Trang chủ
Hội đồng gia tộc
Quá trình phát triển của Bùi tộc Vĩnh Trinh
Từ đường ở quê nhà Vĩnh Trinh
Chi nhánh từ đường tại TP. Hồ chí Minh
Phổ hệ Bùi tộc Vĩnh Trinh
Tin tức gia tộc
Nhân vật
Thư viện ảnh
Video
Thông báo tin vui
Tin buồn
Tin vui

KỶ NIỆM LỄ KHÁNH THÀNH TỪ ĐƯỜNG BÙI TỘC

KỶ NIỆM LỄ KHÁNH THÀNH TỪ ĐƯỜNG BÙI TỘC

VĨNH TRINH - QUẢNG NAM

 

 

KỶ YẾU

 

 

Sự tử như sự sinh

Sự vong như sự tồn

Hiếu chi chí dã

 

KHỔNG TỬ

 

 

NHÂN THÂN

1992


Toàn cảnh Nhà Thờ TIỀN HIỀN TỘC BÙI tái thiết xong năm 1992

 

Lễ Khánh Thành TỪ ĐƯỜNG và MỘ TIỀN HIỀN (Lễ Nghinh Hương)

Bà con thưa cúng Lễ trước bàn thờ TỔ TIÊN TỘC BÙI

 

Ban TÁI THIẾT TỪ ĐƯỜNG TỘC BÙI

 


LỜI NÓI ĐẦU

 

Trong thời kỳ chiến tranh, cũng như các công trình khác, Từ đường Bùi tộc chúng ta đã bị phá hủy hầu như hoàn toàn.

 

Nhìn chung, tái thiết Từ đường là một việc khó. Tái thiết Từ đường vừa kiên cố, vừa mỹ quan, đúng trên nền móng cũ lại càng khó hơn.

 

Nhưng cổ nhân có nói: Nhân hữu thiện nguyên, thiên tất tùng chi.

 

Thật vậy, sau một vài khó khăn lúc ban đầu, nhờ hồng ân Tiên tổ, chúng ta đã hội được ba yếu tố: thiên thời, đại lợi, nhân hòa, và sau khi thi công trong vòng 4 tháng, Từ đường của chúng ta đã được hoàn thành viên mãn.

 

Tiếp theo, Ngôi mộ Tiền hiền đã được trùng tu tráng lệ, đáp ứng được nguyện vọng của toàn thể bà con.

 

Và Lễ Khánh thành đã được cử hành trọng thể vào dịp đầu Xuân vừa rồi.

 

Ngoài ra, trong thời gian trước đây, chúng ta cũng đã tu bổ xong phần mộ của Tiền nhân - từ các Ngài Đệ Thập tứ thế tổ trở lên - thuộc đủ các Chi, Phái và cũng đã hoàn tất việc tu chính quyển Phổ hệ của Tộc.

 

Để đánh dấu các sự kiện trọng đại trên, Tộc cho soạn và phổ biến nội bộ tập Kỷ Yếu này mà trọng tâm là ghi lại một số tài liệu liên quan đến công tác tái thiết Từ đường và chỉnh trang phần mộ của Ngài Thỉ tổ,

 

Và để thêm phần phong phú, tập Kỷ Yếu có phụ lục một số thi văn – do các bà con nội ngoại sáng tác – không ngoài mục đích nói lên: niềm hân hoan, phấn khởi của con cháu, lòng tri ân đối với công đức, sự nghiệp của Tiền nhân, tình nhớ thương nơi quê cha đất tổ, tinh thần đoàn kết và thân ái của những người cùng chung một cội nguồn, một huyết thống v.v…

 

Nhân đây, chúng tôi xin có lời tán dương sự khuyến khích và giúp đỡ về mọi mặt của Quý Bà con, để tập Kỷ Yếu được ra mắt kịp thời.

 

Chúng tôi xin ghi nhận thiện chí của Quý Tác giả đã gửi bài về một cách sốt sắng. Vì khuôn khổ tập Kỷ Yếu, nên rất tiếc số tác phẩm chọn đăng phải bị hạn chế, ngoài ý muốn. Kính mong Quý vị vui lòng thông cảm cho.

 

Chúng tôi cũng không quên chân thành cảm ơn Ô. Bùi Hoàn và các con đã giúp đỡ tận tình - từ phương tiện đến công sức - trong phần in ấn.

 

Ước mong tập Kỷ Yếu đơn giản này sẽ là một món quà lưu niệm hữu ích đối với bà con trong Tộc.

 

Sài thành, Trọng Hạ Nhâm Thân, 1992

Ban Biên soạn Tập Kỷ Yếu

cẩn chí


 

LƯỢC VỀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN

CỦA BÙI TỘC VĨNH TRINH

 

Hòa mình trong cuộc Nam tiến vĩ đại của Dân tộc, vào cuối thế kỷ XV, dưới đời vua Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức (1470-1497), Tiền nhân của Bùi Tộc chúng ta đã di cư từ Hoan Châu (Nghệ An) và cùng Tiền nhân của Đào tộc vào khai phá và sáng lập ra xã hiệu Bình Khương tức là làng Vĩnh Trinh, tỉnh Quảng Nam ngày nay.

 

Ngài Tiền Hiền, Đệ Nhất thế tổ, BÙI Đại lang húy TẤN DIÊN và Ngài Đệ Nhị thế tổ Cai phủ Khánh Sơn hầu BÙI Quý công húy TẤN TRƯỜNG đã cùng Quý Ngài đồng thời của các thôn tộc khác khai khẩn và phân ranh giới của vùng Lục thôn tức là 6 thôn: Lệ Trạch, Vĩnh Trinh, Thanh Châu, Cổ Tháp, Cù Bàn và An Lâm sau này.

 

Ngài Đệ Nhị thế tổ cũng đã tham gia đắc lực vào việc cấu tạo Đình Châu, đình công cộng của Lục thôn. (1)

 

Sau Ngài Đệ Tam thế tổ húy BÙI TẤN MIÊN - từng tiếp tục sự nghiệp của hai Ngài trên - Phổ hệ còn ghi lại một số vị như các Ngài Xá sai ty Lữ tài nam Bùi Quý công – có trưởng nam là Ngài BÙI TẤN QUÝ -, Ứng xá ty BÙI TẤN THẮNG, Thủ khoán BÙI TẤN MẪN.

 

Từ Ngài Đệ Thập thế tổ húy BÙI TẤN HIỆU và 3 Ngài Đệ Thập nhất thế tổ húy: BÙI TẤN TRỪNG, BÙI VĂN TOẢN, BÙI TẤN CAO, thì sự sinh hoạt đã điều hòa và bắt đầu phát triển.

 

Đến đời các Ngài Đệ Thập nhị thế tổ húy BÙI VĂN BẢNG (2), BÙI VĂN CANG, BÙI VĂN LỘC, BÙI TẤN QUỲNH, BÙI TẤN NGA, thì cơ nghiệp thêm phần vững mạnh.

 

Sang Đệ Thập tam thế, với các Ngài BÙI VĂN KIẾT, Tú tài BÙI VĂN THỈ (3), BÙI VĂN VIÊN, BÙI VĂN CHÁP, BÙI VĂN CHUA, BÙI ĐẠT, BÙI VĂN THÔNG, BÙI VĂN DOÃN, thì sự phân định làm 5 Phái đã được hình thành (4).

 

Đến Đệ Thập tứ thế, chúng ta có các Ngài BÙI THÂN (Ô. Quảng Nghi – (5)), BÙI VĂN PHÁN (Ô. Thủ Quỵ), BÙI VĂN LẬP (Ô. Bá Đinh), BÙI HOẰNG NGHỊ (Ô. Bá Soạn), BÙI VĂN HẢO (Ô. Bà Hành), BÙI VĂN HỘI (Ô. Bá Ứng), BÙI VĂN CHUẨN (Ô. Hương Hướng), BÙI VĂN XƯỚNG (Ô. Trùm Độ), BÙI VĂN TIẾT (Ô. Thủ Sáu), BÙI VĂN NGHĨA (Ô. Hương Lý), BÙI VĂN MẸO (Ô. Xã Thiều), BÙI VĂN ĐÁNG (Ô. Trùm Đắng), BÙI VĂN THANH (Ô. Thủ Dụng), BÙI HỢI (Ô. Trùm Hợi), BÙI VĂN QUYỀN, BÙI VĂN LIÊU, BÙI VĂN CHIẾN, BÙI VĂN PHÁT, BÙI DIỆM và BÙI VĂN HỀ (Ô. Trùm Thuần). Ngài BÙI THÂN là một ngôi sao sáng của Tộc được nhiều người biết đến không những vì sản nghiệp đồ sộ mà còn vì các công trình xã hội và từ thiện của Ngài. Từ Đệ Thập tứ thế, Bùi gia đã nổi tiếng “của  nhiều người đông”, các huyện trong tỉnh đều biết.

 

Đến Đệ Thập ngũ thế, việc quy tụ ở Vĩnh Trinh không còn thích hợp với nhu cầu phát triển, nên nhiều vị đã rời nguyên quán sang lập nghiệp tại các phủ huyện khác như: Điện Bàn, Đại Lộc, Quế Sơn, v.v… để quản trị và khuếch trương các cơ sở mà Ngài Bùi Thân đã gầy dựng được.

 

Đặc biệt trong Đệ Thập ngũ thế, có Ô. BÙI TÚC (Ô. Bá Huynh) là vị tiêu biểu nhất cho nếp sống Nho phong và 2 ông BÙI HỮU CHÍ (Ô. Huyện Chí) và BÙI GIÁC (Ô. Tú Ba) đã đổ Cử nhân và Tú tài Hán học.

 

“Một cây cù mộc, một sân quế hòe”. Đến Đệ Thập lục, Thập nhất, Thập bát, số anh chị em con cháu nội ngoại trong 5 Phái lên đến mấy trăm người. Lúc này nền Cựu học bắt đầu nhường chỗ cho Tân học. Để theo kịp trào lưu học thuật mới du nhập từ Tây phương, nhiều anh em, con cháu trong các thế hệ này đã vượt qua các bậc Tiểu học và Trung học. Một số đã có những đóng góp đáng kể trong lãnh vực thi văn, báo chí (6) (như Quý ông Bùi Thế Mỹ, Bùi Giáng…). Một số đã tiếp tục Đại học hoặc xuất dương du học (7) (Bùi Kiến Tín tốt nghiệp tại Pháp năm 1940). Từ khoảng vài ba mươi năm gần đây, một số khá đông thuộc các lớp trẻ ở trong cũng như ngoài nước đã đạt được các cấp bằng chuyên môn thuộc mọi lĩnh vực như: Y học, Dương học, Khoa học, Kỹ thuật, Giáo dục, Kinh tế, Thương mại v.v…

 

Song song với phương diện văn hóa, lãnh vực võ nghệ trước đây cũng được một số bà con hâm mộ. Và phần nhiều những người gia công luyện tập đều khá nổi tiếng (8) (như Quý ông Bùi Cẩn, Bùi Lãm thuộc thế thứ 15 và Ô. Bùi Hý thế thứ 16 vô địch tỉnh Quảng Nam nhiều năm liền).

 

Nhằm mục đích phát huy tinh thần Gia Tộc, một hội tương tế lấy tên Bùi gia Vĩnh thế đã được thành lập từ năm 1968.

 

Để bảo tồn di tích của Tiền nhân – sau nhiều năm chinh chiến – vào những dịp Thanh minh và Đông chí các năm Đ. Mão (1987), M. Thìn (1988), bà con, con cháu đã lo trùng tu lại phần mộ Tổ tiên, từ mộ Ngài Tiền Hiền – đương được tái trùng tu quy mô vào dịp Đông chí vừa rồi - đến mộ các Ngài Đệ Thập tứ thế thuộc đủ các Chi, Phái.

 

Cây có cội, nước có nguồn. Để có nơi hương khói và cũng để có chỗ họp mặt trong những ngày kỵ lạp, bà con đã cùng nhau tái thiết một cách mỹ quan, kiên cố Từ đường của Tộc trên nền Tiền đường của Nhà thờ Tiền Hiền ngày trước và chi nhánh Từ đường tại xã Vĩnh Lộc, huyện Bình Chánh, TP. HCM.

 

Nhờ phúc ấm của Tiền nhân, con cháu 5 Phái ngày càng đông đúc, chi Chi, Nhánh đã phát triển đến thế thứ 19 hay 20. Hiện nay một số khá đông đã đi học hành và lập nghiệp ở nước ngoài. Chúng ta có thể nói là bất cứ ở đô thị lớn nào trong Năm châu, hễ nơi đâu có in dấu chân người Việt Nam, thì hầu hết các nơi đó đều có bóng dáng con cháu nội ngoại của Bùi Tộc. Và dù ở nguyên quán hay tha hương, tất cả đều được an khương, thịnh đạt.

 

Thật là:

“Còn nhiều hưởng thụ về lâu,

Duyên xưa đầy đặn, phúc sau dồi dào”

 

 

Ghi chú:

 

(1)     Ngay trong bài minh trên bia đá dựng vào tháng 10 năm Cảnh Hưng thứ 15 (D.L. 1754) để kỷ niệm công cuộc trùng tu Đình Châu – đình Lục thôn – có đoạn nguyên văn như sau:

 

“Thiết duy: Bổn châu tiền đợi Cai phủ Khánh sơn hầu Bùi Quý công cấu tạo công đình. Địa linh nhân kiệt, đại chấn châu lý chi phong, cận duyệt viễn lai, hội vi nhật trung chi thị, trách trách hưu thanh, chí kim vị mẫn giã. Nhiên nhi mao từ thảo sáng, tuế viễn niên yên, suy chuyên vị miễn đồi hoại, tắc tuy di chỉ thượng tồn, nhi điện vũ đại bất như sơ. Tư dục tái khoách tiền quy, dĩ chiêu thần đức. Đệ niệm Bổn châu lịch niên đồ thán, vật lực duy nan. An đắc nhất như Bùi Quý công giả, tái vi thạnh cử tai !...

 

Qua đoạn bi ký này, ta có thể hiểu đại cương là:

 

“Nguyên châu chúng ta ngày trước có Ngài Cai phủ Khánh sơn hầu Bùi Quý công cấu tạo đình sở. Đất linh, người giỏi, tiếng đồn vang khắp châu thôn. Người gần lấy làm hài lòng, kẻ xa rủ nhau kéo đến, họp thành chợ đông vào lúc ban trưa, đến nay chưa ai quên vậy. Nhưng đình tranh dựng đã lâu năm, rui mè không khỏi mục nát; nền móng còn đấy, nhưng chánh điện không được như xưa. Nay muốn trùng tu lại để phát huy công đức của Thần linh. Song mấy năm gần đây, châu chúng ta làm ăn khó khăn, vật lực khan hiếm. Giá được một vị hảo tâm như Ngài Bùi Quý công ngày trước thì quý hóa và đáng được ca ngợi biết bao!”.

 

(2)     Ngài Bùi Văn Bảng tục gọi Ông Mả Đá, vì cả nấm mộ Ngài là một tảng đá lớn, nền và thành mộ cũng lát và xây toàn bằng đá. Tục truyền khi Ngài qua đời, các con cháu tẫn liệm rồi quàn quan tài trong nhà gần đến đoạn tang. Những nhà đồ, bàn lược, bàn triệu chạm trổ công phu, sơn phết tỉ mỉ dùng trong tang lễ Ngài đều được lưu trữ tại Nhà thờ Tứ thân ở An Lâm. Chẳng may những công trình kiến trúc đó đều bị quân Pháp phá hủy trong thời kỳ Nghĩa hội.

 

(3)     Ngài Bùi Văn Thỉ thi đỗ Tú tài 2 lần (khoa Q. Mão 1843 và khoa C. Tuất 1850) thường được gọi là ông Tú Lưỡng khoa, phát khoa vùng Lục thôn lúc bấy giờ.

 

(4)     Trước kia, tộc có 2 Phái: Ngài Bùi Tấn Trừng (Phái I) và Ngài Bùi Văn Toản (Phái II), nhưng vì phát triển đông, nên từ thế thứ 13 Tộc chia làm 5 Phái (từ Phái I đến Phái V).

 

(5)     Mồ côi cha mẹ rất sớm, Ngài Bùi Thân lớn lên trong sự bảo trợ của vị chú ruột là Ngài Túi tài Bùi Văn Thỉ và của vị anh rể là Ngài Cử nhân Phan Văn Diên. Mặc dù gặp nghịch cảnh, Ngài vẫn luôn luôn phấn đấu, cố gắng tự lực, tự cường. Ngài đã nêu cao gương tiến thủ và chí kinh doanh cho con cháu. Ngài được người ta biết và nhắc đến nhiều, không những vì sản nghiệp đồ sộ mà còn vì những công trình xã hội và từ thiện của Ngài.

 

(6)     Ô. Bùi Thế Mỹ là một nhà ngôn luận cang cường, lỗi lạc vang tiếng cả Trung Nam Bắc vào đầu thế kỷ 20 này.

Ô. Bùi Giáng viết khá nhiều. Thơ, văn của Ông chắc sẽ làm tốn không ít giấy mực của người đời sau.

 

(7)     Ô. Bùi Kiến Tín là người đầu tiên ở Duy Xuyên tốt nghiệp Y khoa Bác sĩ tại Pháp năm 1940.

 

(8)     Noi gương các vị ở Đệ Thập Ngũ thế như các Ông Bùi Cẩn (Ô. Cai Cẩn), Bùi Lãm (Ô. Chánh Tùng) là những võ sanh nổi tiếng đương thời ở Lục thôn, võ sĩ Bùi Hý (thế thứ 16) đã đoạt giải vô địch võ Việt Nam vào dịp Hội chợ năm 1937 ở Hội An và đã giữ vững chức vô địch ấy tại Quảng Nam suốt mấy năm liền.

 

Mộ Ngài BÙI VĂN BẢNG, Đệ Thập Nhị Thế Tổ  (trước đợt trùng tu 1987)

 

 

Niềm quyết tâm của con cháu NỘI NGOẠI TỘC BÙI: “Trùng tu Mồ Mả và tái thiết TỪ ĐƯỜNG” trong Lễ Kỵ Ngài SƠ TỔ PHÁI NHẤT (năm Đinh Mão 1987)


LỊCH SỬ KIẾN TẠO & TÁI THIẾT

 TỪ ĐƯỜNG BÙI TỘC

 

Ngày trước, khi Tộc mới có hai Phái, thì:

 

- Phái Ngài Bùi Văn Bảng (Ô. Mã Đá) có Nhà thờ Phái gọi là Nhà thờ Tứ thân ở xứ Bàu Dam, thôn An Lâm, và

- Phái Ngài Bùi Văn Viên (Ô. Ca) có Nhà thờ Phái mình cũng tại xứ Bàu Dam.

 

Nhưng sau khi do sự phát triển, Tộc chia làm 5 Phái, thì Ngài Bùi Thân (Ô. Quản Nghi) - với sự phụ tá của 2 vị con lớn của Ngài là Ô. Bùi Túc (Ô. Bá Huynh) và Ô. Bùi Duy (Ô. Nghè Trình) – đã tự nguyện lạc cúng tư điền và phần lớn kinh phí, cùng bà con, con cháu 5 Phái cấu tạo Từ đường cho toàn Tộc - thường được gọi là Nhà thờ Tiền Hiền tộc Bùi - tại một khu đất trên 2.000 m2, tọa lạc tại xứ Đồng Ngạch, thôn Vĩnh Trinh.

 

Nhà thờ Tiền Hiền nằm giữa một cánh đồng rộng bao la:

 

-         Phía sau, thoai thoải cao hơn là xứ Chà Rang,

-         Bên tả, từ dãy đất Đồng Nam thẳng tắp, chúng ta có thể nhìn đến các vùng lân cận như: Châu Phong, Phú Lạc, La Tháp…

-         Bên hữu tiếp theo khu đồi Gò thị là cánh đồng Hà Cùng.

-         Mặt trước, cách Rộc Sách – nơi quy tụ của các ngọn nước – là cánh đồng Bàn Thát. Đằng xa, có dòng nước khe mà ngày nay là con mương thủy lợi của đập Vĩnh Trinh lượn khúc uốn quanh.

 

Theo lời các vị phụ lão, Nhà thờ Tiền Hiền khởi công kiến thiết năm N. Tuất (1922). Nhà làm theo lối chữ khẩu, gồm có:

 

-         Một dãy sau gọi là Hậu tẩm, 3 gian, 2 chái (12,7 m x 8,3 m). Phía sau gian giữa, có xây lối ra một ô, khoảng 3m x 2m gọi là Chánh tẩm.

-         Một dãy trước gọi là Tiền đường, song song và cùng kích thước với Hậu tẩm.

-         Hai dãy hai bên gọi là Tả vu, Hữu vu nối liền hai đầu của Hậu tẩm và Tiền đường, tạo thành một sân lộ thiên ở giữa.

 

Từ Tiền đường đến Bình phong có một cái sân đất rộng để trồng các loại cây kiểng. Ngoài Bình phong là Cổng và Trụ biểu nối liền bằng mấy ô chữ thọ. Chung quanh có thành.

 

Dọc theo bên tả và lui về đàng sau, có một Nhà trù lớn dùng làm phòng ăn trong những ngày lễ và cũng là nơi lưu trú của gia đình người Thủ từ.

 

Nhà thờ làm bằng các loại cây danh mộc như: mít, kiền kiền, liêm, sến v.v… Móng và tường đều xây bằng đá thước. Mái lợp ngói âm dương; trên nóc, quyết có đắp tứ linh như các đình chùa khác. Công trình làm rất công phu, kiên cố; mãi đến năm sau – Q. Hợi (1923) - mới tổ chức lễ Lạc thành.

 

Nhưng “trải qua một cuộc bể dâu”, ngay trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh tàn khốc (1945-1975), cùng chung một số phận với các kiến trúc to lớn khác, Từ đường của Tộc đã bị phá hủy rất nặng nề. Đến ngày hòa bình được vãng hồi, chỉ còn lại dấu vết cái Chánh tẩm, cái Bình phong đã dày dạn với phong sương và một cây Trụ biểu bên tả cũng đã nghiêng nhiều không còn dùng được.

 

Song:

“Cơ duyên đâu bỗng lạ sao?

Dưới dày có đất, trên cao có trời”

 

gia đình Ô. Bùi Diệm ngẫu nhiên lại được cư trú trong vườn của Từ đường.

 

Thời gian lặng lẽ trôi qua:

“Nắng mưa đã biết mấy phen đổi dời?”

 

Vào đầu Thu năm K. Tỵ (1989), nhân một chuyến về thăm quê, hai Ông Bùi Tấn và Bùi Tình lại một lần nữa mục kích cảnh tàn phá rất thương tâm của Tự sở:

 

“Một sân đất cỏ dầm mưa.

Càng cao ngán nỗi càng ngơ ngẩn đường!”

 

Một buổi họp Tộc đã được tổ chức vào ngày 8/9/1989. Bà con đều đồng ý không thể để cảnh tượng điêu tàn kéo dài mãi. Và được Ô.B. Bùi Diệm ngỏ ý tự nguyện nhường bớt quyền lợi của mình cho Gia tộc, bà con đã đề nghị cùng nhau cố gắng lo tái thiết Từ đường trên nền Tiền đường cũ để có nơi hương khói Tổ tiên.

 

Khi về, hai Ông Tấn và Tình đã đạo đạt ý nguyện đó với bà con ở Saigon và qua buổi họp Tộc hôm 25-8-K.Tỵ (1989) – nhân ngày hùy nhật của Ngài Đệ Thập tam thế tổ, Sơ tổ Phái I – ý nguyện chính đáng ấy đã được toàn thể bà con hiện diện hưởng ứng nhiệt liệt.

 

Một thư ngỏ về việc trùng tu Từ đường đã được phổ biến. Một quyển Sổ vàng đã được mở ra để đón nhận lòng nhiệt thành của bà con nội ngoại xa gần.

 

Sau một vài trục trặc sơ khởi, công tác tái thiết đã tiến hành thuận lợi theo quy trình như sau:

 

21/1/T. Mùi (6/3/91): Cử Ban Tái Thiết

12/2/T. Mùi (27/3/91): Khởi công

19/3/T. Mùi (03/5/91): Thượng lương

10/6/T. Mùi (21/7/91): Hoàn tất công trình

Tháng 7/T. Mùi (8/91): Trang trí bên trong.

16/8/T. Mùi (23/9/91): Lễ An vị

17/1/N. Thân (20/2/92): Lễ Khánh Thành

 

Từ đường tái thiết theo kiểu ba gian, hai chái, mặt tiền có vẻ bán cổ bán kim. Tuy bên ngoài không đắp vẽ hoa mỹ, nhưng cách kiến trúc rất chắc chắn, phong quang: nền bọc kiền đúc, tăng cao 0,45 m, cột, trính, xuyên đều đúc bêtông cốt sắt, kèo, đòn tay, rui, mè: đều bằng kiền kiền, khám thờ đắp nổi, một cách mỹ thuật, cửa nạm bông sắt, lộng kính, mặt tiền tô đá rửa, nền lát gạch hoa, bình phong, cổng, trụ biểu, hàng rào mặt tiền đều cố gắng phục chế, giữ lại tối đa kiểu cách và đường nét của Tiền nhân ngày trước:

 

“Mừng thầm chốn ấy chữ bài,

Duyên ta mà cũng phúc trời chi không!”.

 

 

 

Đau lòng trước cảnh điêu tàn của Mộ TIỀN HIỀN (năm Nhâm Thìn 1987)

 

 

 

 

Con cháu nương nhau gánh đất lấp hố bom

bên mộ TIỀN HIỀN (Nhâm Thìn 1987)


THÀNH PHẦN BAN TÁI THIẾT TỪ ĐƯỜNG

NĂM TÂN MÙI – 1991

 

(Thành lập trong Buổi họp Tộc 6/3/1991)

 

Stt

Họ tên

Nhiệm vụ

1

Ô. Bùi Ngọc Kính

Trưởng ban

Phụ trách tổng quát

2

Ô. Bùi Vinh

Phó ban

Phụ trách Vật tự, Kỹ thuật

3

Ô. Bùi Quang Triết

-nt-

4

Ô. Bùi Diệm

Thư ký

5

Ô. Bùi Do

Ủy viên

6

Ô. Bùi Tùy

-nt-

7

Ô. Bùi Tân (1)

-nt-

 

(1) Ô. Bùi Sáu được cử, nhưng vì bận, Ô. Sáu nhường lại cho Ô. Tân.

 

Bên cạnh Ban Tái thiết, có Ô. Bùi Tấn và Ô. Bùi Tình đại diện cho bà con ở trong Nam.


TÀI LIỆU VỀ HOÀNH & LIỄN Ở TỪ ĐƯỜNG

 

 

KHÁM THỜ GIAN GIỮA

 

 

Phiên âm:

 

TIỀN HIỀN

TIỀN LIỆT LƯU QUANG NIÊN HỮU VĨNH;

HIỀN CÔNG KHAM LẶC THẠCH DUY TRINH.

 

Trong thời kỳ chiến tranh – năm 1954 - Từ đường bị phá hủy. Một hôm, tình cờ Ô. Bùi Quang (Ô. Xã Sử) đi ngang qua, nhặt được trong đống gạch gỗ ngổn ngang, một tấm ván, lật lên xem, thì ra đấy là một vế của câu đối nói trên. Ông ra công tìm vế kia, nhưng nó đã lọt vào tay một người khác. Ông bèn tìm cách thương lượng, đổi chác để có đủ hai về của câu đối. Ông mừng lắm, vác về, bó cất cẩn thận ở trên gác.

 

Năm sau, khi Ô.B. Bùi Khắc Tục hồi cư, sửa sang lại ngôi nhà – cũng đã đổ nát – để có nơi thờ tạm Ông Bà, thì Ô. Bùi Quang lại mang câu đối ấy đến tặng, để treo hai bên bàn thờ, gọi là chút kỷ vật còn sót lại của Tiền nhân.

 

Nhưng rồi chiến tranh tiếp diễn và rất tiếc câu đối kia lại xiêu lạc, chỉ còn lưu lại trong ký ức của con cháu mà thôi.

(Phỏng theo lời kể lại của Ô. Bùi Liễu).

 

 

Chú thích:

 

- Tiền liệt: công nghiệp đời trước

- Lưu quang: sáng soi

- Lặc thạch: khắc vào đá

 

Phỏng dịch:

 

ƠN TỔ SÁNG NGỜI NĂM THÁNG RỘNG;

PHÚC NHÀ GHI TẠC NÚI SÔNG BỀN.

 

 

 


KHÁM THỜ GIAN BÊN TẢ

(Trong nhìn ra)

 

 

Phiên âm:

 

QUANG TIỀN

 

NGHĨA CHỈ NHÂN CƠ XƯƠNG HẬU THẾ;

THỦY NGUYÊN MỘC BỔN NIỆM TIỀN NHÂN.

 

Chú thích:

 

- Quang tiền: do chữ: Quang ư tiền = làm rạng rỡ Tiền nhân.

- Cơ chỉ: nền móng.

- Xương: thịnh, đẹp.

- Thủy nguyên mộc bổn: nước có nguồn, cây có cội.

 

Phỏng dịch:

 

NGHĨA MÓNG NHÂN NỀN VUN HẬU THẾ;

NƯỚC NGUỒN CÂY CỘI NHỚ TIỀN NHÂN.

 

 

 

 

 


KHÁM THỜ GIAN BÊN HỮU

(Trong nhìn ra)

 

 

Phiên âm:

 

DỤ HẬU

 

CÔNG ĐỨC HỮU DƯ HOÀN TẠO HÓA;

PHÚC ÂN BẤT TẬN DỤ NHI TÔN.

 

Chú thích:

 

- Dụ hậu: do chữ: Dụ ư hậu = làm cho hậu thế được sung mãn.

- Câu đối trên dựa theo ý 2 câu sau đây:

Lưu hữu dư bất tận chi công dĩ hoàn tạo hóa;

Lưu hữu dư bất tận chi phúc dĩ hoàn tử tôn.

(Trích Vương Tham Chính tứ lưu minh)

 

Phỏng dịch:

 

CÔNG ĐỨC CÓ THỪA TRỜI ĐẤT GỬI;

PHÚC ÂN KHÔNG CẠN CHÁU CON NHỜ.

 

 

 


CÂU ĐỐI TRƯỚC HIÊN

(Hai cột giữa)

 

 

Phiên âm:

 

HỢP PHỐ CHÂU HOÀN, PHONG THỦY HỮU TÌNH,

ĐỒNG NGẠCH, CHÀ RANG CHUNG TÚ KHÍ;

PHI Y PHƯỚC DIỄN, CƠ CẦU KẾ NGHIỆP, BÌNH

KHƯƠNG VĨNH ĐỊA DIỆM PHƯƠNG DANH.

 

 

 

Chú thích:

 

- Hợp phố châu hoàn = Châu về Hợp phố. Ngụ ý: Của đã mất mà được lại. - Đời Hậu Hán, đất Hợp Phố thuộc về Giao chỉ (nước ta) là nơi có nhiều hạt châu. Vì quan lại Tàu hà khắc, bắt dân phải tìm hạt trai, nên những người làm nghề lấy hạt châu tránh đi ở nơi khác. Khi Mạnh Thường làm Thái thú, sửa đổi lệ cũ, người lấy hạt châu lại trở về Hợp Phố. Do đó có chữ: Châu hoàn Hợp Phố.

 

- Chung tú khí = un đúc vận khí tốt.

- Phước diễn = phước đầy dẫy

- Cơ cầu: Cơ là cái thúng: cầu là áo cầu. Con cháu hay nối nghiệp cha ông gọi là cơ cầu, ví như con nhà thợ làm cung giỏi thì bắt chước cách làm cung để uốn nắng thanh tre mà làm được cái thúng, con nhà thợ hàn giỏi thì bắt chước cách nối sắt để chắp và da thú mà làm được áo cầu. Ý nói con cháu dòng không bao giờ không giống cha ông.

 

Phỏng dịch:

 

HỢP PHỐ CHÂU VỀ, NON NƯỚC HỮU TÌNH,

ĐỒNG NGẠCH CHÀ RANG UN KHÍ TỐT;

PHI Y PHƯỚC CẢ, GIỐNG DÒNG NỐI NGHIỆP,

BÌNH KHƯƠNG VĨNH ĐỊA NGỢI DANH THƠM.

 

 

 

 


CÂU ĐỐI TRƯỚC HIÊN

(Cột hai bên)

 

 

Phiên âm:

 

HỮU MỤC TẢ CHIÊU, HƯƠNG HỎA TỨ THỜI

NĂNG VĨNH BẢO;

XUÂN HOA THU THỰC, PHÁI CHI VẠN ĐỢI

KHẢ TRINH TRUYỀN.

 

 

Chú thích:

 

- Hữu mục tả chiêu: Trong Tôn miếu hay Từ đường, bên hữu gọi là MỤC, bên tả gọi là CHIÊU.

- Hương hỏa tứ thời: việc hương khói bốn mùa, việc thờ phụng quanh năm.

- Vĩnh bảo: giữ mãi.

- Xuân hoa thu thực: mùa xuân trổ hoa, mùa thu kết trái. Nghĩa bóng: Người có tài thì lúc nào cũng hữu ích.

- Trinh truyền: lưu truyền mãi.

 

 

 

Phỏng dịch:

 

TỰ SỞ UY NGHIÊM, HƯƠNG KHÓI BỐN MÙA

LUÔN BẢO QUẢN;

TÔNG MÔN PHÁT TRIỂN, GIỐNG DÒNG MUÔN THUỞ

MÃI LƯU TRUYỀN.

 


 

CỔNG TỪ ĐƯỜNG

 

 

Phiên âm:

 

BÙI TỪ MÔN

 

ĐỨC BẤT DU, XUẤT NHẬP KHẢ GIÃ;

HÒA VI QUÝ, TIỂU ĐẠI DO CHI.

 

(Câu này của tiền nhân còn truyền lại)

 

Chú thích:

 

- Du: vượt qua

- Đức bất du: không có gì hơn đức hạnh. Do câu: Đại đức bất du nhàn (Kinh Thư).

 

Phỏng dịch:

 

ĐỨC LÀ HƠN, VÀO RA ĐƯỢC CẢ;

HÒA LÀM QUÝ, LỚN  NHỎ NOI THEO.

 

 

 


 

CÂU ĐỐI Ở TRỤ BIỂU

(Mặt trước)

 

Phiên âm:

 

THIỆN QUẢ THIỆN NHÂN, TÍCH HOAN QUẬN,

KIM VĨNH TRINH, LÂN CHỈ PHỤNG MAO

HƯNG VỌNG TỘC;

HẢO SƠN HẢO THỦY, BẮC SÀI GIANG,

NAM TÀO LÃNH, LONG BÀN HỔ CỨ

BẢO TÔN TỪ.

 

Chú thích:

 

-     Thiện quả thiện nhân: nhân lành quả tốt. – Con cháu khương thịnh là nhờ phúc ấm của Ông Bà.

-     Lân chỉ phụng mao: ngón chân con lân, lông con phụng. – Nghĩa bóng: con nhà danh gia thế phiệt.

-     Long bàn, hổ cứ: long quanh co, uốn khúc, hổ ngồi chổm. – Những cuộc đất tốt về Địa lý.

 

Phỏng dịch:

 

QUẢ TỐT NHÂN LÀNH, XƯA HOAN QUẬN

NAY VĨNH TRINH, LÂN VUỐT PHỤNG LÔNG,

GÌN TỘC PHÁI;

NON XINH NƯỚC ĐẸP, BẮC SÀI GIANG

NAM TÀO LÃNH, LONG TRIỀU HỔ PHỤC,

GIỮ TỪ ĐƯỜNG.

 

 

 


 

CÂU ĐỐI Ở TRỤ BIỂU

(Mặt bên)

 

 

Phiên âm:

 

DIỆP MẬU CĂN THÂM, TỔ ẤM TRIỆU BỒI

NAM CẬP NỮ;

ĐỊA LINH NHÂN KIỆT, TÔN CÔNG TÀI THỰC

CÔ NHƯ KIM.

 

 

Chú thích:

 

- Diệp mậu căn thâm: cội rễ sâu thì cành lá um tùm.

- Triệu bồi: xây dựng, vun đắp.

- Tài thực: trồng trỉa.

 

Phỏng dịch:

 

LÁ TỐT RỄ SÂU, ƠN TỔ ĐƯỢM NHUẦN

TRAI LẪN GÁI;

ĐẤT LÀNH NGƯỜI ĐẢM, PHÚC NHÀ THẮM GỘI

TRƯỚC NHƯ NAY.

 


 

 

BỨC HOÀNH CỦA BỔN TỘC

 

 

 

BÙI TỪ ĐƯỜNG

 


BỨC HOÀNH CỦA TỘC ĐÀO TẶNG

 

 

THÂM TƯ HẬU TRẠCH = LUÔN NHỚ ƠN DÀY

 

 

 

 

 

BỨC HOÀNH CỦA TỘC ĐỖ (CỔ THÁP) TẶNG

 

 

TỔ ĐỨC LƯU QUANG = ĐỨC TỔ SÁNG NGỜI

 

 

 

Lễ cung nghinh tôn linh Tổ Tiên Tộc Bùi tại

Mộ TIỀN HIỀN trong ngày Khánh thành Từ đường

 

 

Mộ Ngài Đệ Thập Thế Tổ: BÙI TẤN HIỆU

trùng tu trong dịp Thanh Minh 1993

 

 

Cúng Khánh thành Từ đường Bùi Tộc

Đọc: Văn Tế

 

 

 

Đại diện Tộc Đào mừng lễ Khánh Thành Từ đường Bùi Tộc

 

 

 

 


CÂU ĐỐI CỦA PHÁI I CÚNG

 

 

Phiên âm:

 

BÙI GIA YẾN DỰC DI MƯU, LAN QUẾ

ĐÌNH GIAI QUANG TỔ ĐỨC;

VĨNH ĐỊA PHỤNG MAO TẾ MỸ, NHẠN HỒNG

THỨ ĐỆ THIỆU MÔN PHONG.

 

(Câu này do Ô. Bùi Mộng Vũ tức Ô. Giáo Nhì soạn lúc sinh tiền).

 

Chú thích:

 

-     Yến dực: cánh én. – Di mưu: Phương pháp làm ăn của Ông Cha để lại.

-     Yến dực di mưu: làm ăn cần lao, kiên trì như chim én gầy tổ.

-     Lan quế đình giai: sân thềm đầy lan quế. Do câu: Tử tôn phát đạt viết lan quế đằng phương.

-     Nhạn hồng thứ đệ: anh em, con cháu biết kính nhường như đàn chim hồng nhạn bay luôn giữ hàng ngũ, thứ lớp.

 

 

Phỏng dịch:

 

BÙI GIA BỀN CHÍ MƯU SINH, LAN QUẾ

ĐƠM HOA NGỜI TỔ ĐỨC;

VĨNH ĐỊA RA CÔNG LẬP NGHIỆP, NHẠN HỒNG

TUNG CÁNH RẠNG MÔN PHONG.

 

 


BỨC HOÀNH CỦA PHÁI II CÚNG

 

 

TÍCH THỌ KIM BA = Cây ngày trước quả hôm nay.

Chữ do Ô. Thầy Quế ở Duy An soạn.

 

 

 

 

BỨC HOÀNH CỦA PHÁI III CÚNG

 

 

TỔ ẤM ĐỒNG TRIÊM = Cùng hưởng phúc ấm của Tổ tiên.

 


BỨC HOÀNH CỦA PHÁI IV CÚNG

 

PHƯỚC LƯU HẬU DUỆ = Để phúc cho con cháu đời sau.

 

 

 

 

BỨC HOÀNH CỦA PHÁI V CÚNG

 

 

LAN QUẾ ĐẰNG PHƯƠNG = Lan quế ngát thơm.

Do câu sách: Tử tôn phát đạt viết Lan quế đằng phương.

 

 

 

BỨC HOÀNH CỦA CON GÁI & RỂ

CHI 2 PHÁI I CÚNG

 

 

BĂNG THANH NGỌC NHUẬN: Giá trong ngọc lành.

Sách xưa có câu: Băng thanh ngọc nhuận nhạc gia nghĩa tế đồng vinh.

Chữ do Ô. Thầy Lê ở Duy Châu soạn.

 

 

BỨC HOÀNH CỦA NHÁNH BÙI MỸ SƠN CÚNG

 

 

PHƯỚC LỘC THỌ

 


BỨC HOÀNH CỦA GIA ĐÌNH Ô.B. BÙI XƯỚC CÚNG

 

 

ẨM HÀ TƯ NGUYÊN = Uống nước nhớ nguồn.

 

 


CÂU ĐỐI CỦA GIA ĐÌNH Ô.B. BÙI QUÁN CÚNG

 

 

Phiên âm:

 

TỔ MIẾU VIÊN THÀNH, DỊCH THẾ PHỒN XƯƠNG

HÒE QUẾ MẬU;

TÔN CHI ĐOÀN KẾT, THIÊN NIÊN THỊNH ĐẠT

TỬ PHẦN HƯƠNG,

 

Chú thích:

 

-         Tổ miếu: Từ đường, Nhà thờ Tổ tiên.

-         Dịch thế: Trải qua nhiều đời.

-         Phồn xương: Đông đúc, thịnh vượng.

-         Hòe quế: Anh em, con cháu. Trong truyện Kiều có câu: “Một cây cù mộc, một sân quế hòe”.

-         Mậu: Sum sê, tươi tốt.

-         Tử phần: - Tử: Cây thị. – Quê mình sinh đẻ.

- Phần: Loại cây hay trồng ở thôn quê. – Nơi chôn nhau cắt rốn.

  “Đoái trông muôn dặm tử phần”. (Nguyễn Du).

 

Phỏng dịch:

 

TỔ MIẾU HOÀN THÀNH, MUÔN THUỞ PHỒN VINH

THƠM GỐC TỬ;

PHÁI CHI ĐOÀN KẾT, NGHÌN THU THỊNH ĐẠT

RỢP SÂN HÒE.


CÂU ĐỐI CỦA GIA ĐÌNH Ô.B. BÙI THUẦN CÚNG

 

 

Phiên âm:

 

ĐỊA KHẢI SÙNG TỪ VĨNH BẢO TIỀN CƠ

LONG MẠCH VIỄN;

THIÊN TĂNG VĨ KHOÁN TRINH LƯU HIỀN DUỆ

PHÚC CĂN THÂM.

 

Ô. Thầy Quế ở Duy An soạn.

 

Chú thích:

 

- Khải: Mở.

- Sùng từ: Nhà thờ tôn nghiêm.

- Long mạch. – Theo khoa Địa lý, khí thế của núi sông gọi là long mạch.

- Vĩ khoán: Bằng cứ đại.

- Trinh lưu: Để trọn lại.

- Hiền duệ: Con cháu đời sau.

- Phúc căn: cội phúc.

 

Phỏng dịch:

 

ĐẤT TRỔ ĐỀN CAO, LUÔN GIỮ NỀN XƯA,

LONG MẠCH TỐT;

TRỜI DÀNH CẢNH ĐẸP, MÃI TRUYỀN LỚP TRẺ,

PHÚC CĂN BỀN.

 


CÂU ĐỐI CỦA GIA ĐÌNH Ô.B. BÙI KHẮC TỤC CÚNG

 

 

Phiên âm:

 

TỘC PHÁI THÙY THANH, SỰ NGHIỆP

PHƯƠNG TRUYỀN TRIÊM HẬU TRẠCH;

SƠN XUYÊN DỤC TÚ, CƠ ĐỒ

GIAI KHÁCH CHẤN TIỀN HUY.

 

Chú thích:

 

-         Thùy thanh: Để tiếng tốt về sau.

-         Triêm hậu trạch: thấm nhuần Ơn dày.

-         Dục tú: Un đúc khí tốt mà sinh người giỏi.

-         Giai khoách: Mở mang, khoách trương.

-         Chấn: Phấn phát lên, nổi tiếng.

-         Huy: Đẹp. Tiền huy: Thanh danh đời trước.

 

Phỏng dịch:

 

TỘC PHÁI VẺ VANG, SỰ NGHIỆP KHÉO TRUYỀN

NHUẦN PHÚC CẢ;

NON SÔNG UN ĐÚC, CƠ ĐỒ RỘNG MỞ

RẠNG DANH XƯA.

 


CÔNG TRÌNH TÁI TRÙNG TU

MỘ TIỀN HIỀN BÙI TỘC

 

 

I. Sơ lược về lịch sử mộ Tiền Hiền:

 

Mộ Tiền Hiền là song phần của:

 

-         Ngài Hiển Thỉ tổ (Đệ I thế tổ) BÙI Đại lang húy TẤN DIÊN và

-         Ngài Hiển Cao cao tổ (Đệ II thế tổ) BÙI Quý công húy TẤN TRƯỜNG.

 

Mộ tọa lạc tại xứ Đại Tha tục gọi là Gò Sỏi, thôn Vĩnh Trinh, cách Từ đường của Tộc khoảng 1 km về phía Tây Bắc.

 

Mộ triều Đông, tọa Khôn, hướng Cấn, kiêm Giáp Dần, được Ngài Bùi Thân (Ô. Quản Nghi) sùng tu phụng cúng Bổn tộc năm Giáp Tý (1924) một cách quy mô, tráng lệ: Huynh, nấm đều bọc đá, bia có nhà bia, trước có bình phong, trụ biểu, xung quanh có thành, sân mộ lát đá tấm!

 

Nhưng qua thời kỳ chiến tranh khốc liệt (1945-1975) bia bị ngã bể, còn các phần khác như: nấm, huynh, nhà bia, bình phong, trụ biểu, thành đều bị hư hại nặng nề: gạch đá phần thì bị mang đi nơi khác, phần thì bị lấp vùi dưới đất cỏ hoang vu.

 

Trong đợt tiểu trùng tu phần mộ Tiền nhân vào những dịp Đông Chí Đ. Mão (1987) và Thanh Minh M. Thìn (1988), Tộc có cử Ô. Bùi Văn Lập (Thế thứ 18) về phối hợp với bàn con ở địa phương để tạm tu bổ lại mộ Tiền Hiền như gắn bia bị bể, làm áo bia và xây hai nấm có dạng áo quan.

 

II. Công tác tái trùng tu mộ Tiền Hiền

 

Sau khi Từ đường đã được tái thiết xong, vào đầu Thu năm T. Mùi (1991), bà con - ở nguyên quán cũng như ở trong Nam - đều đồng ý cho tiến hành đại tu bổ ngôi mộ Tổ một cách mỹ quan, kiên cố - vừa xứng đáng với công đức khai sáng của Tiền nhân, vừa hài hòa với Từ đường mới được hoàn chỉnh – theo quy cách như sau:

 

1.   Họa đồ: Họa đồ tái trùng tu đã do Ô. Bùi Minh Châu vẽ - sau khi tham khảo ý kiến của bà con – và đã được Tộc phúc duyệt trước khi thi hành. Tuy có tăng cao so với đợt tu bổ gần đây, bia và nhà bia vẫn giữ đúng phương hướng cũ. Thành mộ (14,5 m x 17,75m) làm theo dấu móng ngày xưa.

 

2.   Ban Tái trùng tu: Ban này gồm có:

 

- Ô. Bùi Ngọc Kính: Trưởng ban

- Ô. Bùi Vinh: Phó ban, kiêm ủy viên Tài chính

- Ô. Bùi Tân: Ủy viên

- Ô. Bùi Nên: Ủy viên

 

Bên cạnh Ban Tái trùng tu, có Ô. Bùi Tấn, Đại diện thường trực của bà con ở trong Nam.

 

3. Thời gian công tác: Khởi công đúng vào ngày Đông Chí 17/11/T. Mùi (22/12/1991).

 

Vì thời tiết Đông thiên, nên công trình kéo dài hơn 5 tuần lễ và hoàn thành vào ngày 27/12/T. Mùi (31/1/1992).

 

4.   Kinh phí:

 

Vật liệu:

- Sắt các loại                                                    2.591.000

(303,5 kg + 45 cây)

- Xi măng (7,1 tấn)                                           5.089.000

- Gạch (7.600 viên)                                             816.000

- Cát (xây, tô, đổ nền)                                         649.000

- Sạn                                                                   352.000

Linh tinh:                                                           1.335.500

Công thợ:                                                         2.300.000

                                                                         --------------

Tổng cộng:                                                          13.132.500   

 

III. Bia – Nhà bia – Bình phong – Trụ biểu

 

1. Bia:     Để bảo tồn di tích của Tiền nhân, tấm bia cũ đã được chỉnh trang và dựng lại. Chúng ta đọc:

 

 

Mặt trước:

 

 

 

Phiên âm:

 

Tuế thứ Giáp Tý niên mạnh hạ kiết nhật.

 

Cổ Thăng Ba phủ, Ba Châu thuộc, La Tháp châu, Bình Khương thôn.

 

ĐẠI NAM HOAN QUẬN NAM LAI TIỀN HIỀN:

 

HIỂN THỈ TỔ BÙI ĐẠI LANG QUÝ CÔNG,

HIỂN CAO CAO TỔ BÙI TÔN LINH QUÝ CÔNG

 

CHI MỘ

 

Kim Điện Bàn phủ, Duy Xuyên huyện, Đông An tổng, Vĩnh Trinh thôn.

 

Bùi tộc Tự tôn Bùi văn Thân sùng tu phụng cúng Bổn Tộc

 

đồng lập thạch.

 

 

Mặt sau:

 

 

Phiên âm:

 

PHÚ THỌ KHƯƠNG NINH

 

Bài Minh:

 

Ẩm hà tư nguyên, nhân sinh khởi vong bổn thỉ chi báo hồ ?

 

Cung duy ngã:

 

Hiển Thỉ tổ Bùi Đại lang Hoan châu nhân sinh hạ,

Cao cao tổ Bùi Quý công bổn châu khai cơ.

Tiền hiền công đức biểu biểu vu công đình, tự vu gia miếu, mộ vu Đại Tha (tọa Khôn, hướng Cấn, kiêm Giáp Dần).

 

Tưởng y quan chi xuất du, miến tùng thu chi tại vọng, ư thị hồ minh.

 

Minh viết: Hải Bắc nguyên lai, Hà đông hệ kỷ. Kiết xã cưu dân, lập đình tạo thị. Châu thôn triệu tích, tộc phái thùy thanh. Phụng mao tế mỹ, lân chỉ tường trình. Miến duy tiền huy, sơn công hải đức, Đại Tha qui tàn, trinh mân vĩnh thực.

 

Câu đối:

 

KIỀU TỬ PHONG CAO TRUYỀN VĨ KHOÁN;

GIÁ TÙNG VÂN HẠ ĐIỆN GIAI THÀNH.

 

Phỏng dịch:

 

CẢNH TRÍ PHONG QUANG, KIỀU TỬ VUN BỒI CƠ NGHIỆP CŨ;

CÔNG TRÌNH MỸ LỆ, GIÁ TÙNG TÔ ĐIỂM MỘ PHẦN XƯA.

 

 

2. Nhà bia:

 

- Trên phần cổ lầu Nhà bia, có 4 chữ:

 

 

TIÊN TỔ THỊ HOÀNG

 

(chữ trong Kinh Thư) hàm ý: Tổ tiên là trên cả,

 

- Câu đối ở hai trụ phía trước:

 

 

Phiên âm:

 

CÔNG ĐỨC TRIỆU BỒI ĐÔNG HẢI QUẢNG;

PHƯỚC ÂN TRIÊM NHUẬN THÁI SƠN CAO.

 

Phỏng dịch:

 

CÔNG ĐỨC TÔ BỒI ĐÔNG HẢI RỘNG;

PHÚC ÂN NHUẦN ĐƯỢM THÁI SƠN CAO.

 

Câu đối ở hai trụ phía sau:

 

 

Phiên âm:

 

SỰ NGHIỆP PHƯƠNG TRUYỀN THÙY HẬU THẾ;

MỘ PHẦN TRANG CHỈNH PHỤNG TIÊN LINH.

 

 

Phỏng dịch:

 

PHẦN MỘ NGUY NGA THỜ TỔ TRƯỚC;

CƠ ĐỒ TRÁNG LỆ ĐỂ ĐỜI SAU.

 

3. Bình phong hậu:

 

Nơi Bình phong sau hậu đầu, có đắp 6 chữ lớn:

 

 

BÙI TỘC TIỀN HIỀN THẦN MỘ

 

Kèm hai bên có hai hàng chữ:

 

 

Tuế thứ Tân Mùi nhất cửu cửu nhất niên trọng đông.

 

 

Bổn Tộc tái sùng tu đồng phụng tạo.

 

4. Trụ biểu

 

Câu đối mặt trước:

 

 

Phiên âm:

 

HOAN QUẬN BẮC SINH, VĨNH ĐỊA KHAI CƠ

LƯU THẠC CHÍ;

LÊ TRIỀU NAM TIẾN, BÙI MÔN SÁNG NGHIỆP

BIỂU HÙNG TÂM.

 

Phỏng dịch:

 

RỜI BẮC TẠI HOAN CHÂU, VĨNH ĐỊA MỞ MANG

LƯU CHÍ CẢ;

VÀO NAM TỪ LÊ HẬU, BÙI MÔN XÂY DỰNG

QUYẾT TÂM CAO.

 

Câu đối mặt trên:

 

 

Phiên âm:

 

TỘC PHÁI PHỒN XƯƠNG, LÂN CHỈ PHỤNG MAO

THỪA TỔ ẤM;

SƠN XUYÊN TÚ MỸ, LONG TRIỀU HỔ PHỤC

BẢO TÔN PHẦN.

 

Phỏng dịch:

 

TỘC PHÁI PHỒN VINH, LÂN VUỐT PHỤNG LÔNG,

NOI NGHIỆP TỔ;

NON SÔNG MỸ LỆ, LONG TRIỀU HỔ PHỤC,

GIỮ LĂNG ÔNG.

 


CHƯƠNG TRÌNH LỄ KHÁNH THÀNH

TỪ ĐƯỜNG & MỘ TIỀN HIỀN BÙI TỘC

 

-         Ngày 14/1/N. Thân (17-2-92): Cầu Siêu và Cầu An tại chùa Tỉnh Giáo Hội Quảng Nam ở Hội An.

-         Ngày 15/1/N. Thân (18-2-92): Đi lễ Thập tự (viếng và lễ 10 chùa từ Hội An qua Duy Xuyên, lên đến An Lâm).

-         Ngày 16/1/N. Thân (19/2/92):

Buổi sáng: Thăm và ủy lạo một số bà con già yếu neo đơn.

Buổi chiều: Lễ Nghinh hương: Cung Nghinh Tôn linh Tiên tổ từ mộ Tiền Hiền về Từ đường. Cúng Lễ túc.

-         Ngày 17/1/N. Thân (20/20/92):

2 giờ - 3 giờ: Cúng đất. Cúng Khánh thành

3 giờ - 5 giờ: Nghi thức cổ truyền:

+ Văn tế Hán văn

+ Cung trí Phổ hệ

+ Văn tế Quốc văn

+ Lịch sử Cấu tạo và Tái thiết Từ đường

+ Hoài niệm Tổ tiên qua Thi Văn của con cháu

5 giờ - 6 giờ 30: Giải lao. Điểm tâm

6 giờ 30 - 8 giờ: Các Tộc bạn và Thân hữu đi lễ mừng

8 giờ - 9 giờ 30: Nghi thức hành chính:

+ Tuyên bố lý do

+ Giới thiệu Quan khách

+ Diễn từ của Ban Tổ chức

+ Sơ lược Lịch sử Gia tộc

+ Dâng hoa. Tưởng niệm Tổ tiên

+ Cảm tưởng của Đại diện con cháu

+ Cảm tạ của Ban Tổ chức

9 giờ 30 – 13 giờ: Chiêu đãi Quan khách và Bà con nội ngoại. Có đệm Thi Văn do Bà con sáng tác cho tập Kỷ Yếu.

 

 

 

 


 

VĂN TẾ (HÁN VĂN):

 

 

 

 

 

 

 

Phiên âm:

 

Tư thời:

 

Nhâm Thân niên chánh nguyệt thập thất nhựt. Việt Nam Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa quốc, Quảng Nam tỉnh, Duy Xuyên huyện, Duy Hòa xã, Vĩnh Trinh thôn, Bùi Tộc tự tôn Bùi thành Dương hiệp Tộc nội Bá thúc, cô nương, huynh đệ tỷ muội, nam nữ tử tôn hôn tế nội ngoại đại tiểu đẳng.

 

Tư nhân:

 

-         Bổn tộc Từ đường tái thiết sự hoàn, cung hành An vị Tổ tiên, Khánh thành Sùng từ chi lễ,

-         Bổn tộc Tiền Hiền thần mộ tái sùng tu hoàn mãn, cung hành Lạc thành khánh diên,

-         Bổn tộc Phổ hệ tu chính dĩ thanh, cung nghinh phụng trí tại Từ đường chi lễ;

 

Vị thử cẩn trạch Bùi Diệm vi chánh bái, Bùi Do dữ Bùi Sáu vi bồi bái, cung trần: hương, đăng, hoa quả, thanh chước, sinh tư, hào soạn, thứ phẩm chi nghi.

 

Cảm trí tế vu:

 

-         Phụng vì thượng tiến Tiền Hiền khai khẩn Bùi tộc, Hiển Thỉ tổ Bùi Đại lang khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

-         Phụng vì thượng tiến Tiên tổ khai cơ Bùi tộc, Hiển Thượng Cao cao tổ Cai phủ Khánh Sơn hầu Bùi Quý công khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

-         Phụng vì Hiển Lịch đợi Tôn tổ khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

-         Phụng vì Hiển Cao cao tổ khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

-         Phụng vì Hiển Cao cao tổ bá thúc khảo tỷ, đồng Cao cao tổ bá thúc khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

-         Phụng vì Hiển Cao cao tổ cô, đồng Cao cao tổ cô chi chánh liệt vị.

-         Phụng vì Hiển Cao tổ khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

-         Phụng vì Hiển Cao tổ bá thúc khảo tỷ, đồng Cao tổ bá thúc khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

-         Phụng vì Hiển Cao tổ cô, đồng Cao tổ cô chi chánh liệt vị.

-         Phụng vì Hiển Tằng tổ khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

-         Phụng vì Hiển Tằng tổ bá thúc khảo tỷ, đồng Tằng tổ bá thúc khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

-         Phụng vì Hiển Tằng tổ cô, đồng Tằng tổ cô chi chánh liệt vị.

-         Phụng vì Hiển Tổ khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

-         Phụng vì Hiển Tổ bá thúc khảo tỷ, đồng Tổ bá thúc khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

-         Phụng vì Hiển Tổ cô, đồng Tổ cô chi chánh liệt vị.

-         Phụng vì Hiển Khảo, Hiển Tỷ chi thần chánh vị tiền.

-         Phụng vì Hiển Bá thúc khảo tỷ, đồng Bá thúc khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

-         Phụng vì Hiển Cô, đồng Cô chi chánh liệt vị.

 

Kỵ:

 

-         Phục vì Tộc nội chư Chi Phái huynh đệ tỷ muội, nam nữ tử tôn hôn tế nội ngoại quá vãng chư tôn linh, hương linh.

-         Phổ tiến Môn trung hữu danh vô vị, hữu vị vô danh, huyết sảo tảo thương, sa lạc bất tường, vong biên thất ký, biệt quán ly hương, quyên thi thất mộ, đẳng đẳng chư hương hồn liệt vị (3).

 

Viết cung duy:

 

Tiên tổ           Triệu bồi hữu nhật;

                     Tích lũy đa niên.

 

Minh đức kỳ lai giã viễn;

Thành hiến kỳ vĩnh vô khiên.

 

Thiên thu nghĩa chỉ nhân cơ, khắc xương quyết hậu;

Bách thế ân thâm trạch hậu, hữu khai tất tiên.

 

Hữu mục tả chiêu, đường thượng chi tinh thần tụy tụ;

Thống Tôn hội Phái, niên lai chi hương hỏa lưu truyền.

 

Tư nhân:

 

Mộ phần trang chỉnh;

Phổ hệ chính biên.

Từ đường tái thiết;

Cơ chỉ y nhiên.

Hỷ tai Lạc thành khánh lễ;

Hân giã An vị tế diên!

Phục kỳ lai hưởng lai hâm, mặc hựu sùng từ thiên niên vĩnh bảo;

Vô nại nhi tôn nhi tử, trường lưu tộ dận vạn đợi bất thiên.

 

Ngưỡng lại:

Tổ tiên thùy dụ phúc hậu ân thâm giả giã!

 

Phục duy thượng hưởng.

 

 

Ghi chú:     Từ bài Văn Tế Xuân của Tiền nhân ngày xưa, đã thay đổi, thêm bớt đôi chi tiết cho phù hợp.

 

 

 


VĂN TẾ (QUỐC VĂN)

 

 

Kính lạy Tổ tiên!

Non Tào lãnh (1) cây cao xanh ngát, ngắm tàng cây tưởng lại cội xưa;

Sông Sài giang (2) nước chảy trong veo, nhìn dòng nước nghĩ về nguồn cũ.

 

Nhớ Tổ tiên xưa:

Tánh quận Hà Đông (3);

Phi Y (4) thế phố.

Theo đoàn Nam tiến, dưới thuở Hậu Lê;

Từ đất Hoan châu (5) chính nơi cựu thổ (6)

Trên đường lập nghiệp, khi băng ngàn, khi vượt suối, xiết nỗi gian lao;

Đến chốn định cư, có đất rộng, có khe trong, thuận bề quy tụ.

Xây đình mở chợ, đống lương góp sức, Lục châu tự sở, bia cũ từng ghi (7);

Đắp đập khai hoang, kiến thiết ra công, xã hiệu Bình Khương (8), tên xưa từ đó.

Nêu gương nghĩa cử, Cai phủ Khánh sơn hầu (9);

Nối bước cần lao, Lữ Tài nam Việt cố.

Việc tôn linh ngưỡng mộ, nhà cao vườn rộng, đình tự, từ đường;

Nếp sinh hoạt kinh doanh, nương cạn ruộng sâu, lương điền, thổ phụ.

Cải danh Bình Thuận, sau đổi Vĩnh Trinh;

Kết nghĩa Đào gia, thêm nhiều vọng hộ (10).

Đây Đồng Ngạch, Chà Rang, đây Bàu Cùng, Cầu Cao, Rộc Sách, khi sương chiều, khi nắng sớm, nghĩa hương thôn ấm lạnh đỡ đần;

Kìa Thanh Châu, Cổ Tháp, kìa An Lâm, Lệ Trạch, Cù Bàn, lúc nắng hạ, lúc mưa thu, tình lân lý răng môi gắn bó.

Thuật xử thế ngoài êm trong ấm, thầy hay bạn tốt, chọn nhân nghĩa làm phương châm;

Việc tề gia trên thuận dưới hòa, con thảo cha hiền, lấy hiếu từ làm quy củ.

Cày sâu cuốc bẩm, vui với điền viên;

Dậy sớm thức khuya, bạn cùng kinh sử.

Thời Cựu học bút nghiên gắng sức, sân Trình cửa Khổng, bậc túc Nho, Tú Cử có đều;

Buổi Tân văn đèn sách ra công, gió Á mưa Âu, hạng kỹ thuật chuyên viên chẳng hổ.

Theo đà tiến triển, khách văn chương, nhà khoa học, năm châu bốn bể, cùng người thích cánh, tô điểm quê cha;

Giữ nếp cổ truyền, người mục súc, kẻ canh nông, một nắng hai sương, quyết chí chen vai, dựng xây đất tổ.

Trải lúc cơ trời biến cải, dù buổi thái bình hay cơn binh hỏa, sức âm phò quả đã vô cùng;

Qua tuần cuộc thế đổi thay, dù nơi đất khách hoặc ở quê nhà, ơn mặc trợ thật là sáng tỏ.

Đất lành người đảm, đời này sang đời nọ, thụ hưởng hồng ân;

Nhân tốt quả xinh, lớp trước tiếp lớp sau, đượm nhuần phúc thọ.

 

Thật là:     Đức sánh sơn hà;

Ân tày vũ lộ (11)

Mênh mông bể cả, tổ ấm tài bồi;

Thăm thẳm non cao, tôn công tế độ.

 

Nay nhân:             Tái thiết Từ đường;

Chỉnh trang Phần mộ.

Mừng thay Khánh lễ Lạc thành;

Vui bấy sự hoàn tu bổ!

Theo gương Tộc bạn, góp phần hàn gắn dấu vết chiến tranh;

Cảm tạ địa phương, có chỗ chăm lo khói hương tổ phụ.

Nhờ ơn Tiên tổ, mách thầy mách thợ, công tác chu toàn;

Với sức bà con, góp của góp công, quy trình thành tựu.

Vườn xưa còn đó, dấu cũ Tiền nhân;

Đền mới giờ đây, châu về Hợp Phố (12).

Mộ phần tu chỉnh, giai thành (13) viên mãn, nghìn thu cựu tích tô bồi;

Tự sở phong quang, an vị uy nghiêm, năm Phái cơ ngơi trường cửu.

Lại thêm:   Phổ hệ chính thu;

Ấn hành cập số.

Lần xem tiểu sử, công lao các Tổ, sự nghiệp muôn đời;

Theo dõi sơ đồ, cù mộc một chồi, quế hòe trăm nụ (14).

Sưu tầm tài liệu, thi văn tuyển trạch, phụ lục dồi dào;

Bổ túc di dung, thế thứ phân minh, Phái Chi đầy đủ.

Giờ đây:

Trầm hương nghi ngút, lễ bạc tiến nghinh;

Văn tế nôm na, lòng son biểu lộ.

Con đàn cháu , rộn rã sân Lai (15);

Hướng cũ nền xưa, vui vầy gốc Tử (16).

Xin nguyện:

Rách lành đùm bọc, trước sau đoàn kết, nội ngoại tương lân;

Linh hiển chở che, năm tháng hộ trì, Từ đường kiên cố.

Thăm thẳm non cao bể rộng, nước có nguồn, cây có cội, trông đền ơn cả ba xuân;

Miên man nay lại xưa qua, chim có tổ, người có tông, mong chứng lòng thành tấc cỏ (17). Hồng ân bất tận, ngửa xin Trời Phật, độ Tiền nhân thanh thản Lạc bang (18);

Thạc đức trường tồn, cúi nguyện Tổ tiên, giúp hậu thế dồi dào phước tộ (19).

Kính thay xin hưởng!

 

Chú thích:

 

(1)         Non Tào lãnh: hòn núi Chúa, hòn núi Quắp.

(2)         Sông Sài giang: sông Chợ Củi, sông Thu Bồn.

(3)         Tánh quận Hà Đông: Theo bảng Bách gia Tánh quận danh in trong Lịch Tàu, thì tộc Bùi thuộc Hà Đông Quận.

(4)         Phi Y: chiết tự của chữ Bùi. Khi chiết tự chữ Bùi gồm có hai phần: Phi = lụa đào và Y = áo.

(5)         Hoan châu: Theo Phổ hệ, Tiền nhân của Tộc Bùi gốc từ Hoan Châu (Nghệ An).

(6)         Cựu thổ: nơi cũ.

(7)         Lục châu tự sở, bia cũ từng ghi: Bia Đình Châu dựng năm Giáp Tuất (1754), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 15 đã từng ghi.

(8)         Bình Khương: xã hiệu cũ của Vĩnh Trinh.

(9)         Cai phủ Khánh sơn hầu: vị có công cấu tạo công đình, đã từng được tán dương trong bia Đình Châu nói trên.

(10)     Vọng hộ: tộc họ danh tiếng.

(11)     Vũ lộ: mưa móc.

(12)     Châu về Hợp Phố: xin xem chú thích trang 42,

(13)     Giai thành: phần mộ.

(14)     Quế hòe trăm nụ: con cháu đông đúc.

(15)     Sân Lai: Đời nhà Chu, có Ông Lão Lai đã 70 tuổi, cha mẹ hãy còn. Một hôm ông mặc áo ngũ sắc ra sân múa rồi giả cách ngã, khóc như trẻ con, để làm vui cho cha mẹ. Sân Lai: ngụ ý gia đình đông đúc đoàn tụ.

(16)     Gốc tử: xem chú thích về “tử phần” trang 54. Trong truyện Kiều có câu:

“Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm”.

(17)     Tấc cỏ: Do câu thơ của Mạnh Giao đời Đường: Dục tương thốn thảo tâm, báo đáp tam xuân huy = Muốn đem tấc lòng cỏ đền đáp ánh sáng ba tháng xuân (vì nhờ có ánh sáng ấm áp của mùa Xuân, cây cỏ mới xanh tươi, cũng như nhờ có công ơn cha mẹ, con mới nên người).

“Liệu đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân” (Nguyễn Du).

(18)     Lạc bang: cảnh giới Cực lạc của Đức Phật A-Di-Đà.

(19)     Tô: phúc, vận may.


LƯỢC THUẬT

LỄ KHÁNH THÀNH TỪ ĐƯỜNG

VÀ MỘ TIỀN HIỀN BÙI TỘC

 

 

Những ngày đầu Xuân, quê hương Vĩnh Trinh còn lành mạnh. Buổi sáng, xóm làng ẩn khuất trong màng sương. Nhà nhà vẫn còn bánh mứt và hoa mai rộn nở.

 

Từ đường Bùi Tộc đã làm xong. Ngôi mộ Tiền Hiền cũng được hoàn tất vào cuối năm Tân Mùi, do sự hiệp lực của bà con đã xây dựng giữa những ngày Đông mưa lạnh.

 

Cả Tộc đều mong đợi lễ Khánh thành Từ đường và mộ Tiền Hiền, dự trù sẽ diễn ra từ 14 đến 17-1-Nhâm Thân (1992). Ban Tổ chức được đề cử gồm những bà con hiện ở quê hương, với ý nghĩa tôn trọng cội nguồn. Trước một cuộc lễ có tính cách quy mô và quan trọng, mỗi người con cháu trong Tộc đều ưu tư, lo lắng.

 

Cảm nhận được trách nhiệm và danh dự chung, số bà con trong Tộc hiện ở Sài Gòn đã hội bàn và cử bốn vị lo về quê sớm, trước cuộc lễ độ 10 ngày, để yểm trợ, đồng thời huy động và tài trợ phương tiện di chuyển cho khoảng 40 bà con khác, ở rải rác trong Nam, cùng về dự lễ.

 

Khi về đến quê hương, bộ phận yểm trợ nhận thấy có một số trở ngại - từ ngoại cảnh không thuận lợi đến tinh thần dao động của bà con – tưởng chừng như không vượt qua được. Mọi nhu cầu, tiện nghi vật chất, mọi phương tiện đều khó khăn, thiếu thốn!

 

Trước tình huống này, toàn thể bà con đã nhất trí họp bàn liên tục 3 đêm để ổn định tổ chức, củng cố tinh thần, quyết tâm hoàn thành viên mãn cuộc lễ, vì danh dự của Gia tộc, vì kỳ vọng của bà con, con cháu ở khắp nơi nơi.

 

Như vậy, việc tổ chức thực sự khởi đầu từ ngày mồng 10. Chỉ trong 6 ngày, tất cả yêu cầu phục vụ cho cuộc lễ đã hoàn tất với kết quả:

 

-         Một lều dù tiếp khách với đầy đủ ghế ngồi cho khoảng 150 vị.

-         Một nhà bếp cho 10 bếp nấu liên tục.

-         Một trại trần thiết để phục vụ tiệc với số nhân viên phụ trách trên 30 người cả nam lẫn nữ.

-         Một trại đãi tiệc đủ thiết trí 30 bàn tròn, để dọn mỗi hiệp 300 thực khách.

-         Một bàn kiệu nghinh Tổ, cổng chào, cờ hoa, liễn đối, trụ cờ, trụ pháo, cờ phương, hoa kiểng.

-         Cử người phụ trách việc cất giữ nón, mũ, dù, khay, quả v.v…, bố trí bãi giữ xe.

-         Trần thiết hoa mỹ và uy nghiêm 3 gian bàn thờ. Thiết trí các bàn cúng đất.

-         Mua sắm bò heo tận Trà Kiệu, Mỹ Sơn, chuẩn bị đội ngũ chuyên lo việc tể sinh.

-         Nấu 500 bánh rò.

-         Hệ thống âm thanh, ánh sáng trong và ngoài địa điểm.

-         Dự phòng máy điện.

-         Thuê mướn bàn ghế, chén bát, đặt mua bánh mì tận Vĩnh Điện, Hội An.

-         Sắp xếp các ban nghi lễ, tiếp tân, đãi tân, nhà bếp, vệ sinh, trật tự v.v…

-         Mời ban cổ nhạc, tập huấn các bộ phận xướng lễ, đọc văn tế, các vai chánh bái, bồi bái theo nghi thức cổ truyền.

-         Hợp đồng việc nhiếp ảnh, quay phim…

 

Nhìn chung công việc tổ chức lễ được hoàn tất đúng kế hoạch vào trưa 16.1.

 

Theo chương trình đã phổ biến, lễ Cầu siêu và Cầu an sẽ được tổ chức ngày 14-1 tại Từ đường. Nhưng vì có sự thay đổi đột ngột ngoài dự kiến về địa điểm, nên các trai lễ đã được cử hành – cùng ngày – tại chùa Tỉnh Hội ở Hội An. Số bà con ở Hội An, Đà Nẵng và một số đại diện ở trên quê đã tập trung về dự lễ suốt cả ngày. Quý vị Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng Ni của Tỉnh Hội đã khai kinh, dâng sớ cầu siêu cho Cửu huyền thất tổ, cầu an cho toàn thể bà con, con cháu nội ngoại xa gần và bá tánh chúng sanh, ước mong tất cả đều được đấng Từ Bi gia hộ.

 

Ngày 15 và buổi sáng ngày 16-1, một đoàn – đại diện Tộc – lo đi cúng dường Thập tự, từ khu vực Hội An, Cẩm Hà, qua thị trấn Nam Phước, lên Duy Xuyên và về đến Lục thôn. Tiếp theo, đoàn đến thăm các bà con trong Tộc già yếu, neo đơn, nghèo khó mà tổng số là 50 vị và số tiền làm tặng phẩm gần tròn 2 triệu đồng.

 

Trước 14 giờ ngày 16-1, ban Tổ chức tổng duyệt lại các phần hành và chuẩn bị lễ cung nghinh Tôn linh Tiên tổ.

 

Một buổi chiều đẹp trời, nắng ấm, trên đồng lúa xanh mượt mà, bà con con cháu nội ngoại tộc Bùi, hàng ngũ chỉnh tề, theo tuổi tác, y trang, kính cẩn theo sau linh kiệu, xuất phát từ Từ đường, tiến về mộ Tiền Hiền tại xứ Đại Tha. Những lá cờ ngũ sắc đuôi nheo, lọng đỏ, tiếng lễ nhạc, trống chiêng vang lên thật huy hoàng và đẹp mắt! Niềm vui mọi người dâng cao, phấn khởi, chan hòa những giọt nước mắt xúc động. Tại mộ Tiền Hiền, sau lễ cáo Đất đai, là lễ cung nghinh Tôn linh Tiên tổ. Tiếng pháo mừng vui rộn rã. Đoàn Nghinh hương về đến Từ đường lúc 16 giờ. Một lần nữa, sau lễ cáo Đất đai, là Lễ túc, an vị Tổ tiên. Số con cháu tham dự khoảng trên 500 người.

 

Sau bữa cơm tối, một số bà con tản mác về nhà người thân tạm nghỉ. Số khác vẫn túc trực để lo việc tế lễ từ 2 giờ khuya đến 5 giờ sáng.

 

Trong thời gian này, sau diên cúng Đất, cúng Khánh thành, là diên Chánh tế - theo nghi thức cổ truyền - gồm có: Văn tế (Hán văn), Cung trí Phổ hệ, Văn tế (Quốc văn), Lịch sử cấu tạo và tái thiết Từ đường, Hoài niệm Tổ tiên qua thi văn của con cháu. Tuy đông đúc, nhưng buổi lễ rất mực trang nghiêm, trọng thể.

 

Sáng 17-1, ngay sau bữa điểm tâm (khoảng trên 200 người) ban Tổ chức tăng cường thêm, vào phần hành tiếp tân, nhiều anh chị em trẻ, năng động để đáp ứng nhu cầu tiếp đón và xã giao. Ngoài số bà con ở địa phương, các bà con từ các nơi xa như Sài Gòn, Vũng Tàu, Đồng Nai, Phan Rang, Hàm Tân, Lâm Đồng, Đà Lạt, Ban Mê Thuột, Huế, Đà Nẵng, Hội An, Cẩm Lệ, Tam Kỳ… và từ các làng phụ cận cũng tấp nập kéo về. Tất cả đều được gắn phù hiệu để phân nội ngoại và thế thứ.

 

Chúng ta còn hân hạnh tiếp đón các vị Đại biểu các cơ quan, đoàn thể địa phương, các Đại diện chư Tộc bạn trong Lục thôn, các thân hữu trong thôn xóm, các ban thợ mộc, thợ nề và các ban chuyên môn khác.

 

Mỗi phút, mặt trời lên cao, con đường mương nước - lối vào Từ đường - lại tràn ngập người đi. Tất cả đều nghiêm trang tụ về địa điểm. Giờ phút này là lúc mà mọi người đều dồn hết tâm lực mình để hoàn tất nhiệm vụ. Anh Bùi Nguyên Dư, được giao phận sự giới thiệu và điều khiển chương trình, đã mệt nhoài vì công việc.

 

Vào khoảng 8 giờ, phần nghi thức hành chính bắt đầu. Theo phân bổ, các anh Bùi Quang Lộc đọc Diễn từ khai mạc, anh Bùi Bảy trình bày Quá trình phát triển của Gia Tộc, cô Bùi Thị Đạt nói lên Cảm tưởng chung của bà con, con cháu nội ngoại và anh Bùi Văn Bảy đọc Lời cảm tạ quan khách.

 

Mục các cháu nhỏ dâng hoa để tưởng niệm Tổ tiên vừa uy nghi, vừa xinh xắn. Cũng có phần thi lễ của các Tộc bạn. Đây là một hình ảnh thắm thiết nhất, đã nói lên sự quý trọng lẫn nhau trong tình lân lý, hương thôn và cách ứng xử cao đẹp khó phai mờ trong tâm hồn người dân Việt.

 

Trời hôm nay xuống nhiều sương muối. Buổi sáng còn lạnh. Các con cháu lần lượt vào lễ bái. Giờ phút này không còn niềm vui nào vui hơn! Nhìn vào hương án, khói trầm bay nghi ngút, những cổ bánh, mâm rượu, hoa quả đủ màu của bà con khắp nơi dâng cúng đã làm tăng thêm vẻ huy hoàng, lộng lẫy.

 

Các niên trưởng trong Tộc và ban Tiếp tân đã đến mời quý vị khách cùng tham dự tiệc rượu mừng vui. Số hiện diện lên khoảng 1200 người. Để tỏ lòng kính trọng và ưu ái, những tiệc đầu được dành riêng cho quan khách và con cháu ngoại. Con cháu nội tiếp tục vào sau.

 

Thực đơn gồm có bò tái, xáo tái, bánh mì, bánh rò, chuối, trà, thuốc và mỗi bàn một chai rượu. Các tiếp viên nam nữ làm việc tận tình, vui vẻ và lễ phép. Tiệc chót chấm dứt lúc 13 giờ.

 

Không có cuộc vui mừng nào là thiếu pháo. Và cũng thể theo yêu cầu của bà con, nhất là giới trẻ, số pháo được sử dụng tương đối nhiều. Trong đêm Chánh tế, ngoài pháo dây – dài hàng 10 m – còn có pháo hoa đủ màu, thỏa mãn được niềm hoan hỉ, nỗi ao ước lâu nay của con cháu.

 

Buổi chiều 17, các phần hành lo dỡ trại và tổng kết số tiền lạc cúng lễ Khánh thành (trên 3 triệu đồng).

 

Ngày 18-1, trong buổi sáng, ban Tổ chức đã hoàn tất các khâu dọn dẹp, hoàn trả, đền bù và tặng quà cho quý bà con đã góp công, giúp sức bền bỉ cho đến giờ chót.

 

Sau lễ Khánh thành, có một phiên họp để rút kinh nghiệm và tổng kết thu chi.

 

Công việc gì, đã thực hiện, thường không tránh khỏi ít nhiều khuyết điểm. Nhưng qua dư luận thu thập được, bà con đều mừng là ngoài những sơ sót thường tình, suốt trong tiến trình gần trọn 4 ngày, cuộc lễ nhìn chung đã đạt được kết quả mong muốn.

 

Nhân đây chúng ta không quên cảm ơn tất cả những bà con đã nhiệt tình trong các công tác của Tộc, cụ thể là đã đem hết tâm trí, sức lực vào các việc như:

-         tái thiết Từ đường.

-         tu bổ phần mộ, nhất là mộ Tiền hiền.

-         tổ chức hoàn mãn lễ Khánh thành.

 

Chúng ta cũng chân thành tán dương thiện chí của tất cả bà con nội ngoại, xa gần đã hưởng ứng tích cực chủ trương của Tộc, đã xung phong lạc cúng xứng đáng mới có được thành quả tốt đẹp như ngày nay.

 

Ngày xưa, lễ Lạc thành Nhà thờ được tổ chức vào năm 1923. Trải qua một cuộc bể dâu, năm 1992 này, chúng ta lại khánh thành Từ đường. Từ đây, trên nền móng cũ, giữa đồng lúa bao la, bát ngát, mỗi lần con cháu về thăm cố hương, lại được thấy cái tổ ấm muôn đời của Gia Tộc vẫn rạng rỡ, uy nghi.

 

Cái cảnh: “Lạnh lẽo thềm rêu cỏ ngập tường” không còn nữa.

Chúng ta khỏi ngậm ngùi than thở:

Tôi đứng bên thềm hoang lạnh cũ,

Nghẹn ngào không nói mắt rưng rưng!

 

Và từ nay bà con chúng ta:

 

Ân trước, tình sau, nghĩa vẹn toàn,

Dặm dài con cháu viết thêm trang.

Tô bồi gia tộc cùng ra sức,

Rực rỡ trời Xuân hoa hướng dương

 

Minh Tuyền.

 

 

BC. Xin phép trích các câu thơ trên của Ô. Bùi Hoàn và Ô. Bùi Văn Nam Sơn.

 


 

 

 

 

 

 

 

PHỤ LỤC

 

 

 

 

THI VĂN SÁNG TÁC

 

CỦA

 

BÀ CON NỘI NGOẠI

 

 

 

 

 

 

 

 

Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang

 

Nguyễn Du


 

CẢM ĐỀ

 

Kỷ niệm ngày Khánh thành Từ đường

 

Ngang qua đấy…

Ai cười? Ai khóc!

Nhà Từ đường – hoang địa trơ !

Thế là hết! Trải cơn gió bụi,

Mỗi Xuân Thu, giỗ Tổ vắng lâu rồi!

Gió Gò thị, Đồng Nam lộng thổi,

Tịch liêu buồn. Nền lạnh trải bao trăng.

Ngậm ngùi thương, thổn thức bên lòng,

Bởi ly loạn “Tang điền thương hải”.

 

Ba sáu năm mưa dầu nắng dãi,

Cháu con còn tản mạn nơi nơi.

Lòng thương Tổ nhớ Tông cao vọi,

Ao ước mong tái thiết Từ đường.

 

Vui mừng thấy gió hiền thổi rộ,

Nhà thờ nay dựng lại nền xưa.

Viên đá cũ ấm lòng chào ngói mới,

Trụ biểu mừng hết thuở cô đơn.

Mạch hồ thơm gắn chặt mối đồng tâm,

Đàn con cháu thi công lo phận sự.

 

Ngành Khánh thành, “Châu nhi phục thỉ”,

Hội trống chiêng giục giã gọi nhau về.

Để Sài giang không lạnh mặt ủ ê,

Cho Tào lãnh đời đời thêm sừng sững.

Ngày Khánh thành - niềm vui tâm tưởng,

Dẫu đơn nghi ngút khói trầm hương.

Nhưng tha thiết vì tràn đầy ý nguyện,

Nối ngàn xưa tiếp mãi với ngàn sau.

Trong thân tộc dù kẻ còn người khuất,

Đạo lý xưa luôn vẫn giữ cội nguồn.

Giờ này đây, sao nói hết nguồn cơn?

Con xin đốt nén hương lòng quy phục,

Nguyện cầu xin Trời cao gia ân phúc,

Nghinh Tổ tiên về an vị án linh xưa.

Quê Bình Khương đá sỏi nắng cùng mưa,

Mãi hội nhập khí thiêng Bùi môn trường cửu!

 

Minh Tuyền

 


 

BÙI PHAN

 

Lục Thôn từ trước đến nay ơi !

Tình nghĩa Bùi Phan đã mấy đời.

Ngoại Nội trăm năm còn nhớ hết,

Họ hàng nghìn thuở vẫn tìm chơi.

Phong lưu, phú quý đâu ngoài nước,

Khoa học, văn chương có đủ nơi.

Cùng với Lục Thôn gồm các Tộc,

Giữ cho bản lĩnh sáng ngời ngời.

 

Phan Biển

(Ngoại tôn)


SẼ VỀ, NGOẠI ƠI! …

 

Chiều chiều ra đứng ngỏ sau,

Ngó về quê mẹ, ruột đau chín chiều.

Ca dao

 

Lúc còn bé, được theo gót mẹ,

Về ngoại gia ăn Kỵ, rất mừng.

Thôi thì sửa soạn tưng bừng:

Nào là tắm rửa, nào chưng áo dài…

Đường thôn dã, chẳng ai còn lạ:

Rộng vài gang, hữu tả ruộng đồng.

Xanh xanh sóng lúa mênh mông,

Người như say sóng, đòi bồng, mẹ la.

Qua cầu Cận thật là khiếp sợ,

Được gia nhân cõng ở trên lưng.

Tay ôm chặt cổ, đôi chân,

Quắp vào trước bụng, xem chừng chưa yên.

Tre cầu nhún, khi lên khi xuống,

Nhắm mắt mà cảm tưởng vẫn ghê.

Tai nghe ọt ẹt thân tre,

Rợn rùng chị muốn đòi về đi thôi!

Con khe rộng chỉ đôi ba trượng,

Gây hãi hùng những tưởng đại dương.

Qua rồi, mừng rỡ lạ thường,

Được ngồi trong thúng, dặm đường còn xa.

Xong Bàn Thát, rồi qua Rộc Sách,

Nhà Ngoại kia! Còn cách không xa.

Ao sen lác đác những hoa,

Tường cao, cổng rộng thật là trang nghiêm.

Sân lát đá, bực thềm cao rộng,

Nhà mênh mông, lồng lộng cột cao.

Người người đông đảo, ồn ào,

Mình đành khép nép, chẳng chào, chẳng thưa.

Bà Ngoại gọi: “Lại đây coi tướng,

À chú này xem bướng lắm đây.

Nhưng mà được cái mặt mày,

Trán cao, tai lớn là tay… chọc trời…”

Nay cháu đã bảy mươi ngoài lẻ,

Nơi tha hương, nhớ mẹ, nhớ quê.

Tâm tư tẩu quốc não nề,

Vá trời cho kín, sẽ về Ngoại ơi!

Ảo Giản Phan Ngô

(Ngoại tôn)


TẢN MẠN…

 

Nói đến xây dựng Từ đường, phải nghĩ đến phần tinh thần của công trình: đó là liễn đối trang trí cơ sở kiến thiết.

Trước hết trong tầm cỡ quốc gia, khi viếng thăm đền thờ Hùng Vương, khách viếng đã từng chiêm ngưỡng câu đối lừng danh:

 

Thác thủy khai cơ, tứ cố sơn hà qui bản tịch;

Đăng cao vọng viễn, quần phong la liệt tự nhi tôn.

 

Tạm dịch:

 

Mở lối đắp nền, bốn mặt non sông châu về đất nước;

Lên cao nhìn rộng, nghìn trùng đồi núi trông tựa đàn con.

 

Câu đối nói lên được vị trí đền thờ trong một cảnh quan hùng và biểu dương rõ nét công lao dựng nghiệp của vua Hùng.

 

Trong tầm cỡ một tỉnh - tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng – Gò Nổi của huyện Điện Bàn là đất khoa bảng. Trước thời kháng chiến, ai đi qua trước nhà thờ một họ Phan ở trung độ Gò Nổi cũng thầm phục tính hào hùng của câu liễn trụ:

 

Tố Nam Ảo Giản, Tố Bắc Vinh Dương, thử địa tùng lai danh tứ hải;

Như thạch Điện Bàn, như qua Diên Phước, hồng cơ thiên cổ ngật trung châu.

 

Ảo Giản, Vinh Dương là hai địa danh ở Trung Quốc chỉ nơi xuất xứ của họ Phan. Điện Bàn, Diên Phước là phủ Điện Bàn, huyện Diên Phước, chỉ nơi tọa lạc của Từ đường.

Câu đối nhắc đến nguồn gốc của tộc Phan và quy hoạch rõ vị trí của nhà thờ.

 

Chuyện kể rằng một hôm tộc Phan nói trên cho đem lễ vật đến nhà một vị Phó bảng trong họ để xin một câu đối trụ biểu. Ông Phó bảng hì hục một buổi mới sáng tác được một câu. Cậu con trai đi chơi về, đọc câu đối của cha và xin thay bằng một câu khác. Trong một thời gian ngắn, cậu trình cha xem câu đối như trên. Vị Phó bảng tự hủy câu đối của mình và dùng câu đối do cậu con vừa sáng tác…

 

Câu đối trụ biểu ấy, tuy đầy hào khí, nhưng dầu sao cũng thiếu khiêm tốn, nếu không muốn nói là hách dịch.

 

Nay xin khách viếng 1 nhà thờ khác, cũng ở Gò Nổi, cách nhà thờ họ Phan trên đây chưa đầy 3 cây số. Khách sẽ đọc:

 

Hiếu trung kinh sử gia điền bửu;

Đạo đức văn chương thế đẩu sơn.

 

Câu đối nói lên được họ này đời đời dùi mài kinh sử và có nhiều nhà mô phạm đã từng đào tạo nhiều thế hệ môn đồ. Tác giả câu đối ấy là một vị Cử nhân Hán học đã từng giữ chức Đốc học.

 

Được tin họ Ngoại xây dựng lại Từ đường tại địa điểm cũ, cho phép tôi bắt chước người xưa cũng mừng một câu đối, chỉ e lực bất tùng tâm.

 

Đối rằng:

 

MỪNG HỌ NGOẠI XÂY LẠI NHÀ THỜ,

NỀN MÓNG CŨ ĐỜI ĐỜI KIÊN CỐ;

CHÚC ÔNG BÀ CÓ NƠI HƯƠNG KHÓI,

CON CHÁU NAY LỚP LỚP HANH THÔNG.

 

Phan Khôi

(Ngoại tôn)


CHÂU VỀ HỢP PHỐ

 

Hàn gắn chiến tranh đổ nát này,

Từ đường tái thiết mỹ quan thay !

Đền cao nghiêng bóng bên đồng lúa,

Mái đỏ khoe màu giữa rặng cây.

Hương khói muôn đời luôn ấm cúng,

Cháu con năm Phái mãi vui vầy.

Dấu xưa cảnh cũ nay nhìn lại,

Hợp Phố châu về nghĩ cũng hay !

 

Bùi Tấn


THỜI THƠ ẤU

 

Con nhớ chiều Thu tựa bức mành,

Gió hiu hiu thổi cửa cây chanh (1)

Nắng vàng còn đọng trên tàu chuối,

Ngọn gió hoàng hôn, cảnh thái bình.

 

Con nhớ những khi học Huế về,

Sáo diều dịu vợi cánh đồng quê.

Chuồn chuồn bay lượn như mừng đón,

Tràn ngập niềm vui, biết nói gì?

 

Con nhớ ngày Đông rỉ rả mưa,

Đường làng lầy lội, cảnh tiêu sơ.

Quây quần bên Ngoại, quanh lò sưởi,

Tai lắng nghe Bà kể chuyện xưa.

 

Con nhớ hàng mai nở trước hiên,

Mùi trầm ngào ngạt cả nhà trên.

Cổ bàn, bánh trái mừng Xuân mới,

Xác pháo đỏ tươi, rực cả thềm…

 

Bùi Luân

 

(1) Cửa cây chanh: Bên cửa có cây chanh lớn. Nhà có nhiều cửa. Để dễ phân biệt, thường gọi: cửa cây chanh, cửa cây mai, cửa cây bông trang v.v…

 


VIỆC KHÓ ĐỀU NÊN

                                 

                                      Từ đường tái thiết đề ra,

                             Bà con họp lại thông qua quy trình.

                                      Tìm người phụ trách tận tình,

                             Theo đòi công tác chấp hành thủy chung.

                                      Anh TÌNH, anh TẤN một lòng,

                             Cùng mong góp sức thi công chu toàn.

                                      Anh ANH tài chánh sẵn sàng,

                             Chuẩn chi sổ sách rõ ràng trước sau.

                                      Trưởng ban, anh KÍNH được bầu,

                             Họa đồ đã có anh CHÂU vẽ rồi.

                                      Phó ban phụ tá một đôi,

                             Chú VINH, anh TRIẾT đồng thời chung lo.

                                      Vật tư mọi thứ dự trù,

                             Khen thay khéo tính chẳng dư, đều vừa.

                                      Giữ gìn biên bản hồ sơ,

                             Ấy là anh DIỆM trước giờ quen tay.

                                      Khi cần có kẻ đổi thay,

                             Chú NGÀ trở sự, có rày chú TÂN.

                                      Nhờ tìm thấy thợ xa gần,

                             Công trình tái thiết mười phân vẹn mười.

 

                                      Trùng tu mộ Tổ kịp thời,

                             Mỹ quan, kiên cố, cơ ngơi hoàn thành.

 

                                      Trước đây Phổ hệ tiến hành,

                             Bổ sung, tu chính công trình biết bao !

                                      Phái, chi, thế thứ thấp cao,

                             Bóng hình, tài liệu dồi dào sọan biên.

 

                                      Mới hay gắng sức cho bền,

                             Dẫu là việc khó đều nên, ngại gì ?

                                      Nôm na chắp nhặt lời quê,

                             Góp bài KỶ YẾU, chung vui khánh thành.

 

Bùi Hốt


HƯỚNG VỀ QUÊ NGOẠI

 

Con nay tuổi sắp cửu tuần,

Nhớ về quê Ngoại tưởng chừng còn thơ!

Nhớ thời dĩ vãng xuân tơ,

Về thăm quê Ngoại, canh mơ rộn ràng.

Vĩnh Trinh một buổi nắng vàng,

Thu Bồn lộng gió mơ màng hồn thơ…

Xa xưa ngỡ tưởng bây giờ,

Bao năm phiêu bạt, tuổi thơ suy mòn.

Xa xôi nghìn dặm nước non,

Hướng về quê Ngoại hương hồn Tổ tiên.

Khánh thành ngày lễ thiêng liêng,

Tôn đường tái lập, khắp miền phấn hưng.

Trang nghiêm hương khói không ngừng,

Pháo chào dòn dã, chuông mừng ngân nga.

Cúi đầu khấn vái Ông Bà,

Già nua xin gắng nôm na mấy vần.

 

Hoàng Ấp

(Ngoại tôn)

 

 

 


NHỚ QUÊ NGOẠI

                                     

                                      Đất trời một cõi bao la,

                        Vĩnh Trinh quê Ngoại thiết tha nghĩa tình.

                                      Khắc ghi trong dạ bóng hình,

                        Nghìn năm khai khẩn công trình dựng xây.

 

                                      Bao nhiêu thao thức đêm ngày,

                        Bấy nhiêu tình cảm đắp xây mặn nồng.

                                      Miệt mài những ngóng cùng trông,

                        Khói hương thờ tự Tổ Tông sum vầy.

 

                                      Từ đường Bùi Tộc hôm nay,

                        Nguy nga trang trọng ngất ngây lòng người.

                                      Trong niềm xúc động khôn nguôi,

                        Xa gần con cháu tươi cười hân hoan.

 

                                      Cúi đầu thắp một nén nhang,

                        Hướng về quê Ngoại muôn vàn kính yêu.

 

Hoàng Liên

(Ngoại tôn)


TIỀN NHÂN TRUYỀN HẬU NHÂN KẾ

 

Người đời trước nói là có căn cứ. Sau một thời gian, vật chứng bị lưu lạc, thất thoát. Người sau nói lại dù đúng sự thật, nhưng có người thiếu tin, cho việc ăn cơm mới nói chuyện cũ là khẩu thuyết vô bằng, nên ít ai quan tâm đến.

 

Qua thời gian nghiên cứu Phổ Hệ, tôi xem bia mộ Tiền Hiền, thì thấy mặt trước, bên cạnh lòng linh, có hàng chữ Hán: Cổ Thăng Ba phủ, Ba Châu thuộc, La Tháp châu, Bình Khương thôn. Và trong bài minh ở mặt sau bia, lại có chữ: Mộ vu Đại Tha, … Đại Tha qui tàn. Sau khi tìm hiểu, tôi xin mạo muội đóng góp bài này vào tập Kỷ Yếu nhân dịp lễ Khánh thành Từ đường của Tộc, với những điều mà tôi đã nghe, đã thấy và đã biết về quê ta ngày trước. Nếu có điều gì sơ sót, xin Quý Bà con vui lòng chỉ vẽ và bổ sung cho.

 

Phủ Thăng Ba – đã có từ giữa thế kỷ XV - tức là Quảng Nam-Đà Nẵng ngày nay. Nhà Sử học Lê Quý Đôn đã viết: Phủ Thăng Ba phía Đông là cửa Đại Chiếm, có Cù lao Chàm, từ bờ ra khơi đi vài canh thì đến; phía Nam là phủ Quảng Ngãi có Cù lao Ré, có xã Vĩnh An; phía Bắc giáp Hóa Châu, có núi Ngự Bình; phía Tây rừng núi trùng điệp, giáp Chân Lạp.

 

Thuộc Ba Châu – theo tham khảo - gồm có Duy Xuyên, Điện Bàn, Hội An và một số xã phía Đông của Đại Lộc, có tháp Bằng An, tháp Mỹ Sơn, trấn thủ Trà Kiệu của người Chàm ngày trước, có bàu Thạch Bộ, có sông Bến Đền mà các cụ già thường nhắc đến.

 

Châu La Tháp là khu vực miền Tây Duy Xuyên, sông núi hai bên bao bọc. Ở Trà Nê (Rộc Khế), ở Lầu Ngà (Khe Lấp), ở Cồn Hường (Bàu Ấu) có lâu đài của người Chiêm Thành mà di tích còn lại như nền gạch ở Bồ Đồng (Bàu Gai), Ngõ Tre, Gò Tháp…

 

Thôn Bình Khương có xứ Chà Rang, Chà Là… nay gọi là Vĩnh Trinh. Người đến khai cơ lập nghiệp đầu tiên là Tiền nhân của hai tộc Bùi và Đào.

 

Lục thôn - gồm có 6 thôn: Lệ Trạch, Vĩnh Trinh, Thanh Châu, Cổ Tháp, Cù Bàn và An Lâm – là nơi con sông bồi lấp, nên khi đào giếng, có người nhặt được dây neo, ván thuyền còn sót dưới lòng đất.

 

An Lâm là trung tâm chính trị, văn hóa, thương mại, có Đình Châu (đình chung của 6 thôn), có chợ La Tháp, có trường học. Từ trước thời Cảnh Hưng, tộc Bùi đã có tên tuổi ở nơi đây, bút tích trên bia Đình Châu còn để lại: Thiết duy Bổn Châu tiền đợi Cai phủ Khánh Sơn hầu Bùi Quý công cấu tạo công đình…

 

xứ Đại Tha - tục gọi là Gò Sỏi – là nơi thượng đồi hạ trũng. Ở Gò Sỏi có loại son màu đỏ thắm. Các Thầy đồ và Nho sinh hay tìm đến để vừa ngắm cảnh gò suối thiên nhiên vừa nhặt son đem về để chấm bài hay phóng chữ cho học sinh nhỏ tập đồ theo.

 

Như vậy Ngài Tiền Hiền Bùi Đại lang húy Tấn Diên và Ngài Cao cao tổ Bùi Tôn linh quý công húy Tấn Trường đã chọn vùng này để an cư lạc nghiệp; con cháu đã nối gót cha ông dĩ nông vi bổn. Tiền nhân đã tiến dần qua bờ suối phía Nam, khai phá, trồng trọt nên có địa danh Đồng Nam và lập ra các xứ Đồng Ngạch, Bàu Cùng.

 

Xã hiệu Bình Khương đã theo thời gian lần lượt đổi thành Bình Thuận và sau lại thành Vĩnh Trinh.

 

Đến triều Gia Long, với sự tăng cường trị an, phát triển giao thông, khai thác tài nguyên, hai con đường hương lộ: Đình Châu đi Châu Mưu (qua xứ Đại Tha), Đình Châu đi Dương Thông (qua giữa Vĩnh Trinh) đã được thiết lập để phục vụ quân lính ở trại, quản lý nhà lao. Có lẽ từ đó mà xuất hiện những địa danh Đồng Trại, Gò Lao chăng?

 

Dọc theo trục đường hương lộ ở Vĩnh Trinh, nhân dân lần lượt dựng lên: đình, chùa, am, miếu huy hoàng. Xứ Đồng Ngạch có một cây đa cao bên đường. Một nhà Nho, trên đường đi trẩy hội, bị cảm nắng, nghỉ lại nơi gốc đa, không may qua đời. Dân làng lập miếu phụng thờ kỷ niệm mà người địa phương thường gọi là miều Ông Nghè. Lúc bấy giờ, Vĩnh Trinh trở thành trung tâm kinh tế. Trên đà phát triển, xe cộ (xe trâu) vào ra tấp nập, đồng bào các nơi khác kéo đến ở, hình thành thêm một số tộc bạn mới nữa.

 

Vĩnh Trinh là một thôn có đất rộng, phì nhiêu, ở phía Nam có rừng núi giàu tài nguyên, có nguồn nước chảy vô tận, nên dưới thời Bảo Đại, người Pháp đã cho xây đập Vĩnh Trinh mà nước chứa có thể tưới được ruộng đất của mấy thôn lân cận. Sau ngày hòa bình vãn hồi (1975), Chính quyền lại cho cơi bờ đập cao thêm để tăng cường vấn đề thủy lợi một cách đáng kể.

 

Ngày nay Từ đường Bùi Tộc chúng ta được tái thiết huy hoàng trên nền móng cũ tại nguyên quán Vĩnh Trinh, có mương thủy lợi chảy dọc bên rào với chiều dài thẳng tắp, có thác nước rì rào, có cầu vượt khe, hai bên bờ là đường đi qua lại rộn rịp hơn xưa. Ở nơi đây còn có cây cao bóng mát với đồng lúa xanh, khách qua đường ai mà chẳng thích dừng chân ngoạn cảnh.

 

Bùi Khiêm


HỒN QUÊ

 

Đoái trông muôn dặm tử phần,

Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa.

Nguyễn Du

 

Bốn bể năm châu khắp nẻo đường,

Tử phần muôn dặm nặng tình thương.

Cần lao lập nghiệp noi truyền thống,

Hiếu thuận tề gia giữ kỷ cương.

Ơn Tổ chở che luôn thịnh đạt,

Phúc nhà nhuần gội thảy an khương.

Từ đường nay có nơi hương khói,

Vơi bớt hồn quê nỗi vấn vương !

 

Bùi Thạnh

 

 


XA QUÊ

 

Trăng treo đầu núi trắng ngần,

Biển khơi sóng vỗ, ì ầm bao la.

Quê người lạc bước mình ta,

Chạnh lòng nhớ nước non xa nghìn trùng!

Bốn bề đồi núi chập chùng,

Cỏ cây có thấu nỗi lòng ta chăng?

Bùi Như Hải

1979

 

 

 

CẢM TÁC

Nhân ngày Khánh thành Từ đường

 

                                      Xem phim thấy cảnh, thấy người,

                             Nhớ quê hương, thấy ngậm ngùi lòng ta !

                                      Ngày về chắc hẳn không xa,

                             Tha hồ chiêm ngưỡng ngôi nhà Tổ tiên !

 

                                                                           Bùi Như Hải

                                                                                 1992

 


BÙI GIA VĨNH THẾ

 

Phúc nhà con cháu gội xa gần,

Nhân đức trau dồi mỹ thiện chân.

Nghiên bút trai noi hàng mặc khách,

Hạnh tài gái học bực danh nhân.

Cần lao bền chí gương muôn thuở,

Tiến thủ ra công tiếng bội phần.

Lăng mộ, Từ đường đều tái thiết,

Nước nguồn, cây cội, niệm thâm ân.

 

Nước nguồn, cây cội, niệm thâm ân,

Trước án hương trầm đảnh lễ dâng.

Khấn nguyện tiên linh tròn đạo lý,

Phụng thờ tổ phụ vẹn nhân luân.

Non cao bát ngát tình gia tộc,

Bể rộng mênh mông nghĩa phụ thân.

Vật đổi sao dời, nhân đức trọng,

Phúc nhà con cháu gội xa gần.

 

Thanh Tâm Bùi Thị Thu


ĐỀN TIỀN HIỀN HOÀI CẢM (1)

 

Ba mươi năm lẻ dạ nào nguôi,

Nhìn cảnh Đền xưa, những ngậm ngùi !

Hoa biểu không còn mơ bóng hạc,

Đình giai thôi hết đón trăng thu.

Trơ tường đổ rêu tràn phủ,

Quạnh quẻ nền hoang cỏ lấp vùi.

Dâu bể đổi dời, đời ngán nỗi,

Lòng thương Tiên tổ biết sao vơi !

 

Vĩnh Xuyên Bùi Văn Giải

 

 

 

(1) Phỏng dịch bài ĐỀN TIỀN HIỀN HOÀI CẢM ra Hán văn:

 

 

Vĩnh Xuyên Bùi Văn Giải

 

Chú thích:

 

Cố vọng: đoái trông, nhìn lại.

Huy: ánh sáng mặt trời.

Phong: phủ.

Nhược: yếu.

Ngõa giải: ngói đổ.

Đài: rêu.

Muộn: trong lòng không vui.

 


MỪNG KHÁNH THÀNH TỪ ĐƯỜNG

 

MỪNG Xuân phấn khởi rượu lòng say,

LỄ tạ Trời cao với Đất dày.

KHÁNH hạ Tổ đình hoa pháo nổ,

THÀNH toàn Lăng mộ khói trầm bay.

BÙI gia khương thịnh, non ân thẳm,

TỘC Phái phồn vinh, bể phúc đầy.

TỪ trước bao đời công đức gội,

ĐƯỜNG thênh thang tiến khắp Đông Tây.

 

Vĩnh Xuyên Bùi Văn Giải

 

 

 

 

QUÊ TÔI

 

Chiến tranh tàn phá đã trôi qua,

Hình ảnh tan thương cũng xóa nhòa.

Phần mộ chỉnh trang thêm diễm lệ,

Từ đường tái thiết thật nguy nga.

Sông Thu(1)  nước chảy, dòng lai láng,

Rừng Bạc(2) trăng soi, bóng thướt tha.

Sóng gợn lăn tăn trên thảm lúa,

Sáo diều dịu vợi bóng chiều sa.

 

Bùi Ngọc Kính

 

(1) Sông Thu Bồn, (2) Rừng Bạc Hà.

 

 

 

 

HUY HOÀNG

 

Dùng những chữ trên các Khám thờ và Hoành phi.

 

Tiền Hiền (1) miếu vũ đẹp cơ ngơi,

Uống nước nhớ nguồn (2) tạc dạ thôi!

Rạng rỡ Ông Bà (3) về mọi mặt,

Dồi dào con cháu (4) trải bao đời.

Giá trong ngọc sạch (5) nhờ ơn Tổ,

Cây trước hoa nay (6) hợp lẽ Trời.

Phúc ấm đượm nhuần chung cả Tộc (7)

Nghĩa dày luôn nghĩ (8) hỡi ai ơi!

 

Bùi Ngọc Kính

 

Xuất xứ:

 

(1)   Hai chữ lớn trên Khám giữa

(2)   Ẩm hà tư nguyên

(3)   Quang tiền

(4)   Dụ hậu

(5)   Băng thanh ngọc nhuận

(6)   Tích thọ kim ba

(7)   Tổ ấm đồng triêm

(8)   Thâm tư hậu trạch

 


MỪNG LỄ KHÁNH THÀNH TỪ ĐƯỜNG

VÀ MỘ TIỀN HIỀN BÙI TỘC Ở VĨNH TRINH

 

Nhâm Thân, mười bảy, tháng giêng lành,

Con cháu gần xa dự Khánh thành:

Phần mộ Tiền Hiền xây tráng lệ,

Từ đường Tiên tổ vẻ tinh anh.

Vườn xưa chăm bón cây sum lá,

Gốc cũ bồi tô trái trĩu cành.

“Uống nước nhớ nguồn” luôn tạc dạ,

Vĩnh Trinh Bùi Tộc mãi lưu danh.

 

Nguyễn Công Trợ

(Nghĩa tế Ô.B. Bùi Thường)


QUẢ TỐT NHÂN LÀNH

 

Dù cho vật đổi với sao dời,

Đạo lý từ xưa chẳng khác sai.

Nội ngoại hai bên tình vẫn thắm,

Bà con năm Phái nghĩa nào phai.

Phúc dày hậu thế luôn bền vững,

Ơn cả Tiền nhân mãi sáng ngời.

Quả tốt nhân lành bao thế hệ,

Vườn xuân một cửa tiếng muôn đời! (1)

 

Bùi Anh Dũng

 

(1)   Trong Truyện Kiều có câu: Vườn xuân một cửa để bia muôn đời.

 


CÂU ĐỐI MỪNG LỄ KHÁNH THÀNH

 

 

PHỔ HỆ CHÍNH TU,

HÒE QUẾ XUÊ XOAN,

CON THẢO CHÁU HIỀN,

NHỜ PHÚC CẢ;

 

TỪ ĐƯỜNG TÁI THIẾT,

KHÓI HƯƠNG ẤM ÁP,

NGUỒN CAO DÒNG THẲM,

GỘI ƠN DÀY.

 

Bùi Anh Trí


CHUYẾN THĂM QUÊ ĐẦU TIÊN

 

Không có đất nào dịu hiền bằng Đất Tổ.

Homère

 

Đầu tháng tám ở miền Trung, khí trời vẫn còn oi ả! Một ngọn gió thổi qua đã đầy lùi không khí nặng nề của toa tàu đầy ắp cả người và hành lý. Tiếng còi xe lửa hụ và âm thanh của bánh sắt cọ dồn dập lên đường rầy của Cầu Chiêm Sơn báo cho tôi biết là tôi đã gần đến quê nhà. Cầu này bắt ngang qua một phụ lưu của sông Thu Bồn – được xây từ thời Pháp – đánh dấu địa phận quê tôi trên đường xe lửa xuyên Việt, từ Nam ra Bắc.

 

Dưới chân cầu, đàn trẻ mục đồng đuổi bắt, nô đùa, quên hết mọi việc quanh mình. Lũ trâu lặn hụp, ngâm mình trong nước, nằm thư giản sau lúc kéo cày mệt nhọc. Dòng sông lặng lẽ trôi, không để ý đến những đám bèo nhấp nhô đây đó. Những thửa ruộng vuông vắn cứ liên tiếp nối nhau. Xa xa, dãy núi đất xám sẩm kéo dài như trấn thủ, bảo vệ những cụm đồi nhỏ núp dưới mấy rặng cây xanh. Trên nền dãy núi Trường Sơn bao la và mờ nhạt, nhô lên một mỏm núi cong như mỏ gà thường được gọi là Hòn Tàu (Tào sơn) hay núi Quắp. Theo lời cha tôi, nếu đi từ xa đã thấy hòn núi đặc biệt đó, thì tức là đã trên đường về quê nội tôi: Vĩnh Trinh. Những cảnh về quê nhà thường được cha tôi tả qua các mẫu chuyện trước đây từ từ hiện ra trên khung cửa của toa tàu, khiến tôi bồn chồn, man mác. Đây là những hình ảnh quê tôi nhìn từ toa tàu, nhân chuyến về thăm quê lần đầu tiên trên đời.

 

Xe lửa ngừng tại ga Đà Nẵng. Chúng tôi nghỉ đêm tại nhà cô dượng tôi để sáng mai lấy vé xe đò về quê. Quê tôi chỉ cách Đà Nẵng khoảng 30 km, nhưng vì đường giao thông khó khăn, nên mỗi ngày chỉ có vài chuyến xe khách vào ra. Cùng với cha tôi và chú Tình, tôi đi chuyến xe đò Kiểm Lâm (Duy Xuyên). Giữa buổi trưa hè, chúng tôi ngồi ép như nem trên chuyến xe hàng cũ kỹ. Sức nóng của hơi người và hàng hóa ngổn ngang làm cho không khí trong xe càng thêm ngột ngạt, nhất là mỗi khi xe dừng lại để cho khách lên, xuống. Chú Tình thường hay về quê nên chú rất rành đường đi nước bước. Qua mỗi đoạn đường, Chú thường giới thiệu những địa danh và những giai thoại liên hệ mà Chú kể cho nghe đã giúp tôi quên bớt những nỗi nhọc nhằn.

 

Xe vượt qua trường PTTH Duy Xuyên. Những bông phượng đỏ rực không che được cảnh trường hoang vắng của 3 tháng nghỉ hè. Xe lạch cạch chạy dừng, dừng chạy. Hơn ba tiếng trôi qua… Trời đã ngả về chiều. Ánh nắng dịu dần, mùi lúa và không khí đồng quê khiến tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Xe tiếp tục chạy ngoằn ngoèo để tránh những “ổ voi” trên đường đất đỏ đã bị xói mòn từ mùa mưa trước.

 

Đến chợ La Tháp xe dừng để bỏ hàng. Những sạp tre xiêu vẹo nối liền với những giỏ cần xé trống trơn chất như núi. Những mảnh lá chuối vung vãi bên lều. Lác đác một vài bóng người quảy gánh nhẹ bỗng lững lờ đi qua. Lúc này tôi mới mục kích và hiểu được ý nghĩa “cảnh chợ chiều”. Cuối cùng chúng tôi xuống ở Cù Bàn, nghỉ tại nhà cô dượng Thức, em của chú Tình. Xuống xe, tôi như được tự do cả thể xác đến tinh thần. Được chú Tình dẫn ra tắm sông ở bến Ông Cửu ngày trước, tôi lội giữa dòng nước mát trong lành, trút hết những mệt nhọc trên chuyến xe “lịch sử”. Sông nước như nâng niu, bồng ẵm tôi, như mừng đứa cháu từ nơi xa mới về.

 

Bữa cơm đầu tiên của tôi ở nhà quê sao ngon quá! Từ dĩa rau sống, miếng cá kho, cái chả trứng, đến bát canh cải, món gì tôi cũng đã từng ăn rồi, nhưng có lẽ chưa bao giờ ngon như thế! Sau bữa cơm, cha tôi ngồi bàn chuyện với ông thợ nề - do Dượng Thức giới thiệu - để lo việc dựng bia Bà nội tôi. Ông thợ già, tóc bạc phơ, chùm râu dài tới ngực, ngồi mé bên ghế, với điều thuốc cháy nửa chứng cùng một chén rượu nhỏ nhấp môi, dưới ánh đèn dầu bập bùng như thôi miên tôi. Mọi tiểu thuyết, bài văn tả cảnh miền quê mà tôi từng học đã không ghi được hết những hình ảnh sống động đang diễn ra trước mắt tôi. Tôi mỉm cười thỏa mãn, như đã khám phá ra một điều gì mới lạ: “Cuộc sống thanh bình, tĩnh mịch của đồng quê”.

 

Sau những ngày đường, tôi ngủ như chết. Mặt trời to tướng sừng sửng trên cửa sổ mới đánh thức tôi dậy. Mọi người đã ra đồng. Sau bữa điểm tâm, tôi được cha tôi và chú Tình dẫn đi nhiều nơi, lần lượt từ mộ Tiền Hiền, mộ Bà Mả Vôi, mô Ô. Ngũ Phẩm, đến mộ Ô. Thị, mộ Ô. Mả Đá. Đến mỗi nơi, tôi được biết thêm về cuộc sống ngày xưa. Trong khi cha tôi ngồi ghi lại những câu đối, Sắc phong chạm ở mặt sau bia mộ Ô. Thị, để bổ túc vào Phổ Hệ, tôi vào nghỉ chân ở nhà bên cạnh. Mặc dù ông chủ nhà chưa gặp tôi bao giờ, nhưng ông ta xem tôi như người quen thân, khiến tôi vô cùng xúc động, ghi nhận được một khía cạnh đặc biệt của nếp sống ở nông thôn: tình cảm. Cuộc sống bận rộn, máy móc của đô thị ngày nay đã quên lãng khía cạnh đó chăng?

 

Cùng với lời hướng dẫn và giải thích của cha tôi, tôi như sống lại những năm đầu của thế kỷ 20. Tôi càng hiểu rõ thêm mối liên hệ giữa các Chi, các Phái trong Tộc. Gần đến trưa, chúng tôi cũng vừa đến mộ Bà nội tôi. Mộ Bà gần nhà anh Diệm, nhưng cách nhau bởi con mương thủy lợi từ trong đập Vĩnh Trinh chảy ra. Nhà anh Diệm làm trong vườn Nhà thờ Tiền Hiền ngày trước. Qua những năm tháng chiến tranh, nhà thờ nay chỉ còn cái bình phong và một cây trụ biểu đương trơ gan cùng tuế nguyệt. Thật là, như Bà Huyện Thanh Quan đã viết:

 

Lối xưa xe ngựa, hồn thu thảo,

Nền cũ lâu đài, bóng tịch dương.

 

Tôi được anh Diệm đưa đi thăm các khu vườn cũ của Ông nội tôi, của Ô. Cửu, Bà Thượng và anh Bát Thương v.v… Tất cả nay chỉ còn là miếng đất trống hoặc những túp nhà đơn sơ của các đồng bào mới đến ở với đôi cái ao rau muống do những hố bom tạo thành. Vài cây cột đá trơn láng đã ngã xuống thành cái cầu nhỏ bắt qua mương nước!

 

Trưa hè ở nhà quê cũng nóng lắm, nhất là khi đứng gió:

Cái nóng nung người, nóng nóng ghê!

 

Tất cả mọi công việc đều phải ngừng lại. Nhờ cơn nóng đổ lửa, tôi mới tận hưởng cái mát mẻ, nhẹ nhàng của dòng mương. Đồng ruộng quê tôi do nước đập Vĩnh Trinh tưới khắp. Nằm ngâm mình trong mương nước, tôi chợt nhớ đến câu ca dao:

 

Ta về ta tắm ao ta,

Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.

 

Chiều về, từng đám trẻ dắt bỏ đi ăn cỏ dọc theo bờ mương. Những đàn vịt chui mỏ xuống ruộng đã dập gốc cỏ giùm cho nhà nông một cách đắc lực. Đàng xa những bác nông phu vác cuốc về nhà vừa đi vừa trò chuyện. Tiếng gọi nhau ơi ới của các cô gái gánh nước chen với nhịp đưa dịu dàng của những chiếc đòn gánh nơi vai. Tiếng dội nước ào ào của trẻ em đang tắm bên giếng xen với tiếng cười đùa giòn giã. Những hình ảnh và tiếng động đó quyện vào nhau thành một bức tranh đầy thơ mộng về quê tôi.

 

Tối lại, sau bữa cơm thân mật, rất hợp với khẩu vị, anh Diệm và chú Liễu thay nhau kể về công chuyện đồng án, về cuộc sống vất vả của bà con ở làng. Qua chén trà nóng tôi bị lôi cuốn theo từng mẫu chuyện. Tới nay tôi mới thực sự hiểu được đời sống ở quê từ thời xưa đến thời nay, từ việc hiếu hỷ ngày trước đến những buổi họp tổ nhân dân bây giờ. Sau buổi chuyện trò, tôi băn khuăn tự hỏi tôi đã làm gì và sẽ làm gì cho Quê hương tôi.

 

Hôm sau, trong lúc cha tôi bận lo tiến hành công tác phần mộ, tôi lại được chú Liễu hướng dẫn cho đi tham quan thêm. Bằng hai chiếc xe đạp, 2 anh em chúng tôi đạp đến đập Vĩnh Trinh, nơi Cốc Dù, gò Bạc Hà, thăm mộ Ông Cố Ngoại tôi - Cụ Thượng La Kham - rồi qua quê mẹ tôi ở bên Gò Nổi. Quê mẹ tôi là đất dâu, cách quê cha chỉ một con sông. Tuy nay không còn người bà con nào bên Ngoại ở lại trong làng, nhưng sau lời giới thiệu của chú Liễu, những người lối xóm đã tiếp đãi tôi rất niềm nở. Qua bữa trưa tại quán Mì Quảng Bà Đẩu, tôi thấy tình đồng hương, đồng châu thật là thắm thiết!

 

Ngày tôi rời làng buồn làm sao! Mọi người, mọi vật đối với tôi trở nên quyến luyến khác thường! Những cộng lúa hai bên đường mòn cứ quấn vào giày tôi, như cố giữ tôi lại. Tôi tưởng chừng như không bao giờ có cơ hội thấy lại ngọn núi Quắp, gặp lại những người đối với tôi đầy tình gia tộc, tình đồng hương, tình người.

 

Nhưng dịp may đã đến. Nghỉ hè vừa rồi, tôi đã về lại Vĩnh Trinh. Thật là cả một sự bất ngờ. Rõ ràng mở mắt, còn ngờ chim bao! Lần này tôi may mắn được chiêm ngưỡng Từ đường lộng lẫy mới vừa tái thiết xong. Nhưng vì lệ thuộc vào phương tiện di chuyển, tôi chỉ lưu lại có mấy tiếng, nên chưa kịp có những cảm nghỉ như chuyến trước.

 

Chuyến về thăm quê lần đầu đã trở thành một kỷ niệm êm đềm, không bao giờ phai trong tâm trí tôi. Kỷ niệm đó đã luôn nhắc nhở tôi:

 

Quê hương mỗi người chỉ một, như là chỉ một mẹ thôi,

Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người.

 

Bùi Anh Huy


GƯƠNG VỠ LẠI LÀNH

(Tập Kiều)

 

Trải qua một cuộc bể dâu,

Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.

Rằng: lòng đương thổn thức đầy,

Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng.

Bốn bề bát ngát mênh mông,

Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu.

Nỗi niềm tưởng đến mà đau,

nào đã biết đâu là nhà.

Trải bao thỏ lặn ác tà,

Lau treo rèm nát, trúc gài phên thưa.

Chung quanh lặng ngắt như tờ,

Càng ngao ngán nỗi, càng ngơ ngẩn dường.

Trời Tây lãng đãng bóng vàng,

Bây giờ kim mã ngọc đường với ai?

Nỉ non đêm vắng tình dài,

Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng.

 

Dịp đâu may mắn lạ dường,

Có quyền nào phải một đường chấp kinh.

Bây giờ gương vỡ lại lành,

Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi.

Ngước trông tòa rộng dãy dài,

Có cây trăm thước có hoa bốn mùa.

Có cổ thụ có sơn hồ,

Án tiền sẵn có mọi đồ kim ngân.

Đoái thương muôn dặm tử phần,

Trước sau trọn vẹn, xa gần ngợi khen.

Sớm khuya tính đủ dầu đèn,

Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu.

Nặng vì chút nghĩa bấy lâu,

Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai.

Một nhà phúc lộc gồm hai,

Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông.

 

Bùi Anh Huy

 


TÌNH GIA TỘC

 

Xiết bao tháng đợi lại năm chờ,

Con cháu giờ đây thỏa ước mơ.

Mấy chục Xuân qua, hương khói lạnh,

Thu nay tái thiết được nhà thờ.

 

Nhà thờ xây dựng tại nơi đây,

Di tích Tiền nhân ở chốn này.

Trụ biểu, bình phong còn sót lại,

Nhắc ta kỷ niệm của bao ngày.

 

Từ đường kiến trúc lắm công phu,

Chuẩn bị từ lâu đã mấy Thu.

Vận động bà con trong các Phái,

Sổ Vàng lạc cúng quỹ trùng tu.

 

Chính tu Phổ hệ cả Từ đường,

Phần mộ đời trên được chỉnh trang.

Bia ngả, nấm trài, xây đắp lại,

Nền nghiêng, thành đổ, sửa đàng hoàng.

 

Nhớ lại trước kia thuở chiến tranh,

Ruộng vườn nhà cửa, phá tan tành.

Giờ đây tất cả cùng ra sức,

Xây dựng tương lai, hưởng thái bình.

 

Phái, Chi do một Tổ sinh ra,

Như thể anh em trong một nhà.

Đùm bọc, chở che, luôn gắn bó,

Ơn sâu để khỏi phụ Ông Bà.

 

Bùi Tánh

 

 


NHỚ ƠN

 

Nước nguồn cây cội nghĩa thiêng liêng,

Công đức Tiền nhân nguyện báo đền.

Bi ký chỉnh trang phòng thất lạc,

Mộ phần tu bổ để lưu truyền.

Từ đường tái thiết lo hoàn mãn,

Phổ hệ bổ sung gắng soạn biên.

Ơn Tổ, Thái sơn cao vọi vọi,

Mênh mông biển cả, phúc Gia tiên.

 

Bùi Nhã


NHỚ HOÀI

 

Thu tàn, Đông mãn lại Xuân sang,

Nhớ đến quê hương, nhớ họ hàng.

Nhớ cảnh Từ đường trông diễm lệ,

Nhớ ngôi Tổ mộ ngó khang trang.

Nhớ ngày Nguyên đáng hoa thơm ngát,

Nhớ lúc Khánh thành pháo nổ vang.

Nhớ xóm, nhớ làng cùng quyến thuộc,

Nhờ hoài nhớ hủy nỗi tha hương.

 

Bùi Nhã

 


TÍCH THỤ KIM BA

 

 

Thời gian về lâu về dài sau này thế nào không biết, chứ đến thời điểm hôm nay, khi đã làm xong một Nhà thờ - nhất là Từ đường của một Tộc – thì việc thiết trí bên trong phải có Hoành và Liễn chữ Nho mới tăng phần trang nghiêm và mỹ quan nơi thờ phụng.

 

Về lãnh vực này, các bậc Cựu học uyên thâm đã quá vãng, nên nhiệm vụ của các vị phụ huynh vừa trải qua một nền văn hóa chuyển tiếp, bán cổ bán kim lại trở nên khó khăn, tế nhị. “Rừng Nho, biển Thánh”, lớp Tân học chỉ có tấm lòng, chỉ biết cố gắng trong phạm vi “sở đoản”.

 

Tuy nhiên, với lòng nhiệt thành đối với Tổ tiên, gia Tộc, số Hoành, Liễn của các Phái, Chi, và Gia đình dâng cúng ngày một thêm nhiều, vượt mức dự kiến khá xa!

 

Cùng một tâm niệm chung, Phái II chúng tôi cũng đã lo chế xong và dâng lên bức Hoành khắc 4 chữ TÍCH THỤ KIM BA treo vào gian bên tả (từ trong nhìn ra).

 

Vậy Tích thụ kim ba là gì?

Với cái vốn kiến thức nông cạn, chúng tôi xin hiểu 4 chữ ấy như sau:

Cây ngày trước được vun bón cẩn thận nên mới đơm hoa kết trái sum sê như ngày hôm nay; ngược lại ngày nay có hoa thơm quả ngọt, là nhờ cội gốc ngày trước đã khéo vun trồng. Cùng một lẽ đó, Tổ tiên ngày trước đã khéo gieo nhân lành, ngày nay con cháu mới hưởng được quả tốt; ngược lại, con cháu hưởng được quả tốt là nhờ có nhân lành của Tiền nhân.

 

Ý niệm nhân quả đó đã tản mạn trong Nho học như:

 

-         Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu (Trồng dưa, hái được dưa, trồng đậu thì hái được đậu)

-         Bất tín đản khan thiềm đầu thủy, điểm điểm trích trích bất sai di (Không tin, hãy xem nước nhỏ ở đầu diềm nhà: giọt trước giọt sau chẳng thay đổi chỗ).

-         Tích âm đức ư minh minh chi trung, dĩ vi tử tôn trường cửu chi kế (Để âm đức lại cho con cháu là kế bền vững, lâu dài nhất).

 

Trong sách Mã Thái Phúc Âm của Cơ Đốc giáo cũng có câu: Hảo thụ bất năng kiết hoại quả tử, hoại thụ bất năng kiết hảo quả tử. Sở dĩ bằng khán tha môn đích quả tử, tựu khả dĩ nhận xuất tha môn lai mà ta có thể hiểu đại khái là:

Cây tốt không sinh quả xấu, cây xấu cũng chẳng sanh được quả tốt. Vậy các ngươi có thể nhìn quả mà đoán nhận được cây sinh ra quả đó.

 

Những tư tưởng lớn thường hay gặp nhau. Trong giáo lý Nhà Phật, ta cũng thấy những câu như:

 

Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giã thị, dục tri lai thế quả kim sanh tác giả thị (Muốn biết nhân đời trước thế nào, hãy nhìn vào điều thụ hưởng ở đời này, muốn biết quả kiếp sau thế nào, hãy nhìn vào sở hành ở đời này vậy).

 

Chúng ta trở lại với ý nghĩa của TÍCH THỤ KIM BA qua sự phối kiểm các thế hệ của Bùi gia chúng ta. Nhờ Tổ tiên đã từng lấy cần lao, nhẫn nại, hiếu đễ, nhân nghĩa làm phương châm trong việc tề gia, xử thế mà qua bao đời, gia tộc ngày thêm phát triển, con cháu dù ở nguyên quán hay ra lập nghiệp ở tha hương cũng đều được an khang, thịnh đạt.

 

Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, chúng ta phải luôn nhớ đến công đức của Tiền nhân đã tài bồi cho “tích thụ” từ ngàn xưa để có “kim ba” cho ngày nay và cho ngàn sau nữa.

 

Chúng ta hãy luôn tâm niệm như Thi hào Nguyễn Du đã viết:

 

“Kiếp tu xưa ví chưa dày,

Phúc nào đọ được giá này cho ngang”

 

Cơ Vĩnh Nhân Bùi Ngọc Hiệp


 

ĐIÊU TÀN

 

Hòa bình trở lại viếng quê nhà,

Phong cảnh điêu tàn, chẳng nhận ra.

Bến nước um tùm lau lách cả,

Cây đa trơ trọi gốc thân già.

Vườn xưa đâu vắng ngôi đền cổ,

Gò cũ thôi rồi nấm mộ cha!

Chinh chiến đau thương buồn cách biệt,

Lệ sầu pha lẫn giọt sương sa!

 

Nhất Thu Bùi Một

 

 

 

 

Họa vận:

 

Trên bước đường quê chạnh nhớ nhà,

Cây xưa bến cũ lối vào ra.

Lơ thơ ngõ trước hoa đào rụi,

Xơ xác vườn sau khóm trúc già.

Băng ruộng thẩn thờ tìm mộ tổ,

Đốt nhang thổn thức khấn hồn cha.

Bể dâu gieo rắc bao sầu thảm,

Cố nén lòng đau, lệ vẫn sa!

 

Thanh Tâm Bùi Thị Thu

 

 


ĐẤT QUẢNG

 

 

Đất Quảng Nam tươi thắm mượt mà,

Đồng quê xanh tốt trải bao la.

Sông Thu êm ả ghe thuyền lượn,

Hòn Kẻm mơ màng mây khói pha.

Nhộn nhịp sân bay tàu cất hạ,

Rộn ràng bến cảng khách vào ra.

Nhìn xem phong cảnh càng say đắm,

Lòng ngẩn ngơ lòng yêu thiết tha!

 

Tha thiết tâm tình năm tháng qua,

Hò khoan điệu cũ mãi ngân nga.

Lời ru, tiếng võng, thương lòng mẹ,

Đám lúa, nương dâu, nhớ nghĩa cha.

Nam Hải mênh mông phơi sóng bạc,

Trường sơn trùng điệp tắm trăng ngà.

Hồn thơ lai láng tình muôn nẻo,

Đất ấm hương quê thật đậm đà!

 

Nhất Thu Bùi Một


THÔN VĨNH

 

Về thăm thôn Vĩnh ngời trăng nước,

Đường trúc nghiêng nghiêng lá vẫy chào.

Bát ngát xanh trời, xanh sóng lúa,

Tóc thề lả lướt ướp ngàn sao.

 

Cầu Cao, Đồng Ngạch bao lưu luyến,

Gợi nhớ muôn hình mãi vấn vương.

Tha thiết vọng tình vang tiếng dế,

Nhạc đồng ấm điệu khúc quê hương.

 

Xa cách bao ngày trở lại đây,

Chứa chan tình cảm ngập trời mây.

Xóm làng rộn rịp vui chân bước,

Kỷ niệm xưa giờ chẳng đổi thay.

 

Nhất Thu Bùi Một

 


NỖI NIỀM

 

Kính tặng Bác Bùi Tấn

 

Biết tỏ làm sao hết nỗi lòng,

Công lao thiện chí trọn niềm mong.

Nắng mưa chẳng quản lo chu tất,

Tiền của không so ứng dự phòng.

Mộ Tổ, Từ đường soi hậu thế,

Văn từ, Phổ hệ xứng uy tông.

Trải bao thế hệ càng tươi thắm,

Rực ánh minh châu, tặng mấy dòng.

 

Nhất Thu Bùi Một

 

 

 

 

Họa vận:

CẢM TẠ

 

Thân tặng tác giả bài NỖI NIỀM

 

Việc Tộc chung lo dốc hết lòng,

Đón mừng kết quả thỏa chờ mong.

Từ đường: hương khói nay hoàn mãn,

Lăng mộ: nắng mưa đã liệu phòng.

Phổ hệ chính tu ngời phúc tổ,

Khánh thành nghiêm túc rạng danh tông.

NỖI NIỀM gói ghém bao tình cảm,

Cảm ta tri âm, họa ít dòng.

 

Bùi Tấn


 

TÌNH THƠ XỨ QUẢNG

 

Vốn cùng chung uống nước Thu giang,

Trao gởi duyên thơ khắp xóm làng.

Mít luộc ngọn nguồn đưa xuống Phố,

Cá tươi vạn bể gởi lên ngàn.

Ấm lòng Đà Nẵng, trà Tiên Phước,

Xanh ruộng Duy Xuyên, nước Thạch Bàn.

Năm cụm Hành sơn hoa thắm nở,

Tình thơ xứ Quảng trải thênh thang.

 

Đinh Vũ Ngọc

(Ngoại tôn)

 

 

 

SÔNG

 

Sông hởi, theo dòng trôi mãi sao?

Nặng mang tình ý gửi phương nào?

Biển sâu nuốt trọn hồn trong trắng,

Muối mặn hòa tan tính ngọt ngào.

Đã chẳng chung tình cùng bãi vắng,

Lại đành phụ nghĩa với non cao.

Nguồn xưa lau lách buồn hiu hắt,

Gió nhớ mưa thương vẫn dạt dào!

 

Đinh Vũ Ngọc

(Ngoại tôn)

 


TÁI THIẾT TỪ ĐƯỜNG

 

Đất kia lỡ đó lại bồi,

Trăng dù khuyết cũng có hồi tròn nguyên.

 

Qua cơn binh hỏa ngửa nghiêng,

Từ đường tái thiết trên nền trước đây.

Luận bàn, hội họp hăng say,

Mười hai sau Tết là ngày khởi công.

Bà con trên dưới một lòng,

Chỉ trong bốn tháng đã xong công trình.

Ngắm xem quang cảnh hữu tình,

Từ môn, trụ biểu với bình phong xưa.

Thành xây song ghép nhặt thưa,

Trăng soi bên cổng, gió đừa trước sân.

Nóc đền có gắn hoa văn,

Sắt bông lộng kính cửa giăng thẳng hàng.

Ba gian rực rỡ huy hoàng,

Khám thờ, hoành, liễn điểm trang đủ màu.

 

Khói hương quạnh quẽ bấy lâu,

Từ đây chỉnh đốn trước sau mọi bề.

Thọ, khang, phúc, lộc đủ đều,

Bùi gia năm Phái tiếng ghi đời đời.

 

Bùi Diệm

 

 

 

 


TỪ ĐƯỜNG CẢM TÁC

 

Bể dâu khéo vẽ cảnh điêu tàn,

Di tích Tiền nhân bị xóa tan.

Nền cũ chơ trông thảm thiết,

Lối xưa lu lấp thấy hoang nhàn.

Cháu con Năm phái cùng suy nghĩ,

Hương khói muôn đời phải tính toan.

Kẻ của, người công chung gắng sức,

Từ đường tái thiết thật khang trang !

 

Bùi Tấn An

 

 

 

 

 

XUÂN THA HƯƠNG

 

 

Lại thêm một Tết nữa tha hương,

Lữ thứ tình riêng luống đoạn trường.

Nhớ nước nỉ non canh dế hót,

Thương nhà lẽo đẽo mối tơ vương.

Đường xa sự nghiệp, lo trăm mối,

Chí cả nam nhi, nghĩ bốn phương.

Tiếng pháo mừng Xuân khôn lấp nổi,

Hồn quê thăm thẳm một trời thương.

 

Bùi Tấn An

 

 


 

 

NHỚ QUÊ

                                 

                                         Chiều Thu thành phố ngẩn ngơ,

                             Lòng tôi vắng lặng thẩn thờ nhớ quê.

                                         Nhớ vườn cũ, nhớ lũy tre,

                             Mương dài uốn khúc bốn bề đồng xanh.

                                         Quê tôi: người đảm, đất lành,

                             Thiên nhiên thơ mộng, nhân tình thắm tươi.

                                         Còn non, còn nước, còn người,

                             Cầu cho đất Vĩnh đời đời thịnh khang.

 

Bùi Vĩnh Duy


MỪNG LỄ KHÁNH THÀNH TỪ ĐƯỜNG BÙI TỘC

 

 

Pháo nổ tưng bừng vui sướng thay,

Mừng ngày Bùi tộc, hội hôm nay.

Vui xuân trọn vẹn đàn con cháu,

Năm Phái đoàn viên nở mặt mày.

 

Nhớ lại Người xưa đến đất này,

Cần lao năm tháng chẳng ngừng tay.

Vĩnh Trinh, đất mẹ từng lưu tiếng,

Âm đức khéo xây, để phúc dày.

 

Lê Văn Hạng

(Nghĩa tế của Ô.B. Bùi Văn Minh)

 


THÀNH PHẦN BAN TU SOẠN VÀ HOÀN CHỈNH

TẬP KỶ YẾU

 

 

Stt

Phương danh

Công tác

1

Ô. Bùi Tấn

Sưu tầm & Biên soạn

2

Ô. Bùi Sau

Phúc duyệt

 

Ô. Bùi Quang Lâm

-

 

Ô. Bùi Ngọc Mai

-

 

Ô. Bùi Tấn Vĩnh

-

 

Ô. Bùi Văn Bảy

-

3

Ô. Bùi Minh Châu

Trang trí Hình bìa các Phụ bản

4

Ô. Bùi Văn Luân

Mỹ thuật

5

Ô. Bùi Hoàn và các con

In ấn

 

Ô. Bùi Ty

-

6

Ô. Bùi Văn Anh

Tài chánh

 

Ô. Bùi Tình

-

 

 




Lượt truy cập: 520613
Powered by EasyVN