
Phúc nhà con cháu gội xa gần.
Thanh Tâm Bùi
Thị Thu
ĐỀN TIỀN
HIỀN HOÀI CẢM (1)
Ba mươi năm lẻ dạ nào nguôi,
Nhìn cảnh Đền xưa, những ngậm ngùi !
Hoa biểu không còn mơ bóng hạc,
Đình giai thôi hết đón trăng thu.
Trơ vơ tường đổ
rêu tràn phủ,
Quạnh quẻ nền hoang
cỏ lấp vùi.
Dâu bể đổi dời, đời ngán nỗi,
Lòng thương Tiên tổ biết sao vơi
!
Vĩnh Xuyên Bùi Văn Giải
(1) Phỏng dịch bài ĐỀN TIỀN HIỀN HOÀI
CẢM ra Hán văn:
Vĩnh Xuyên Bùi Văn Giải
Chú thích:
Cố vọng: đoái trông, nhìn
lại.
Huy: ánh sáng mặt trời.
Phong: phủ.
Nhược: yếu.
Ngõa giải: ngói đổ.
Đài: rêu.
Muộn: trong lòng không vui.
MỪNG KHÁNH THÀNH
TỪ ĐƯỜNG
MỪNG Xuân phấn khởi
rượu lòng say,
LỄ tạ
Trời cao với Đất dày.
KHÁNH hạ Tổ đình hoa pháo
nổ,
THÀNH toàn Lăng
mộ khói trầm bay.
BÙI gia khương thịnh, non ân
thẳm,
TỘC Phái phồn vinh, bể phúc
đầy.
TỪ trước bao đời
công đức gội,
ĐƯỜNG
thênh thang tiến khắp Đông Tây.
Vĩnh Xuyên Bùi Văn Giải
QUÊ TÔI
Chiến tranh tàn phá đã trôi qua,
Hình ảnh tan thương cũng xóa nhòa.
Phần mộ chỉnh trang thêm diễm lệ,
Từ đường tái
thiết thật nguy nga.
Sông Thu(1)
nước chảy, dòng lai láng,
Rừng Bạc(2) trăng soi, bóng
thướt tha.
Sóng gợn lăn tăn trên thảm
lúa,
Sáo diều dịu vợi bóng chiều sa.
Bùi Ngọc Kính
(1) Sông Thu Bồn,
(2) Rừng Bạc Hà.
HUY HOÀNG
Dùng những chữ trên các Khám thờ và Hoành phi.
Tiền
Hiền (1) miếu vũ đẹp cơ ngơi,
Uống
nước nhớ nguồn (2) tạc dạ thôi!
Rạng
rỡ Ông Bà (3) về mọi mặt,
Dồi dào
con cháu (4) trải bao đời.
Giá trong
ngọc sạch (5) nhờ ơn Tổ,
Cây trước hoa nay (6) hợp lẽ Trời.
Phúc ấm
đượm nhuần chung cả
Tộc (7)
Nghĩa dày
luôn nghĩ (8) hỡi ai ơi!
Bùi Ngọc Kính
Xuất xứ:
(1) Hai chữ lớn trên Khám giữa
(2) Ẩm hà tư nguyên
(3) Quang tiền
(4) Dụ hậu
(5) Băng thanh ngọc nhuận
(6) Tích thọ kim ba
(7) Tổ ấm đồng triêm
(8) Thâm tư hậu trạch
MỪNG
LỄ KHÁNH THÀNH TỪ ĐƯỜNG
VÀ MỘ
TIỀN HIỀN BÙI TỘC Ở VĨNH TRINH
Nhâm Thân, mười bảy, tháng giêng lành,
Con cháu
gần xa dự Khánh thành:
Phần
mộ Tiền Hiền xây tráng lệ,
Từ đường Tiên tổ vẻ tinh anh.
Vườn
xưa chăm bón cây sum lá,
Gốc cũ bồi tô trái trĩu cành.
“Uống
nước nhớ nguồn” luôn tạc dạ,
Vĩnh Trinh Bùi Tộc mãi lưu danh.
Nguyễn Công Trợ
(Nghĩa tế Ô.B. Bùi Thường)
QUẢ
TỐT NHÂN LÀNH
Dù cho vật
đổi với sao dời,
Đạo lý từ xưa chẳng khác sai.
Nội
ngoại hai bên tình vẫn thắm,
Bà con năm
Phái nghĩa nào phai.
Phúc dày
hậu thế luôn bền vững,
Ơn cả
Tiền nhân mãi sáng ngời.
Quả
tốt nhân lành bao thế hệ,
Vườn
xuân một cửa tiếng muôn đời! (1)
Bùi Anh Dũng
(1) Trong Truyện Kiều có câu: Vườn xuân một
cửa để bia muôn đời.
CÂU
ĐỐI MỪNG LỄ KHÁNH THÀNH
PHỔ HỆ CHÍNH TU,
HÒE QUẾ XUÊ XOAN,
CON THẢO CHÁU HIỀN,
NHỜ PHÚC CẢ;
TỪ ĐƯỜNG TÁI THIẾT,
KHÓI HƯƠNG ẤM ÁP,
NGUỒN CAO DÒNG THẲM,
GỘI ƠN DÀY.
Bùi Anh Trí
CHUYẾN
THĂM QUÊ ĐẦU TIÊN
Không có đất nào dịu hiền bằng
Đất Tổ.
Homère
Đầu tháng tám ở miền Trung,
khí trời vẫn còn oi ả! Một ngọn
gió thổi qua đã đầy lùi không khí nặng nề
của toa tàu đầy ắp cả người và hành lý.
Tiếng còi xe lửa hụ và âm thanh
của bánh sắt cọ dồn dập lên đường
rầy của Cầu Chiêm Sơn báo cho tôi biết là tôi
đã gần đến quê nhà. Cầu này bắt ngang qua
một phụ lưu của sông Thu Bồn –
được xây từ thời Pháp – đánh dấu
địa phận quê tôi trên đường xe
lửa xuyên Việt, từ Nam ra Bắc.
Dưới
chân cầu, đàn trẻ mục đồng đuổi
bắt, nô đùa, quên hết mọi việc quanh mình. Lũ trâu
lặn hụp, ngâm mình trong nước, nằm thư giản sau lúc kéo cày mệt nhọc. Dòng sông lặng lẽ trôi, không để ý
đến những đám bèo nhấp nhô đây đó.
Những thửa ruộng vuông vắn cứ
liên tiếp nối nhau. Xa xa, dãy núi
đất xám sẩm kéo dài như trấn thủ, bảo
vệ những cụm đồi nhỏ núp dưới
mấy rặng cây xanh. Trên nền dãy núi Trường
Sơn bao la và mờ nhạt, nhô lên một mỏm núi cong
như mỏ gà thường được gọi là Hòn
Tàu (Tào sơn) hay núi Quắp. Theo lời cha tôi, nếu
đi từ xa đã thấy hòn núi đặc biệt
đó, thì tức là đã trên đường về quê
nội tôi: Vĩnh Trinh. Những cảnh
về quê nhà thường được cha tôi tả qua
các mẫu chuyện trước đây từ từ
hiện ra trên khung cửa của toa tàu, khiến tôi bồn
chồn, man mác. Đây là những hình
ảnh quê tôi nhìn từ toa tàu, nhân chuyến về thăm
quê lần đầu tiên trên đời.
Xe lửa ngừng tại ga Đà
Nẵng. Chúng tôi nghỉ đêm tại nhà cô dượng tôi
để sáng mai lấy vé xe đò
về quê. Quê tôi chỉ cách Đà Nẵng khoảng 30 km,
nhưng vì đường giao thông khó khăn, nên mỗi
ngày chỉ có vài chuyến xe khách vào ra.
Cùng với cha tôi và chú Tình, tôi đi chuyến xe
đò Kiểm Lâm (Duy Xuyên). Giữa buổi trưa hè, chúng
tôi ngồi ép như nem trên chuyến xe
hàng cũ kỹ. Sức nóng của hơi người và
hàng hóa ngổn ngang làm cho không khí trong xe
càng thêm ngột ngạt, nhất là mỗi khi xe dừng
lại để cho khách lên, xuống. Chú Tình thường
hay về quê nên chú rất rành đường đi
nước bước. Qua mỗi
đoạn đường, Chú thường giới
thiệu những địa danh và những giai thoại
liên hệ mà Chú kể cho nghe đã giúp tôi quên bớt
những nỗi nhọc nhằn.
Xe vượt
qua trường PTTH Duy Xuyên. Những bông
phượng đỏ rực không che được
cảnh trường hoang vắng của 3 tháng nghỉ hè.
Xe lạch cạch chạy dừng, dừng
chạy. Hơn ba tiếng trôi qua… Trời
đã ngả về chiều. Ánh nắng
dịu dần, mùi lúa và không khí đồng quê khiến tôi
cảm thấy dễ chịu hơn. Xe
tiếp tục chạy ngoằn ngoèo để tránh
những “ổ voi” trên đường đất
đỏ đã bị xói mòn từ mùa mưa trước.
Đến chợ La Tháp xe
dừng để bỏ hàng. Những sạp
tre xiêu vẹo nối liền với những giỏ
cần xé trống trơn chất như núi. Những mảnh lá chuối vung vãi bên lều.
Lác đác một vài bóng người quảy
gánh nhẹ bỗng lững lờ đi qua. Lúc này tôi mới mục kích và hiểu
được ý nghĩa “cảnh chợ chiều”. Cuối cùng chúng tôi xuống ở Cù Bàn, nghỉ
tại nhà cô dượng Thức, em của chú Tình. Xuống
xe, tôi như được tự do
cả thể xác đến tinh thần. Được chú
Tình dẫn ra tắm sông ở bến Ông Cửu ngày
trước, tôi lội giữa dòng nước mát trong lành,
trút hết những mệt nhọc trên chuyến xe “lịch sử”. Sông
nước như nâng niu, bồng ẵm tôi, như mừng
đứa cháu từ nơi xa mới về.
Bữa cơm đầu tiên của
tôi ở nhà quê sao ngon quá! Từ dĩa rau sống, miếng
cá kho, cái chả trứng, đến bát canh cải, món gì
tôi cũng đã từng ăn rồi,
nhưng có lẽ chưa bao giờ ngon như thế! Sau
bữa cơm, cha tôi ngồi bàn chuyện với ông thợ
nề - do Dượng Thức giới thiệu -
để lo việc dựng bia Bà
nội tôi. Ông thợ già, tóc bạc phơ,
chùm râu dài tới ngực, ngồi mé bên ghế, với
điều thuốc cháy nửa chứng cùng một chén
rượu nhỏ nhấp môi, dưới ánh đèn
dầu bập bùng như thôi miên tôi. Mọi
tiểu thuyết, bài văn tả cảnh miền quê mà tôi
từng học đã không ghi được hết
những hình ảnh sống động đang diễn ra
trước mắt tôi. Tôi mỉm cười thỏa
mãn, như đã khám phá ra một điều gì mới
lạ: “Cuộc sống thanh bình, tĩnh mịch của
đồng quê”.
Sau những
ngày đường, tôi ngủ như chết. Mặt trời to tướng sừng sửng trên
cửa sổ mới đánh thức tôi dậy. Mọi người đã ra đồng. Sau
bữa điểm tâm, tôi được cha tôi và chú Tình
dẫn đi nhiều nơi, lần lượt từ
mộ Tiền Hiền, mộ Bà Mả Vôi, mô Ô. Ngũ
Phẩm, đến mộ Ô. Thị, mộ Ô. Mả Đá.
Đến mỗi nơi, tôi được
biết thêm về cuộc sống ngày xưa. Trong khi
cha tôi ngồi ghi lại những câu đối, Sắc
phong chạm ở mặt sau bia mộ Ô. Thị, để
bổ túc vào Phổ Hệ, tôi vào nghỉ chân ở nhà bên
cạnh. Mặc dù ông chủ nhà chưa gặp tôi bao
giờ, nhưng ông ta xem tôi như người quen thân,
khiến tôi vô cùng xúc động, ghi nhận
được một khía cạnh đặc biệt
của nếp sống ở nông thôn: tình cảm. Cuộc sống bận rộn, máy móc của
đô thị ngày nay đã quên lãng khía cạnh đó
chăng?
Cùng với
lời hướng dẫn và giải thích của cha tôi, tôi
như sống lại những năm đầu của
thế kỷ 20. Tôi càng hiểu rõ thêm
mối liên hệ giữa các Chi, các Phái trong Tộc. Gần
đến trưa, chúng tôi cũng vừa đến mộ
Bà nội tôi. Mộ Bà gần nhà anh Diệm, nhưng
cách nhau bởi con mương thủy lợi từ trong
đập Vĩnh Trinh chảy ra. Nhà anh
Diệm làm trong vườn Nhà thờ Tiền Hiền ngày
trước. Qua những năm tháng
chiến tranh, nhà thờ nay chỉ còn cái bình phong và một
cây trụ biểu đương trơ gan cùng tuế
nguyệt. Thật là, như Bà Huyện Thanh Quan
đã viết:
Lối xưa xe ngựa, hồn thu
thảo,
Nền cũ lâu đài, bóng tịch dương.
Tôi được anh Diệm
đưa đi thăm các khu vườn cũ của Ông
nội tôi, của Ô. Cửu, Bà Thượng và anh Bát
Thương v.v… Tất cả nay chỉ còn là miếng
đất trống hoặc những túp nhà đơn sơ
của các đồng bào mới đến ở với
đôi cái ao rau muống do những hố bom tạo thành.
Vài cây cột đá trơn láng đã ngã xuống thành cái
cầu nhỏ bắt qua mương nước!
Trưa hè ở nhà quê cũng nóng
lắm, nhất là khi đứng gió:
Cái nóng nung
người, nóng nóng ghê!
Tất cả
mọi công việc đều phải ngừng lại. Nhờ
cơn nóng đổ lửa, tôi mới tận hưởng
cái mát mẻ, nhẹ nhàng của dòng mương.
Đồng ruộng quê tôi do nước đập Vĩnh
Trinh tưới khắp. Nằm ngâm mình trong mương
nước, tôi chợt nhớ đến câu ca dao:
Ta về ta tắm ao ta,
Dù trong dù đục ao nhà vẫn
hơn.
Chiều về, từng đám trẻ
dắt bỏ đi ăn cỏ dọc theo
bờ mương. Những đàn vịt chui
mỏ xuống ruộng đã dập gốc cỏ giùm cho
nhà nông một cách đắc lực. Đàng
xa những bác nông phu vác cuốc về nhà vừa đi
vừa trò chuyện. Tiếng gọi nhau ơi ới
của các cô gái gánh nước chen
với nhịp đưa dịu dàng của những
chiếc đòn gánh nơi vai. Tiếng dội
nước ào ào của trẻ em đang tắm bên
giếng xen với tiếng cười đùa giòn giã.
Những hình ảnh và tiếng động
đó quyện vào nhau thành một bức tranh đầy
thơ mộng về quê tôi.
Tối
lại, sau bữa cơm thân mật, rất hợp với
khẩu vị, anh Diệm và chú Liễu thay nhau kể
về công chuyện đồng án, về cuộc sống
vất vả của bà con ở làng. Qua chén trà nóng
tôi bị lôi cuốn theo từng mẫu
chuyện. Tới nay tôi mới thực sự
hiểu được đời sống ở quê từ
thời xưa đến thời nay, từ việc
hiếu hỷ ngày trước đến những buổi
họp tổ nhân dân bây giờ. Sau
buổi chuyện trò, tôi băn khuăn tự hỏi tôi
đã làm gì và sẽ làm gì cho Quê hương tôi.
Hôm sau, trong lúc
cha tôi bận lo tiến hành công tác phần mộ, tôi
lại được chú Liễu hướng dẫn cho
đi tham quan thêm. Bằng hai chiếc xe đạp, 2
anh em chúng tôi đạp đến đập Vĩnh Trinh,
nơi Cốc Dù, gò Bạc Hà, thăm mộ Ông Cố
Ngoại tôi - Cụ Thượng La Kham - rồi qua quê
mẹ tôi ở bên Gò Nổi. Quê mẹ tôi là
đất dâu, cách quê cha chỉ một con sông. Tuy nay không còn người bà con nào bên Ngoại
ở lại trong làng, nhưng sau lời giới thiệu
của chú Liễu, những người lối xóm đã
tiếp đãi tôi rất niềm nở. Qua bữa
trưa tại quán Mì Quảng Bà Đẩu, tôi thấy tình
đồng hương, đồng châu thật là thắm
thiết!
Ngày tôi rời làng buồn làm sao!
Mọi người, mọi vật đối với tôi
trở nên quyến luyến khác thường! Những cộng lúa hai bên đường mòn
cứ quấn vào giày tôi, như cố giữ tôi lại.
Tôi tưởng chừng như không bao giờ
có cơ hội thấy lại ngọn núi Quắp, gặp
lại những người đối với tôi
đầy tình gia tộc, tình đồng hương, tình
người.
Nhưng dịp may đã đến. Nghỉ hè vừa rồi, tôi đã về lại
Vĩnh Trinh. Thật là cả một
sự bất ngờ. Rõ ràng mở mắt, còn
ngờ chim bao! Lần này tôi may mắn được
chiêm ngưỡng Từ đường lộng lẫy
mới vừa tái thiết xong. Nhưng vì
lệ thuộc vào phương tiện di chuyển, tôi
chỉ lưu lại có mấy tiếng, nên chưa kịp
có những cảm nghỉ như chuyến trước.
Chuyến
về thăm quê lần đầu đã trở thành
một kỷ niệm êm đềm, không bao giờ phai trong
tâm trí tôi. Kỷ niệm đó đã luôn nhắc nhở tôi:
Quê hương mỗi người chỉ một, như
là chỉ một mẹ thôi,
Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không
lớn nổi thành người.
Bùi Anh Huy
GƯƠNG
VỠ LẠI LÀNH
(Tập Kiều)
Trải qua một cuộc bể dâu,
Đoạn trường ai có qua
cầu mới hay.
Rằng: lòng đương thổn thức
đầy,
Nỗi lòng càng nghĩ càng cay
đắng lòng.
Bốn bề bát ngát mênh mông,
Lửa hương chốc
để lạnh lùng bấy lâu.
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
Bơ vơ nào đã biết đâu
là nhà.
Trải bao thỏ lặn ác tà,
Lau treo rèm nát, trúc gài phên thưa.
Chung quanh lặng ngắt như tờ,
Càng ngao ngán nỗi, càng ngơ ngẩn dường.
Trời Tây lãng đãng bóng vàng,
Bây giờ kim mã ngọc
đường với ai?
Nỉ non đêm vắng tình dài,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn
hoàng.
Dịp đâu may mắn lạ dường,
Có quyền nào phải một
đường chấp kinh.
Bây giờ gương vỡ lại lành,
Khuôn thiêng lừa lọc đã dành
có nơi.
Ngước trông tòa rộng dãy dài,
Có cây trăm thước có hoa bốn mùa.
Có cổ thụ có sơn hồ,
Án tiền sẵn có mọi đồ kim
ngân.
Đoái thương muôn dặm tử phần,
Trước sau trọn vẹn, xa gần ngợi khen.
Sớm khuya tính đủ dầu đèn,
Sân thu trăng đã vài phen
đứng đầu.
Nặng vì chút nghĩa bấy lâu,
Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai.
Một nhà phúc lộc gồm hai,
Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông.
Bùi Anh Huy
TÌNH GIA
TỘC
Xiết bao tháng đợi lại năm chờ,
Con cháu giờ đây thỏa ước mơ.
Mấy chục Xuân qua, hương khói lạnh,
Thu nay tái thiết được
nhà thờ.
Nhà thờ xây dựng tại nơi đây,
Di tích Tiền nhân ở chốn
này.
Trụ biểu, bình phong còn sót lại,
Nhắc ta kỷ niệm của
bao ngày.
Từ đường kiến trúc lắm công phu,
Chuẩn bị từ lâu đã
mấy Thu.
Vận động bà con trong các Phái,
Sổ Vàng lạc cúng quỹ trùng tu.
Chính tu Phổ hệ cả Từ đường,
Phần mộ đời trên
được chỉnh trang.
Bia ngả, nấm trài, xây đắp lại,
Nền nghiêng, thành đổ, sửa đàng hoàng.
Nhớ lại trước kia
thuở chiến tranh,
Ruộng vườn nhà cửa, phá tan tành.
Giờ đây tất cả cùng ra sức,
Xây dựng tương lai, hưởng thái bình.
Phái, Chi do một Tổ sinh ra,
Như thể anh em trong một
nhà.
Đùm bọc, chở che, luôn gắn bó,
Ơn sâu để khỏi
phụ Ông Bà.
Bùi Tánh
NHỚ ƠN
Nước nguồn cây cội nghĩa thiêng liêng,
Công đức Tiền nhân
nguyện báo đền.
Bi ký chỉnh trang phòng thất lạc,
Mộ phần tu bổ để
lưu truyền.
Từ đường tái thiết lo hoàn mãn,
Phổ hệ bổ sung gắng soạn biên.
Ơn Tổ, Thái sơn cao vọi vọi,
Mênh mông biển cả, phúc Gia tiên.
Bùi Nhã
NHỚ HOÀI
Thu tàn, Đông mãn lại Xuân sang,
Nhớ đến quê hương,
nhớ họ hàng.
Nhớ cảnh Từ
đường trông diễm lệ,
Nhớ ngôi Tổ
mộ ngó khang trang.
Nhớ ngày Nguyên đáng hoa thơm ngát,
Nhớ lúc Khánh
thành pháo nổ vang.
Nhớ xóm, nhớ làng cùng
quyến thuộc,
Nhờ hoài nhớ
hủy nỗi tha hương.
Bùi Nhã
TÍCH THỤ KIM BA
Thời gian
về lâu về dài sau này thế nào không biết, chứ
đến thời điểm hôm nay, khi đã làm xong
một Nhà thờ - nhất là Từ đường
của một Tộc – thì việc thiết trí bên trong
phải có Hoành và Liễn chữ Nho mới tăng phần
trang nghiêm và mỹ quan nơi thờ phụng.
Về lãnh
vực này, các bậc Cựu học uyên thâm đã quá vãng,
nên nhiệm vụ của các vị phụ huynh vừa
trải qua một nền văn hóa chuyển tiếp, bán
cổ bán kim lại trở nên khó
khăn, tế nhị. “Rừng Nho, biển Thánh”, lớp
Tân học chỉ có tấm lòng, chỉ biết cố
gắng trong phạm vi “sở
đoản”.
Tuy nhiên,
với lòng nhiệt thành đối với Tổ tiên, gia
Tộc, số Hoành, Liễn của các Phái, Chi, và Gia đình
dâng cúng ngày một thêm nhiều, vượt mức dự
kiến khá xa!
Cùng một tâm
niệm chung, Phái II chúng tôi cũng đã
lo chế xong và dâng lên bức Hoành khắc 4 chữ TÍCH
THỤ KIM BA treo vào gian bên tả (từ trong nhìn ra).
Vậy Tích
thụ kim ba là gì?
Với cái
vốn kiến thức nông cạn, chúng tôi xin hiểu 4
chữ ấy như sau:
Cây ngày
trước được vun bón cẩn thận nên
mới đơm hoa kết trái sum sê
như ngày hôm nay; ngược lại ngày nay có hoa thơm
quả ngọt, là nhờ cội gốc ngày trước
đã khéo vun trồng. Cùng một lẽ đó, Tổ tiên
ngày trước đã khéo gieo nhân lành, ngày nay con cháu mới
hưởng được quả tốt; ngược
lại, con cháu hưởng được quả tốt
là nhờ có nhân lành của Tiền nhân.
Ý niệm nhân
quả đó đã tản mạn trong Nho học như:
-
Chủng
qua đắc qua, chủng đậu đắc
đậu (Trồng dưa, hái được dưa,
trồng đậu thì hái được đậu)
-
Bất
tín đản khan thiềm đầu thủy, điểm
điểm trích trích bất sai di (Không tin, hãy xem
nước nhỏ ở đầu diềm nhà: giọt
trước giọt sau chẳng thay đổi chỗ).
-
Tích
âm đức ư minh minh chi trung, dĩ vi
tử tôn trường cửu chi kế (Để âm
đức lại cho con cháu là kế bền vững, lâu dài
nhất).
Trong sách Mã Thái
Phúc Âm của Cơ Đốc giáo cũng có câu: Hảo
thụ bất năng kiết hoại quả tử,
hoại thụ bất năng kiết hảo quả
tử. Sở dĩ bằng khán tha môn đích quả
tử, tựu khả dĩ nhận xuất tha môn lai mà ta
có thể hiểu đại khái là:
Cây
tốt không sinh quả xấu, cây xấu cũng chẳng
sanh được quả tốt. Vậy các ngươi có thể nhìn quả mà
đoán nhận được cây sinh ra quả đó.
Những
tư tưởng lớn thường hay gặp nhau. Trong
giáo lý Nhà Phật, ta cũng thấy những câu như:
Dục tri
tiền thế nhân, kim sanh thọ giã
thị, dục tri lai thế quả kim sanh tác giả
thị (Muốn biết nhân đời trước thế
nào, hãy nhìn vào điều thụ hưởng ở
đời này, muốn biết quả kiếp sau thế
nào, hãy nhìn vào sở hành ở đời này vậy).
Chúng
ta trở lại với ý nghĩa của TÍCH THỤ KIM BA
qua sự phối kiểm các thế hệ của Bùi gia
chúng ta. Nhờ Tổ tiên đã từng lấy cần lao, nhẫn nại, hiếu đễ, nhân
nghĩa làm phương châm trong việc tề gia, xử
thế mà qua bao đời, gia tộc ngày thêm phát triển,
con cháu dù ở nguyên quán hay ra lập nghiệp ở tha
hương cũng đều được an khang,
thịnh đạt.
Ăn quả
nhớ kẻ trồng cây, chúng ta phải luôn nhớ
đến công đức của Tiền nhân đã tài
bồi cho “tích thụ” từ ngàn xưa để có “kim ba”
cho ngày nay và cho ngàn sau nữa.
Chúng ta hãy luôn
tâm niệm như Thi hào Nguyễn Du đã viết:
“Kiếp tu xưa ví chưa dày,
Phúc nào đọ được giá này cho ngang”
Cơ Vĩnh Nhân Bùi Ngọc
Hiệp
ĐIÊU TÀN
Hòa bình trở lại viếng quê
nhà,
Phong cảnh điêu tàn, chẳng
nhận ra.
Bến nước um tùm lau lách
cả,
Cây đa trơ
trọi gốc thân già.
Vườn xưa đâu vắng
ngôi đền cổ,
Gò cũ thôi rồi nấm mộ
cha!
Chinh chiến đau thương
buồn cách biệt,
Lệ sầu pha
lẫn giọt sương sa!
Nhất Thu Bùi Một
Họa vận:
Trên bước đường
quê chạnh nhớ nhà,
Cây xưa bến
cũ lối vào ra.
Lơ thơ ngõ trước hoa
đào rụi,
Xơ xác
vườn sau khóm trúc già.
Băng ruộng thẩn thờ
tìm mộ tổ,
Đốt nhang
thổn thức khấn hồn cha.
Bể dâu gieo rắc bao sầu
thảm,
Cố nén lòng đau, lệ
vẫn sa!
Thanh Tâm Bùi Thị Thu
ĐẤT
QUẢNG
Đất
Quảng Nam tươi thắm mượt mà,
Đồng
quê xanh tốt trải bao la.
Sông Thu êm ả
ghe thuyền lượn,
Hòn Kẻm mơ
màng mây khói pha.
Nhộn
nhịp sân bay tàu cất hạ,
Rộn ràng
bến cảng khách vào ra.
Nhìn xem phong
cảnh càng say đắm,
Lòng ngẩn
ngơ lòng yêu thiết tha!
Tha thiết tâm
tình năm tháng qua,
Hò
khoan điệu cũ mãi ngân nga.
Lời ru, tiếng võng, thương lòng mẹ,
Đám
lúa, nương dâu, nhớ nghĩa cha.
Nam Hải mênh
mông phơi sóng bạc,
Trường
sơn trùng điệp tắm trăng ngà.
Hồn thơ
lai láng tình muôn nẻo,
Đất
ấm hương quê thật đậm đà!
Nhất
Thu Bùi Một
THÔN VĨNH
Về thăm
thôn Vĩnh ngời trăng nước,
Đường
trúc nghiêng nghiêng lá vẫy chào.
Bát ngát xanh
trời, xanh sóng lúa,
Tóc
thề lả lướt ướp ngàn sao.
Cầu Cao,
Đồng Ngạch bao lưu luyến,
Gợi
nhớ muôn hình mãi vấn vương.
Tha thiết
vọng tình vang tiếng dế,
Nhạc
đồng ấm điệu khúc quê hương.
Xa cách bao ngày
trở lại đây,
Chứa
chan tình cảm ngập trời mây.
Xóm làng rộn
rịp vui chân bước,
Kỷ
niệm xưa giờ chẳng đổi thay.
Nhất
Thu Bùi Một
NỖI NIỀM
Kính tặng Bác Bùi Tấn
Biết tỏ làm sao hết
nỗi lòng,
Công lao thiện
chí trọn niềm mong.
Nắng mưa chẳng quản lo
chu tất,
Tiền của không so ứng
dự phòng.
Mộ Tổ, Từ
đường soi hậu thế,
Văn từ, Phổ hệ
xứng uy tông.
Trải bao thế hệ càng
tươi thắm,
Rực ánh minh châu, tặng mấy
dòng.
Nhất Thu Bùi Một
Họa vận:
CẢM TẠ
Thân tặng tác giả bài NỖI
NIỀM
Việc Tộc chung lo dốc
hết lòng,
Đón mừng kết quả
thỏa chờ mong.
Từ đường: hương khói nay hoàn mãn,
Lăng mộ: nắng mưa đã liệu phòng.
Phổ hệ chính tu ngời phúc tổ,
Khánh thành nghiêm túc rạng danh tông.
NỖI NIỀM gói ghém bao tình cảm,
Cảm ta tri âm, họa ít dòng.
Bùi Tấn
TÌNH THƠ XỨ
QUẢNG
Vốn cùng chung uống nước Thu giang,
Trao
gởi duyên thơ khắp xóm làng.
Mít luộc
ngọn nguồn đưa xuống Phố,
Cá
tươi vạn bể gởi lên ngàn.
Ấm lòng Đà
Nẵng, trà Tiên Phước,
Xanh ruộng Duy
Xuyên, nước Thạch Bàn.
Năm cụm
Hành sơn hoa thắm nở,
Tình
thơ xứ Quảng trải thênh thang.
Đinh
Vũ Ngọc
(Ngoại
tôn)
SÔNG
Sông hởi, theo dòng trôi mãi sao?
Nặng
mang tình ý gửi phương nào?
Biển sâu
nuốt trọn hồn trong trắng,
Muối mặn
hòa tan tính ngọt ngào.
Đã chẳng chung tình cùng bãi vắng,
Lại
đành phụ nghĩa với non cao.
Nguồn xưa
lau lách buồn hiu hắt,
Gió nhớ
mưa thương vẫn dạt dào!
Đinh
Vũ Ngọc
(Ngoại
tôn)
TÁI THIẾT
TỪ ĐƯỜNG
Đất kia lỡ đó lại bồi,
Trăng
dù khuyết cũng có hồi tròn nguyên.
Qua cơn binh
hỏa ngửa nghiêng,
Từ
đường tái thiết trên nền trước đây.
Luận bàn,
hội họp hăng say,
Mười
hai sau Tết là ngày khởi công.
Bà con trên
dưới một lòng,
Chỉ
trong bốn tháng đã xong công trình.
Ngắm xem quang
cảnh hữu tình,
Từ môn,
trụ biểu với bình phong xưa.
Thành xây song ghép
nhặt thưa,
Trăng soi bên
cổng, gió đừa trước sân.
Nóc đền có
gắn hoa văn,
Sắt
bông lộng kính cửa giăng thẳng hàng.
Ba gian rực
rỡ huy hoàng,
Khám thờ,
hoành, liễn điểm trang đủ màu.
Khói hương
quạnh quẽ bấy lâu,
Từ
đây chỉnh đốn trước sau mọi bề.
Thọ, khang,
phúc, lộc đủ đều,
Bùi
gia năm Phái tiếng ghi đời đời.
Bùi
Diệm
TỪ
ĐƯỜNG CẢM TÁC
Bể dâu khéo vẽ cảnh điêu tàn,
Di tích Tiền nhân bị xóa tan.
Nền cũ chơ vơ trông
thảm thiết,
Lối xưa lu lấp thấy hoang
nhàn.
Cháu con Năm phái cùng suy nghĩ,
Hương khói muôn đời
phải tính toan.
Kẻ của, người công chung
gắng sức,
Từ đường tái thiết thật khang trang !
Bùi Tấn An
XUÂN THA HƯƠNG
Lại thêm một Tết nữa
tha hương,
Lữ thứ tình
riêng luống đoạn trường.
Nhớ nước nỉ non canh
dế hót,
Thương nhà
lẽo đẽo mối tơ vương.
Đường xa sự
nghiệp, lo trăm mối,
Chí cả nam nhi,
nghĩ bốn phương.
Tiếng pháo mừng Xuân khôn
lấp nổi,
Hồn quê thăm
thẳm một trời thương.
Bùi Tấn An
NHỚ QUÊ
Chiều
Thu thành phố ngẩn ngơ,
Lòng tôi vắng lặng thẩn thờ nhớ quê.
Nhớ
vườn cũ, nhớ lũy tre,
Mương dài uốn khúc bốn bề
đồng xanh.
Quê
tôi: người đảm, đất lành,
Thiên
nhiên thơ mộng, nhân tình thắm tươi.
Còn
non, còn nước, còn người,
Cầu cho đất Vĩnh đời
đời thịnh khang.
Bùi Vĩnh Duy
MỪNG
LỄ KHÁNH THÀNH TỪ ĐƯỜNG BÙI TỘC
Pháo
nổ tưng bừng vui sướng
thay,
Mừng
ngày Bùi tộc, hội hôm nay.
Vui
xuân trọn vẹn đàn con cháu,
Năm Phái đoàn viên nở mặt mày.
Nhớ
lại Người xưa đến đất này,
Cần
lao năm tháng chẳng ngừng tay.
Vĩnh
Trinh, đất mẹ từng lưu tiếng,
Âm
đức khéo xây, để phúc dày.
Lê
Văn Hạng
(Nghĩa
tế của Ô.B. Bùi Văn Minh)
THÀNH PHẦN
BAN TU SOẠN VÀ HOÀN CHỈNH
TẬP
KỶ YẾU
Stt
|
Phương danh
|
Công tác
|
1
|
Ô. Bùi Tấn
|
Sưu tầm
& Biên soạn
|
2
|
Ô. Bùi Sau
|
Phúc duyệt
|
|
Ô. Bùi Quang Lâm
|
-
|
|
Ô. Bùi Ngọc Mai
|
-
|
|
Ô. Bùi Tấn Vĩnh
|
-
|
|
Ô. Bùi Văn Bảy
|
-
|
3
|
Ô. Bùi Minh Châu
|
Trang trí Hình bìa các
Phụ bản
|
4
|
Ô. Bùi Văn Luân
|
Mỹ thuật
|
5
|
Ô. Bùi Hoàn và các con
|
In ấn
|
|
Ô. Bùi Ty
|
-
|
6
|
Ô. Bùi Văn Anh
|
Tài chánh
|
|
Ô. Bùi Tình
|
-
|