Diễn
văn đọc trong Lễ Giổ Tổ chu ký 5
năm tại
nhà
thờ Tộc BÙI ở Bình Chánh ngày
05-04-2009
Kính thưa
bà con thân thuộc,
Tôi xin tự giới thiệu : tôi là Bùi văn Tố, con trai út
của Ông
Bùì Thống, đích tôn thế
thứ 16 của họ Bùi Vĩnh Trinh, tục danh là
ông Nghè
Thống, thường còn được
biết dưới danh xưng là Ông Nghè Thu Bồn
. Tôi là một con cháu thuộc thế 17 cuả
tộc.
Hôm nay, tôi rất vui mừng được
có mặt nơi đây trước sự
hiện diện khá đông đủ con cháu nội ngoại
của họ Bùi chúng ta.
Khi đuợc biết năm nay sẽ có lễ
Giổ Tổ chu kỳ 5 năm, tôi và anh Bùi
thanh Dương, đích tôn thế 18 của
họ, tuy tuổi đời cuả hai chúng tôi đã
gần bát thập rồi,
chúng tôi đã đồng thanh quyết
định vể tham dự, trước là
để bái lạy tổ tiên, sau là
để có dịp gặp bà con xa gần, những
bà con đã quen biết hay chưa từng quen
biết vì thời cuộc không cho phép.
Việc chúng ta hội họp đông
đủ hôm nay gợi lại trong tôi nhiều
kỷ niệm êm đềm về những lễ
giổ ngày xưa ở chánh quán Vĩnh
Trinh, do anh chị Cả tôi là
anh chị Bát Thưong
quán xuyến một cách hoàn hảo : mỗi năm có hàng
chục đám giổ phải tổ chức, hạ thịt
bò heo, trước là để cúng ông bà,
sau là để thết đãi bà con vể tham
dự đám giổ. Trong nhà anh Bát Thưong,
người đông như có hội, kẻ đi
lên người đi xuống, bưng mâm bưng
quả, trai bạn tấp nập giúp nấu bếp làm
cơm. Lúc bấy giờ, tôi còn nhỏ, vui đùa
ngoài sân phơi lúa với các anh em đồng
lứa trong họ, thỉnh thoảng chạy vào nhà
bếp, năn nỉ xin một miếng chả lụa hay
một cái bánh ngọt.
Khi lễ cúng bắt đầu, tôi lên
nhà thờ nhìn cha tôi hành lễ : với
tư cách là đích tôn thế 16, Ông
đứng chánh bái, tóc râu ông bạc
trắng, oai nghiêm trong chiếc áo rộng và cái
khăn đóng màu xanh.
Ngày nay, những đám giổ như vậy
không còn nữa, nông nghiệp không còn
là nếp sống cổ truyền của đại đa
số bà con chúng ta
và dòng họ chúng ta không còn là
những nông dân chỉ biết cày sâu cuốc
bẫm, chân lấm tay bùn như tổ tiên ta
từ cuối thế kỷ thứ 15, khi Ông Tiền
hiền BÙI tấn Diên theo đoàn quân Nam
tiến vào lập nghiệp ở tỉnh Quảng Nam,
để rồi lần lần bành trướng trên
lưu vực sông Thu Bồn. Người cháu 14 đời
là Ông
Bùi Thân, tục danh là Ông Quản
Nghi đã tạo được sau 30 năm nhẫn nại,
cần cù và tự
tín, một sản nghiệp trên 3000 mẫu, luá
thâu về nhiều đến nổi trong dân gian có
câu : "Tiền Hương Đạo, gạo Quản
Nghỉ" khi nói đến hai người giàu tiền
và giàu gạo nhất trong tỉnh.
Người xưa có nói : "Ôn cố
tri tân" : vậy thì, qua thời gian mà xét,
nghĩa là đặt mình vảo những tháng
năm của đầu thế kỷ 20, dưới thời
Pháp thuộc, họ hàng chúng ta dã có
dịp cọ xát với nền công nghiệp cuả Âu châu
và trong họ đã có một người đi
tiên phong trong việc hấp thụ và áp dụng
công kỷ nghệ hiện đại đó vào
nông nghiệp, thực hiện bước tiến đầu tiên trên con
đường thay đổi định hướng cổ
truyền.
Người đó là cha tôi, Ông BÙI
Thống, thường được gọi là Ông
Nghè Thống hay Ông Nghè Thu Bồn, đích
tôn thế 16 của họ BÙI, người mà
tôi muốn vinh danh trong ngày giổ hôm nay, ngày
mà chúng ta kính cẩn tưởng niệm những
bậc tiền bối ; nhân dịp nầy tôi
sẽ mô tả sau đây những hoạt động
trong lãnh vực công nghiệp ấy, những hoạt
động mà con
cháu hậu sinh ngày nay không bao nhiêu
người biết đến.
Lúc sinh thời, đáng lẽ với tư
cách là đích tôn, cha tôi phải lo cày
cấy hương hỏa tạo lợi tức để
thờ cúng tổ tiên theo tập tục cuả tiền
bối; nhưng không, Ông đã giao trách
nhiệm đó cho con trưởng và dâu trưởng
là anh chị Bát Thương (Bùi khắc Tục, đích tôn,
thế thứ 17 là anh Cả của tôi) để
rảnh tay hoạt động trong một lãnh vực
mới : đó là
việc dẩn thủy
nhập điền có tính cách đại
quy mô đối với thời đại và kiến
thức lúc bấy giờ , để cung cấp nước
cho nông dân trên một vùng rộng lớn
gồm nhiều làng nhiều xã, không phải
lệ thuộc vào thời tiết.
Để thực hiện mục đích đó,
dự án đầu tiên của Ông là xây
đắp đập Thạch Bàn, một công trình
vĩ đại dụng ý tích
trử nước trong mùa mưa rồi phân phối
nước đó trong mùa nắng cho nông dân
trong vùng, khác hẳn với kiến thức lúc
bấy giờ là thực hiện những bánh xe gió
(tiếng Pháp gọi là noria) múc nước
sông đổ vào ruộng.
Lúc còn nhỏ, tôi nghe Mẹ tôi kể lại
rằng hằng trăm nhân công, ngày nầy
qua ngày nọ, kẻ chặt bổi, người gánh
đất để đắp đập mà Mẹ tôi
phảỉ đảm đang phần tiếp liệu.
Than ôi ! không có chuyên viên để làm cố vấn
và kỹ thuật mà Ông biết lúc bấy
giờ (một lớp đất, một lớp bổi)
không đủ khả năng chống lại sức mạnh
của thiên nhiên; sau một đêm mưa lớn, đập bị
vỡ và gây ra nhiều thiệt hại mùa màng mà Ông phải
bồi thường thỏa đáng. Có người
kể lại rằng sau khi nước xuống, nguời
ta nhận thấy một số cá bị móc trên
buội tre vì sức cuốn của nước từ
đập vỡ chảy ra quá mạnh; vì vậy trong dân gian đã
có giai thoại là "với Ông Nghè Thống,
cá leo lên buội tre ở ".
Để chứng minh là Ông đã thông
hiểu địa hình và địa vật trước
khi xây đắp đập, đã biết lựa
chọn nơi thuận tiện nhầt để thiết
kế đập, một thời gian sau đó, chính
quyền Pháp lúc bấy giờ đã cho thực
hiện đập Thạch Bàn , cái đập mà
chúng ta biết ngày nay, chỉ cách năm mười
thước nơi mà Ông đã lựa chọn.
Thua trận nầy bày trận khác vì
con người có ý chí như Ông không
thể ngồi yên để than thân trách phận.
Lần nầy, Ông đã thẳng tiến vào
địa hạt công nghệ với những ý định
tiền tiến đối với thời cuộc : Ông
đã lập ra "BÙI THỐNG VỆ NÔNG CÔNG TY"
với mục đích thiết lập "Nhà
Máy Bơm nước sông Thu Bồn" toạ
lạc ở một nơi thuận tiện nhất tại làng Phú Đa,
máy bơm được một động cơ chạy
bằng hơi nước vận chuyển (machine à
vapeur), tương tự như những đầu máy
xe lửa xuyên việt Sài gòn Hà nội một
thời nào, xử dụng củi làm nhiên liệu.
Nước bơm lên được đưa vào
một hệ thống đường mương chạy dài từ Phú
Đa đến Thu Bồn để cung cấp nước
cho nông dân.
Tôi còn nhớ, ban đêm đèn điện thắp sáng trưng trong
và chung quanh nhà máy, tiếng máy chạy àm
ỹ, tiếng nước tuôn từ ống ra với
đường kinh 300
mm cùa máy bơm, chảy mạnh
vào đầu mương như thác đổ, đối
với tôi lúc đó là một cảnh tượng
hãi hùng khiếp sợ.
Thử hỏi lúc bấy giờ, nghĩa là
80 năm về trước, ai là người hiểu
rõ hai chữ CÔNG
TY là gì và ai lại không ngắm nghía
và thán phục cái cảnh đèn đìện
sáng trưng như ban ngày, ngay trong làng Phú
Đa hẻo lánh nấy.
Sự lợi ích đem lại cho nông dân
do BÙI THỐNG VỆ NÔNG CÔNG TY đề xướng
và thực hiện đã được Chính
phủ Nam Triều đương
thời tặng thưởng huy chương Minh
Nông Bội tinh và
được sắc tứ
Hàn Lâm Kiểm Bộ.
Vì lẽ Ông có thể cung cấp nước
cho nông dân bất cứ lúc nào mà họ
cần, dù có hạn hán đi nữa, cho nên
họ đã cung kính tôn xưng Ông là
"Ông Trời Con ".
Nói tóm lại, xét qua thời gian và
trong bối cảnh lúc Ông sinh thời, chúng
ta phải công nhận Ông là người duy nhất
trong dòng họ đã đi tiên phong trên đường
công nghệ đó.
Ngày nay con cháu Bùi gia hiện diện trên
nhiếu lãnh vực hiện đại : Thương
mại, Khoa học, Y khoa, Điện toán, v.v. . . ; Kỹ
sư cũng lắm, Bác sĩ, Dược sĩ, chuyên
gia các loại cũng nhiều , đủ sức theo
kịp đà tiến hoá cuả xã hội tiền
tiến hiện đại. Họ đã tản mác
khắp nơi trong
nước cũng như trên thế giới, từ
đồng quê đến thành thị, từ lục
điạ Á châu, Âu châu qua lục địa
Úc châu, Mỹ châu, chiếm được nhiều
địa vị xã hội đáng kể. Tôi
tưởng chúng ta cũng nên ghi nhớ là người
con cháu của họ chúng ta đã đi tiên
phong trong ngành khoa học cao cấp là Bác sĩ
Bùi kiến Tín, thế thứ 17, lừng danh trên
toàn tỉnh Quảng Nam
vì là người đầu tiên trong tình
đậu Tú tài toàn phần Pháp (1932) và
sau đó đã đậu Y khoa Bác sĩ Đại
học dường Paris vào năm 1940.
Sau nầy, khi Phổ hệ ấn bản 2010 ra đời,
chúng ta sẽ thấy điều nhận xét trên
đây là sự thực qua các thành đạt vẻ
vang của con cháu, nhất là từ thế 17 trở đi, trên đường
học vấn ở xứ người.
Từ nay, chúng ta sẽ không còn nghĩ
là Họ Bùi Vĩnh Trinh là những nhà
nông chân chính nữa ; họ Bùi cuả những
thế hệ hiện nay cũng như trong tương lai
là những thế hệ của công nghệ tiền
tiến và chúng ta sẽ không quên người
trong họ đã đi tiên phong là Ông Bùi Thống.
Ngày trở về nơi chôn nhau cắt rốn
của con cháu chắc còn xa lắm hoặc có thể
chẳng khi nào thực hiện được vì
hoàn cảnh không thuận tiện.
Vì vậy, tháng tư năm 1999, con cháu
Ông đã hỏa
thiêu tàn cốt và đã đem cải táng
tại Nghĩa trang Lạc
cảnh viên (Cedar Hill) ở tiểu ban Maryland, Mỹ quốc, bên
cạnh mộ của Bà đã được cải
táng vài năm trước đó.
Tôi nghĩ rằng, một ngày nào đó,
Cedar Hill có thể là nơi cho những ai là con cháu
của thế hệ mới muốn tìm cội rễ
của Bùi Gia cấp tiến cận đại tại
hải ngoại mà Ông Bùi Thống là người
đã đi tiên phong cách đây gần 80
năm, cũng như trước kia Ông Tiền hiền
BÙI Tấn Diên là cội rễ của BÙI
Gia nông nghiệp khi ông xung phong vào Nam lập
nghiệp.
Ở đời , người ta thường nói
cái huy chương nào cũng có hai mặt :
mặt phải và mặt trái (toute médaille a
son revers).
Trong trường hợp của chúng ta, mặt
phải là những gì tốt đẹp mà tôi
đã trình bày trên đây.
Còn mặt trái là gì vậy ?
Thưa bà con,
Sự sinh sống kéo dài ở ngoại quốc
làm cho con cái chúng ta quên dần đi cái
gốc của chúng nó : dần dà, tiếng
Việt tàn lụn qua
thời gian và phải nhìn nhận là các
con cháu sinh trưởng trên nước người,
có lẽ vì quá lo âu việc hội nhập,
lần lữa quên đi cái gốc Á đông
của mình.Tôi phải nói là tôi kính
phuc người Trung Hoa
đã biết bảo tồn văn hoá của họ
qua không gian và thời gian; dầu định cư
ở đâu cũng vậy, con cháu của họ
biết viết và biết nói tiếng Trung Hoa, tại gia họ
chỉ dùng tiếng Tàu; tuy vậy, họ cũng
đã có thể hội nhập mau lẹ như
chúng ta trong bất kỳ xứ sở nào.
Còn con cháu người Việt mình thì
có thể nói là rất ít gia đình
còn giữ được nề nếp Á đông
và con cái hiểu và viết tiếng Việt
càng ngày càng hiếm. .
Tôi phải nhìn nhận là cái lỗi
lớn là cha mẹ và trong những người
phạm lỗi đó có tôi, nhưng tội
cuả tôi có thể được thuyên giảm
ít nhiều vì cả hai đời vợ của
tôi đều là người ngọai quốc và
tôi bắt buộc phải xử dụng tại gia tiếng
Pháp.
Sự tranh đua để hội nhập càng
sớm được chừng nào hay chừng ấy đã
làm cho con cháu của họ chúng ta lãng
quên việc bảo tồn văn hóa nói trên đây.
Vì vậy, tôi rất thán phục một
gia đình con cháu mà tôi biết rõ, đã
giữ vững đuợc văn hoá đó : con cái
không những nói mà viết tiếng Việt
rành rõi, rành rõi đế nổi toà
án xứ sở tại, đã nhiều lần mời làm thông ngôn
cho toà khi xét xử một việc liên hệ
đến người Việt.
Tôi tự hỏi khi thế hệ của tôi
và của anh Dương qua đời rồi thì
ai là người đứng ra đảm trách việc
bổ túc Phổ hệ cho những thế thứ sau
nầy như chúng tôi đang thực hiện ngày
nay.
Đấy là
một ưu tư quan trọng trong tôi.
Mục đích thứ hai của chuyến về
dự lễ giổ tổ ngày hôm nay là tôi
muốn nhân dịp nầy giới thiệu cùng bà
con cô dâu họ
Bùi gốc Lào; tôi đâ tục huyền
với bà ta từ năm 1979, nghĩa là 4 năm
sau khi bà chính thất người gốc Âu của
tôi đã bất hạnh tử nạn phi cơ ở
An phú Đông cùng 3 con của tôi tháng
tư năm 1975. Tôi rất tiếc là tình thế
thời cuộc lúc bấy giờ đã không cho tôi
có dịp giới thiệu cùng bà con cô dâu gốc Âu đầu
tiên cuả họ Bùi. Từ khi có phong trào
dịnh cư ở ngoại quốc thì họ chúng
ta đã có thêm một số khá nhiều
cô dâu và chú rể gốc Âu Mỹ.
To.
Xin cám ơn tất cả bà con.
Bùi văn Tố