TỌA
ĐÀM THƠ BÙI GIÁNG
TẠI TRUNG
TÂM VĂN HÓA PHÁP (L’ESPACE)
HÀ NỘI VÀO
TỐI 20.12.2011
Lần đầu tiên, một cuộc
tọa đàm về Thơ Bùi Giáng được tổ
chức long trọng tại Hà Nội với các bài
thuyết trình của nhà triết học Bùi Văn Nam
Sơn, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, nhà thơ
Nguyễn Trọng Tạo và nhà thơ, dịch giả
Nguyễn Nhật Anh (cũng là người sưu tập và
biên soạn tập thơ “Đười Ươi Chân
Kinh” được phát hành và giới thiệu nhân buổi
tọa đàm). Với sự tham dự
của đông đảo trí thức, văn nghệ sĩ,
buổi tọa đàm đã gây được tiếng vang
lớn. Nhiều tờ báo lớn,
nhiều trang mạng đã thông tin kịp thời và trích
đăng các phát biểu trong tọa đàm.
Dưới đây, xin giới thiệu vài hình ảnh và bài
phát biểu của Ông Bùi Văn Nam Sơn tại buổi
tọa đàm:
Phát hành
tập thơ Bùi Giáng
Tập thơ
Đười ươi chân kinh
Hội
trường Trung tâm Văn hóa Pháp (L’Espace),
Hà Nội,
20.12.2011
Ông Bùi Văn
Nam Sơn (giữa) đang phát biểu
tại Buổi tọa đàm
thơ Bùi Giáng
Từ trái
sang: Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, nhà thơ
Nguyễn Nhật Anh, Ông Bùi Văn Nam Sơn và nhà phê bình
văn học Phạm Xuân Nguyên
BÙI GIÁNG
TRONG CHIẾC KÍNH VẠN HOA
|
Tọa đàm về
Bùi Giáng tại trung
tâm L’espace, Hà nội,
20.12.2011
Bùi Văn Nam Sơn
|
Nhân dịp ra mắt một
tuyển tập thơ Bùi Giáng, chúng tôi rất vui mừng và
vinh hạnh được tham dự buổi tọa
đàm hôm nay. Vào cuối năm 2008, kỷ niệm
mười năm ngày mất của cố thi sĩ
(17.12.2006 - 07.10.1998), Trung tâm Văn hóa Ngôn Ngữ Đông Tây
đã tổ chức sưu tầm, biên soạn tập sách
dày dặn: Bùi Giáng trong cõi
người ta, tập hợp bài viết của hơn
30 tác giả trong Nam
ngoài Bắc, trong nước và nước ngoài. Đó là
một tập giai phẩm có chất lượng học
thuật rất cao về Bùi Giáng quy tụ những
tiếng nói từ nhiều chân trời khác nhau, đến
với người đọc cả nước. Nhưng
hôm nay, có lẽ là lần đầu tiên, một buổi tọa
đàm về Bùi Giáng được tổ chức trang
trọng tại thủ đô Hà nội, trong không gian L’Espace
thật thân quen này. Xin chân thành cám ơn Công ty Văn hóa và
Truyền thông Nhã Nam
và trung tâm L’Espace đã có nhã ý mời và tạo điều
kiện cho chúng tôi được ra Hà nội dự
buổi tọa đàm này. Xin rất cám ơn nhà văn
Phạm Xuân Nguyên, người hướng dẫn tọa
đàm và các diễn giả chính là nhà thơ Nguyễn
Trọng Tạo và dịch giả Nguyễn Nhật Anh
đã ưu ái cho tôi được phép phát biểu
đầu tiên để có dịp thay mặt gia đình và
thân nhân cố thi sĩ cảm tạ sáng kiến của ban
tổ chức và bày tỏ sự xúc động của mình
trước tình cảm nồng hậu của quý vị
khách quý có mặt hôm nay dành cho cố thi sĩ.
Được phát biểu
đầu tiên là sự ưu ái, đồng thời
cũng là một khó khăn đặc biệt cho tôi khi
phải mở đầu cuộc tọa đàm về
một tác giả thật thú vị nhưng cũng rất
độc đáo, đa diện và sâu thẳm như Bùi
Giáng. Không phải là người sáng tác lẫn một
người chuyên phê bình hay nghiên cứu văn học, tôi
chỉ xin phép nêu vài cảm nghĩ với tư cách một
độc giả bình thường đối với tác
giả mình yêu thích.
Trước mắt tôi, Bùi
Giáng xuất hiện như trong một chiếc kính vạn
hoa. Với tôi, hình ảnh ấy là một sự nhìn
nhận, một vinh hạnh và một niềm an ủi
lớn lao đối với bất kỳ tác giả nào
không đơn điệu và nhất phiến. Người
đọc nhiều thế hệ - từ những
người bạn văn sống đồng thời,
những người có cơ duyên hạnh ngộ và kết
giao, những bà con lao động lam lũ vốn quen thuộc
với một Bùi Giáng “phóng túng hình hài, ngang tàng tính mệnh”
giữa phố thị Sài Gòn suốt mấy mươi
năm, cho đến những nhà nghiên cứu và các bạn
đọc trẻ tuổi ngày càng tinh tường, uyên bác
hiện nay - đều tha hồ đến với ông tùy
theo sở thích, cảm nhận và “căn cơ” riêng của
mỗi người. Bùi Giáng quả là một trường
hợp đặc thù và lý thú cho một môn mỹ học tiếp nhận đang thịnh hành
hiện nay!
Chỉ cần điểm
qua một cách ngẫu nhiên nhan đề của một
số trong rất nhiều bài viết về Bùi Giáng, ta hình
dung phần nào về chiếc kính vạn hoa ấy: “Bùi
Giáng dị biệt”; “Bùi Giáng, một hồn thơ bị
vây khổn”; “Bùi Giáng, một tâm hồn mênh mông ảo
diệu”; “Bùi Giáng, một năng lực phi thường
của kẻ suốt đời rong chơi”; “Người
lữ khách cuồng điên và khôn cùng kỷ niệm”; “Viết
vào Bùi Giáng mong manh”; “Những sát-na của Bùi Giáng”; “Yêu
đời hơn từ thơ Bùi Giáng”; “Bùi Giáng, một bài
thơ lạc vận”; “Bùi Giáng, giang san một gánh dị
thường”, “Bùi Giáng, nhà thơ cuối cùng của
thế kỷ 20”; “Cuộc hòa giải vô tận:
trường hợp thơ Bùi Giáng”; “Bùi Giáng, tận cùng
chủ nghĩa hư vô”; “Bùi Giáng; tiếng ca chung cục”; “Bùi
Giáng, ai người chia sẻ?”; “Bùi Giáng, từ phá thể
đến hội nhập”; và mới đây nhất, “Bùi
Giáng, nhà thơ của các nhà thơ” v.v.. và v.v..
Không phải các tác giả
đều đồng ý với nhau trong cách hiểu, cách
đánh giá về Bùi Giáng, nhất là về thơ của
ông, mặc dù cùng chia sẻ chung một niềm cảm
thông, trân trọng. Có người đan xen kỷ niệm
riêng với những xúc cảm vô bờ trước
những câu “thần cú”, những ý tình bát ngát của họ
Bùi. Có người khảo sát thơ ông trong mối
tương quan mật thiết với hồn thơ dân
tộc, với các truyền thống tư tưởng
Đông Tây. Có không ít tác giả thử nghiệm hệ khái
niệm tinh vi của bộ môn phê bình văn học
đương đại nhằm “thông diễn” thơ Bùi
Giáng dưới nhiều bầu khí và ánh sáng khác nhau. Bùi
Giáng chủ yếu là một nhà thơ lãng mạn cổ
điển phá cách và hý lộng? Bùi Giáng là một nhà thơ
tân kỳ, “là kẻ làm thơ trước hết với
chữ”, bằng cảm thức và bút pháp hậu-hiện
đại, cho dù một cách mặc nhiên? Đọc thơ
ông bằng cách tiếp cận “hủy tạo và phá thể”?
“Thơ tư tưởng phải hiểu bằng tư
tưởng, không phải bằng câu chữ”? Vậy, Bùi
Giáng có “cách tân” thơ không, và nếu có, ở phương
diện nào? Giá trị đích thưc của thơ Bùi Giáng
ở đâu? Ông là bậc thầy của những câu thơ hay?, của những
bài thơ hay?, hay của
một hồn thơ bất
tuyệt, một nguồn
thơ vô tận hiếm có, mà mọi bài, mọi câu
chỉ là sự ngắt mạch theo quy ước giả
tạo, từ đó cắt nghĩa được
những chỗ trùng lặp như một ám ảnh khôn
nguôi? Kỳ cùng, Bùi Giáng có làm
thơ không, nếu hiểu làm
thơ theo nghĩa “thêu thùa”, “bịa đặt” của
từ “art” (nghệ thuật”)
cổ truyền? Hay Bùi Giáng, nói thậm xưng, là một hiện thân của Nàng Thơ,
ăn, ngủ, thở, sống với thơ và trong thơ?
Về bản thân tác
giả, Bùi Giáng là một “hồn
thơ bị vây khổn”, hoặc “thánh thiện và tự do
tuyệt đối”? Là một “hành giả chỉ
đạt tới tiểu ngộ mà không đạt tới
đại ngộ của thực tướng vô
tướng, thực tánh vô tánh”, hoặc là người “đã
cuồng điên để sáng suốt” như một
lựa chọn hiện sinh của một kẻ
đạt đạo, “thỏng tay vào chợ” để
thực hành “Bồ tát hạnh”? Thật không dễ trả
lời và cũng thật không phải ngẫu nhiên khi Bùi
Giáng là cả một kho giai thoại, thậm chí, huyền
thoại. Soạn giả Huyền Li đã khéo chọn nhan
đề: “Bùi Giáng, 99 giai
thoại” (1999) cho bộ sưu tập của mình, khi con
số 99 ngụ ý sự vô lượng, vô hạn, bất
tận. Thông thường, trong văn chương, giai
thoại là món quà thú vị cho người đọc,
nhưng không có ý nghĩa gì nhiều lắm trong việc đọc
tác phẩm, nhất là khi khắp nơi đang vang lên
hồi chuông báo tử về “cái chết của tác giả”!
Bùi Giáng có lẽ là một trong những ngoại lệ trong
cách tiếp cận “thuần văn bản” chăng? Dù
thật dù giả, dù trung thực hay thêm thắt, giai
thoại là một phần không tách rời với văn
nghiệp Bùi Giáng. Không chỉ để hiểu thêm chút ít
tình tiết trong nhiều câu thơ đẹp và bí hiểm
của ông (“Trời đêm tinh
tú chạy vòng, Ruổi rong về bích ngạn hồng vàng
chiêu” để nhớ ngày trẻ chạy “sô” theo
tiếng hát ma mị của những “ngôi sao” Thanh Thúy, Bích
Chiêu, và còn nhiều nữa: “Trang
mờ em vẫn là em thu đầu”, “Về trong vân
thạch em ngồi vén xiêm”, “Sông ơi em bỏ sa mù, đi
thiêm thiếp cõi quân thù gọi nhau”, hay “Ngày mai cá sóng phiêu
bồng, ngàn trăng ngậm bóng sương đồng ra
đi”…) mà còn giúp “giải mã” phong độ “thần
thông du hý” với nhiều mật ngôn, ẩn ngữ tràn lan
trong một cuộc đời không biết và không hề
phân biệt giữa thực và mộng, giữa sống và
thơ. Do đó, ít nhất trong trường hợp Bùi
Giáng, tôi e rằng nếu tách những giai thoại, hay đúng
hơn, tách con người và cuộc đời của tác
giả ra khỏi văn nghiệp, thì thơ văn Bùi Giáng
sẽ mất đi sự bảo chứng. Thử hỏi
những câu chuyện thiền, những bài thơ thiền
sẽ còn lại gì, nếu bị tước mất đi
kinh nghiệm tâm linh thực chứng của chúng?
Có tác giả mạnh dạn
đi tìm cái tưởng như bất khả: bản
chất của văn chương: “Bản chất của
văn chương Bùi Giáng là sự tổng hòa những
nghịch lý. Trong cái đùa rỡn có sự đau xót, trong
bỡn cợt có nỗi ngậm ngùi, trong sự nghịch
ngợm hồn nhiên trẻ thơ có sự uyên bác, trong
điên loạn cuồng si là cõi mộng bát ngát đẫm
tình… Cái nét riêng ấy không ai có được, không ai
bắt chước được và không thể có
người thứ hai” (Trần Đình Thu). Và có lẽ vì
thế chăng, tuy không đồng ý hẳn với nhau,
hầu như tác giả nào khi viết về Bùi Giáng
cũng vô hình trung cảm nhận sâu sắc cái “không ai có
được” ấy để chọn riêng cho mình
một cách viết, một nhan đề thật
đắc ý, thật “gan ruột”, như thể viết
cho chính mình, về chính mình, nhờ đó, mở hết
độ tinh nhạy của tai mắt, làm bùng vỡ
nội tâm. Bùi Giáng, một cách âm thầm, trao tặng cho
những ai đến với ông chiếc kính vạn hoa. Viết
về Bùi Giáng, ai cũng thấy mình như vui hơn,
đẹp hơn, sâu hơn, “vô ngần trong bóng nguyệt”,
hay, nói như Paul Éluard: “thi sĩ không chỉ mang lại
hồn thơ cho chính mình, mà còn trao cảm hứng cho
người khác”. Thiết tưởng, đó cũng là
một đóng góp hải hà của Bùi Giáng.
Gần đây, thật vui
mừng khi thấy việc đọc Bùi Giáng đã
được nâng lên một cấp độ đáng
kể về chất lượng lý thuyết. Theo thứ
tự thời gian, tôi muốn nhắc đến một
số lượng không nhỏ các luận văn Cử nhân
và Thạc sĩ văn học. “Thơ
Bùi Giáng dưới lăng kính phê bình cổ mẫu”,
luận văn thạc sĩ của Trần Nữ
Phượng Nhi tại Khoa Văn Đai học KHXH&NV TP
HCM (2011, do PGS TS Nguyễn Thị Thanh Xuân hướng
dẫn) là một trong số đó (và tiếc rằng đây
là luận văn duy nhất tôi may mắn được
đọc). Bằng cách tiếp cận của phân tâm
học miền sâu ở cấp độ vô thức
tập thể, tác giả Phượng Nhi đã tìm cách phát
hiện các cổ mẫu
tự nhiên như Đất, Nước, Vườn và
các cổ mẫu xã hội
như tình yêu siêu năng (cổ mẫu Linh Âm/anima) và
đường về bản thể (cổ mẫu Tự
ngã/Self) để khai quật những mạch ngầm trong
thơ Bùi Giáng, một khảo hướng đầy
hứa hẹn. Gần đây nhất, là chuyên luận công
phu còn ở dạng bản thảo của PGS TS Đỗ
Lai Thúy, nhà nghiên cứu và phê bình văn học thẩm
quyền: “Bùi Giáng, nhà thơ
của các nhà thơ”. Từ ngôn ngữ-ký hiệu
đến ngôn ngữ-sự vật, rồi từ chơi
chữ đến trò chơi ngôn ngữ, tác giả đã
dõi theo hành trình ngôn ngữ thi ca Bùi Giáng để đi
đến nhận định: “Nếu trước đây
Nguyễn Du mở ra thời kỳ trung đại cổ
điển trong văn học Việt nam, nâng nó lên ngang
tầm khu vực Đông Á, còn Tản Đà vào những
thập niên đầu của thế kỷ XX đã mở
đầu cho thời hiện đại, đưa văn
học Việt nam vào quỹ đạo thế giới, tuy
có sự lệch thời gian, thì Bùi Giáng ở những
năm cuối của cùng thế kỷ ấy đã đi
đầu trong việc mở ra một thời đại
mới cho văn học Việt Nam, văn học hậu
hiện đại. Có điều lần này, ít nhất
với trường hợp Bùi Giáng, sự phát triển
của văn học Việt Nam so với thế
giới không còn là sự phát triển tương ứng nữa mà là đồng thời, tức nhịp bước
cùng thế giới. Bởi thế, theo cái cách mà Heidegger
gọi Hölderlin, tôi cũng muốn vinh danh Bùi Giáng, cũng
như Nguyễn Du và Tản Đà trước đây,
những thi nhân làm thay đổi hệ hình tư duy
nghệ thuật của thời đại các ông, không
phải là “nhà thơ giữa
các nhà thơ, mà là nhà thơ của
các nhà thơ”.
Nhân nhắc đến quan
hệ giữa Heidegger và Hölderlin, giữa triết gia và thi
sĩ, xin mạn phép lưu ý thêm rằng: thật bất
công và đáng tiếc nếu ta bỏ quên một Bùi Giáng
văn xuôi! 1000 trang của Lời
Cố Quận và Lễ
Hội Tháng Ba, Bùi Giáng đã dành để dịch công
trình đồ sộ của Heidegger giảng giải
thơ Hölderlin, thi sĩ Đức mà hình ảnh
dường như song sinh với Bùi Giáng. Ý thức minh
nhiên về thi ca và triết học của Bùi Giáng thể
hiện đậm đặc nhất trong dịch phẩm
này. Thời gian chỉ cho phép tôi trích dẫn một đôi
lời của Heidegger qua ngòi bút dịch của họ Bùi:
“Giữa tiếng ồn ào, những bài thơ giống
như một chiếc chuông treo ở ngoài trời và
chỉ cần một chút tuyết rơi nhẹ nhẹ
chạm vào, đủ khiến chiếc chuông lạc đi
âm điệu (…). Vì thế, thể theo ân tình của
tiếng thơ mà lời giảng thơ phải gắng
làm sao để tự khiến mình thành thừa thải (…).
Từ đó, bài thơ đứng lên trong cốt cách,
thể lệ của riêng nó, lập thời mang lại ánh
sáng cho những bài thơ khác”. Bùi Giáng cũng đặc
biệt nhấn mạnh đến tiêu ngữ (Leitwort) hay đúng hơn, Lời nhiếp dẫn thứ
ba trong năm tiêu ngữ của Heidegger về “một nhà
thơ của những nhà
thơ: “Từ khi chúng ta là
một hội thoại… (Seit ein Gespräch wir sind…)” là
một trong những lời sâu thẳm nhất của Hölderlin.
Bản chất của ngôn ngữ không ở nơi từ
vựng và ngữ pháp mà ở trong đối thoại. Ngôn
ngữ sống trong đối thoại. Đối thoại
là thể cách để con người hiện hữu là
người. Và, theo Hölderlin, chỉ có thể đối
thoại, nhất là “hội thoại-suy tư”, khi chúng ta
biết nghe nhau. Nói chỉ trở thành đối thoại,
khi nó có thể được nghe. Nếu không, chỉ là những
tràng âm thanh vô nghĩa.
Vì thế, mở đầu
Lời tựa tiếng Pháp
cho tập Dialogue (1966) của
một số trí thức miền Nam gửi cho các trí thức
Tây phương, Bùi Giáng viết: “Một cuộc đối
thoại bao giờ cũng phơi mở, dễ trở
thành một cuộc độc thoại. Mà một cuộc độc
thoại lại có thể tràn trề sức sản sinh, nếu
là cuộc độc thoại trong-mờ, qua đó xuyên một
“ánh đêm”. Bản chất của độc thoại là ở
chỗ Hiện Tồn tự phân thân: hai vũ trụ soi
mình trong một thế giới; một thế giới chia
thành hai được ngăn cách bởi một hố thẳm.
Và bản chất của hố thẳm là ở chỗ nó
có thể vượt qua bằng một cuộc nhảy. Và
bản chất của cuộc nhảy lại là sự chấp
nhận rủi ro. Nói khác đi, chấp nhận rủi ro
là bản chất của chính cuộc sống vậy. Sống,
tức là đánh liều. Mà đằng nào đã “một liều
ba bảy cũng liều”, thì cớ sao không chọn cuộc
liều trong-mờ?” (le risque diaphane).
“Trong-mờ” (“diaphane”) là bầu
khí dịu dàng, “lung linh sương bóng”, cần thiết cho
đối thoại, nhất là một cuộc đối
thoại mạo hiểm.
Bùi Giáng cũng có khi gọi đối
thoại là hội đàm:
Còn nguyên phố thị hội đàm
Với trăng châu thổ muôn vàn đã
xa
Đạp Thanh hội cũ hào hoa
Giấc vàng buổi Tảo Mộ đà
cáo chung…
Yêu thơ Bùi Giáng, xin hãy
giữ nguyên Hội Đạp Thanh nao nức và Giấc Vàng
long lanh!