Alexis de Tocqueville
và sự trầm tư về nền
dân trị
“Il faut une science politique
nouvelle à un monde tout nouveau”
(Cần có một khoa học chính trị
mới mẻ
cho
một thế giới hoàn toàn mới)
A.d.
Tocqueville
1. Tác giả của bộ
sách đồ sộ “Về Nền
dân trị ở Mỹ” (1835/40) - được Phạm
Toàn dày công dịch sang tiếng Việt - là một khuôn
mặt lạ thường. Ở Mỹ, từ lâu, ông đă
trở thành một huyền thoại, một thần
tượng, v́ được xem là đă hiểu nước
Mỹ hơn cả người Mỹ, và tác phẩm này của
ông – bên cạnh bản Tuyên Ngôn độc lập và Hiến
Pháp Hoa Kỳ – được tôn thờ gần như là một
thứ “tôn giáo chính trị”. Vào đầu thế kỷ XXI,
vẫn c̣n có rất nhiều trí thức Mỹ tự nhận
là môn đồ của ông: “We are all Tocquevillians now”!.
Ở Châu Âu, tuy tên tuổi và tác phẩm của ông ít phổ
biến hơn so với ở Mỹ, ông vẫn thường
được khen là “Montesquieu của thế kỷ XIX”, và
trong mọi cuộc thảo luận về chính trị học
hiện đại, ông vẫn được xem trọng
bên cạnh các tên tuổi lớn của thế kỷ XIX và
đầu thế kỷ XX: John Stuart Mill, Karl Marx, Auguste
Comte, Max Weber… Người ta không chỉ kinh ngạc về tài
“tiên tri” địa-chính trị của ông: một trăm năm
trước khi bắt đầu cuộc chiến tranh lạnh,
ông đă tiên đoán sự đối đầu “phân cực”
giữa hai siêu cường Nga-Mỹ.
Nhiều người c̣n nh́n ông như một hiện tượng
khá nghịch lư: một nhà quư tộc lại đi tán thành
dân chủ; một người Pháp lại quan tâm và khen ngợi
người Mỹ; một trí thức tự do, không có tín
ngưỡng lại nhấn mạnh sự cần thiết
của tôn giáo… Nhưng, đó chỉ mới là cảm tưởng
ban đầu. Đi sâu t́m hiểu, ta càng ngạc nhiên về
tầm nh́n xa của ông. Có thể nói, với Tocqueville, việc
nghiên cứu và trầm tư về nền dân trị đă
thực sự bước vào một giai đoạn mới.
Trong bối cảnh rối ren và hoang mang của Châu Âu đương
thời, ông đề ra một luận điểm dũng
cảm: “Les jeux sont faits” (Ván bài đă ngă ngũ), thắng lợi
của nền dân trị là không có ǵ có thể ngăn cản
được và sớm muộn sẽ là chung quyết và bất
khả văn hồi. Vấn đề c̣n lại là phải t́m
hiểu, phân tích, suy tưởng và dự báo về mọi
khía cạnh tích cực lẫn tiêu cực của nó. Nhận
thức ấy là kết quả thu hoạch được
sau chuyến “du khảo” của ông ở Mỹ, được
ông tổng kết trong tác phẩm đầu tay này, một
tác phẩm đă nâng ông lên hàng ngũ các nhà kinh điển
của khoa chính trị học.
2. Sau một thời
gian hầu như bị lăng quên ở nửa đầu thế
kỷ XX, tư tưởng của Tocqueville chứng kiến
sự hồi sinh từ sau Thế chiến II, nhất là ở
Mỹ, rồi ở Pháp, Đức và nhiều quốc gia
khác. Đặc biệt, với biến động lớn
ở thập niên cuối thế kỷ XX, sự “lạc
quan” dễ dăi của không ít người về “sự kết
thúc của lịch sử” (Francis Fukuyama) trước làn
sóng dân chủ hóa, xây dựng nhà nước pháp quyền và
cơ chế kinh tế thị trường đă dần dần
nhường chỗ cho sự tỉnh táo và thận trọng.
Các thách thức và khủng hoảng đa dạng hiện
nay trên thế giới đang làm dịu lại những kỳ
vọng quá cao đối với nền dân trị; và mặc
dù không có lựa chọn nào khác, mọi người
đều thấy không có lư do ǵ cho một sự bồng bột
và tự măn. Câu nói nổi tiếng của cựu thủ tướng
Anh Churchill rằng nền dân trị là “h́nh thức nhà nước
tồi nhất… nếu không kể mọi h́nh thức khác!”
đă được Tocqueville dự báo từ hơn một
trăm rưởi năm trước!
Chàng công tử
quư tộc Tocqueville đă phát hiện ra rằng: nền dân
trị là h́nh thức xă hội (état social) duy nhất khả
hữu của thời hiện đại. Nếu các nhà tư
tưởng thế kỷ XVIII c̣n xem nền dân trị là một
h́nh thức cai trị bên
cạnh các h́nh thức khác hoặc như một hoài niệm
về nền dân trị cổ đại, th́ Tocqueville hiểu
nền dân trị trước hết là một hiện tượng
xă hội phổ biến. Đặc điểm khu biệt
của xă hội dân chủ là sự b́nh đẳng của những điều kiện
(égalité des conditions). Ông hiểu đó là một tiến
tŕnh bảo đảm cương vị công dân và sự
b́nh đẳng về cơ hội cho mọi người.
Một cách lôgíc, chủ quyền của nhân dân và sự b́nh
đẳng về các quyền chính trị là thuộc về
“loại h́nh lư tưởng” của một “état politique” (thể chế chính trị) dân chủ.
Từ cách tiếp cận ấy, nhất là với sự
phân biệt giữa lĩnh vực xă hội và lĩnh vực
chính trị (état social/état politique), Tocqueville có căn cứ để
nhận diện và xác định thuộc tính “dân chủ” cho
cộng đồng nào đảm bảo được quyền
tham gia công khai, không hạn chế của mọi công dân vào
các vị trí kinh tế xă hội và chính trị. Như thế,
dân trị là “khái niệm giới hạn” để phân biệt
với các h́nh thức cai trị khác trong lịch sử.
Tocqueville thuộc
về những người không tin rằng bản thân nền
dân trị có thể giải quyết được hết
mọi vấn đề. Ở đây, theo lối nói quen
thuộc hiện nay, ông thấy cả mặt sáng lẫn mặt
tối, thấy thách thức, nguy cơ lẫn cơ hội.
Theo ông, nền dân trị hứa hẹn được những
ǵ cho tương lai là tùy thuộc vào yếu tố quyết định: tinh thần
trách nhiệm của những người công dân đối
với cộng đồng. Từ đó, ông đặt ra
hàng loạt vấn đề đang c̣n nóng bỏng tính thời
sự:
-
nên mạnh dạn thực hiện nền
dân trị đến đâu?
-
làm sao hợp nhất sự tham gia của
toàn dân với thể chế chính trị đại diện?
-
xă hội hiện đại đứng
trước nguy cơ nào khi sự thờ ơ, tính phi chính
trị và xu hướng quay trở về với cuộc sống
riêng tư (ông gọi là “chủ nghĩa cá nhân”) ngày càng gia tăng
trong nhân dân?
-
làm sao cân đối được mối
quan hệ giữa nhà nước và kinh tế, giữa cá
nhân và xă hội; hay nói cách khác, giữa tự do và b́nh đẳng?
Các câu hỏi
đầy thách thức ấy đang là mối bận tâm
hàng đầu của nhiều nhà lư luận chính trị hiện
nay trên thế giới, chẳng hạn nơi John Rawls,
Norberto Bobbio và Jürgen Habermas…
Tocqueville
c̣n là kẻ “đồng hành” với chúng ta ngày nay khi ông sớm
nhận ra điểm cốt tử của nền dân trị.
Ông phơi bày tính bất
định vốn là đặc thù của lư tưởng
dân chủ. Nền dân trị không thể “tự xác tín” về
chính ḿnh, đó là điểm yếu lớn nhất của
nó. Tách rời khỏi mọi trật tự “siêu việt”
(chẳng hạn: “mệnh trời” v.v…) theo quan niệm truyền
thống, nó thiếu những chuẩn mực, những thước
đo để phân biệt đúng sai, tốt xấu. Định
đề về chủ quyền của nhân dân và nguyên
tắc về đa số không đủ để mang lại
thẩm quyền về luân lư, đạo đức. V́ thế,
theo ông, nền dân trị buộc phải dựa vào những
giới hạn và những quy tắc từ bên ngoài đưa
vào. Tất nhiên, Tocqueville chưa h́nh dung như chúng ta ngày
nay rằng tính bất định, sự bất đồng
thuận, những mâu thuẫn là “thân phận” tự nhiên của
một xă hội dân chủ. Nhưng, chính từ cách nh́n ấy
của ông mà nhiều nhà tư tưởng ngày nay – như
Claude Lefort
– xem sự bất lực của nền dân trị hiện
đại trong việc “tự khẳng định” chính
ḿnh là một trong các nguyên nhân chủ yếu có thể khiến
nền dân trị bị trượt dài vào nền độc
tài. Người lănh đạo độc tài và mị dân,
các hệ tư tưởng toàn trị và toàn thống dễ
dàng tự cho ḿnh có sứ mệnh và thẩm quyền mang lại
“lối thoát” cho nền dân trị với cái giá mà nhân dân phải
trả trong “thời đại của những cực đoan”
ở thế kỷ XX (Eric Hobsbawm) vượt khỏi cả
sức tưởng tượng của Tocqueville!
Ông cũng
là một tác giả đặc biệt đáng tham khảo –
nhất là với các quốc gia đang trong tiến tŕnh
chuyển đổi như các nước Đông Âu, các nước
thuộc thế giới thứ ba – khi ông xét tiến tŕnh chuyển đổi sang nền
dân trị từ cả hai chiều. Trong tác phẩm của
ông, ta thấy sự quyện chặt giữa quá khứ, hiện
tại và tương lai như một ḍng liên tục, và
theo ông, nhận thức đầy đủ về điều
ấy là tiền đề cho sự chuyển đổi
thành công. Không một xă hội nào có thể ra đời từ
khoảng không, cắt rời với nguồn cội. Với
riêng ông, nền dân trị ở phương Tây, dù muốn
hay không, cũng phải kế thừa – và phải biết
kế thừa một cách thông minh – di sản của các xă hội
trước đó, thể hiện trong các đề nghị
của ông mà ta sẽ đề cập đến sau. Chính ở
đây cần phải học tập lịch sử để
tránh và không lặp lại những sai lầm của quá khứ.
Từ kinh
nghiệm lịch sử của riêng ḿnh, Tocqueville biết rằng
sự thành công của tiến tŕnh chuyển đổi chỉ
mới là bước đi đầu tiên. Xă hội hiện
đại ẩn chứa trong ḷng nó một tính nước
đôi: có thể phát triển lành mạnh, tốt đẹp
mà cũng có thể rơi trở lại vào chế độ
chuyên chế. Ông không nh́n nguy cơ này chủ yếu ở mặt
đời sống vật chất – cơ chế dân chủ
dù sao cũng đảm bảo tối thiểu cho sự thịnh
vượng và ổn định –, trái lại, ông có cái nh́n
khá lo âu, thậm chí bi quan về bản thân sản phẩm của
thời đại: “homo
democraticus”/“homme démocratique”: “con người dân chủ”.
Con người ấy dễ dàng trở thành nô lệ cho sự
phồn vinh và sẵn sàng hy sinh các lư tưởng tự do của
ḿnh cũng như nhường hết mọi công việc
công cộng cho sự quản lư của nhà nước miễn
là sự phồn vinh ấy được đảm bảo.
Điều ông lo ngại cho tương lai không phải là cơ
chế áp bức thô bạo và trắng trợn mà là nguy cơ
tiềm tàng của việc tự nô lệ hóa, của “chế
độ chuyên chế mềm”. Yêu sách hưởng thụ
vật chất vô độ đi liền với sự bất
lực của hành động chính trị nơi người
công dân tất yếu dẫn đến một sự “quá tải”
của nhà nước mà sau này được Niklas Luhman xem
là đặc điểm bản chất của nền dân
trị. Do đó, đóng góp lớn của “khoa học chính
trị mới mẻ” của Tocqueville là không chỉ nghiên cứu
nền dân trị như là định
chế mà c̣n cả như là lối
sống đặc thù. Vấn đề không chỉ ở
thể thức bầu cử và việc lập hiến, lập
pháp mà c̣n ở tư tưởng, t́nh cảm, tập quán và
thói quen của “homme démocratique”, nói gọn, ở “lối sống
dân chủ”. Ngày nay, các ư kiến và quan niệm của ông có
thể thu gọn vào khái niệm: xă hội dân sự. Theo ông, những quyền tham
gia của người dân mà mọi hiến pháp dân chủ đều
cam kết chỉ có thể trở thành hiện thực
trong một nền “văn hóa chính trị” sống động.
Nền dân trị hiện đại không thể vận
hành tốt mà không có những “đức tính của người
công dân”. Những “đức tính” này không được h́nh
thành một cách trừu tượng mà đ̣i hỏi thực
tiễn cụ thể. Dù các định chế quan trọng
đến mức nào đi nữa, th́ chính các tập tục mới có thể
củng cố và nuôi dưỡng lâu dài nền dân trị. Ở
nước Mỹ, ông nhận ra một cộng đồng
trong đó từ cấp địa phương cho đến
cấp liên bang luôn có thói quen giải quyết các công việc
của ḿnh một cách tự chủ trước khi cần
đến vai tṛ phụ trợ của nhà nước. Tuy ông
biết rằng không thể bê nguyên xi mô h́nh “civic involvement”
(sự dấn thân dân sự) từ một nền dân trị
phát triển một cách “tự nhiên” do đặc thù của
nước Mỹ vào xă hội hiện đại đầy
xung đột ở Châu Âu và vào nước Pháp của ông, nhưng
nhiều phát hiện và gợi ư của ông vẫn c̣n giữ
nguyên giá trị cho nhiều nước khác tham khảo. Trước
khi t́m hiểu sâu hơn về các kinh nghiệm “đi một
ngày đàng học một sàng khôn” của ông được
kết tinh trong tác phẩm, ta thử làm quen với tác giả
của nó, một mẫu điển h́nh của người
trí thức trung thực, luôn băn khoăn, thao thức trên
con đường gian khổ đi t́m một quê hương
tinh thần giữa hai thế giới.
3. A. d. Tocqueville sinh năm
1805, vào thời gian Napoléon đang ở trên đỉnh cao
quyền lực. Xuất thân từ một gia đ́nh quư tộc
vùng Normandie, ông trải nghiệm hết những bi kịch
và sự bế tắc của nó. Cha mẹ ông suưt chết
trước cơn băo táp cách mạng; ông nội ông bị
lên đoạn đầu đài vào năm 1794. Do chịu ảnh
hưởng bảo thủ của gia đ́nh, cậu bé Tocqueville
đă biết ủng hộ Hiến pháp năm 1814 v́ hy vọng
vào một sự điều ḥa giữa tiến bộ và trật
tự, giữa di sản cách mạng và nền cựu quân
chủ. Nhưng, khi thấy các nguyên tắc ấy chỉ nằm
trên giấy, ông thất vọng và từ đó, sớm xa rời
giới lập pháp.
Trong đời
sống riêng, ông cũng bị giằng co trước
ảnh hưởng của gia đ́nh. Chức vụ
trợ lư thẩm phán vào năm 1827 sau khi tốt nghiệp
trường luật không làm ông hài ḷng, trong khi tham vọng
chính trị của ông khó bề thực hiện: theo luật
mới, ông phải chờ đến 18 năm sau mới có
hy vọng tham gia hoạt động chính trị. Ông cũng
đành phải chia tay với mối t́nh đầu v́ người
bạn gái xuất thân từ giới b́nh dân, không “môn đăng
hộ đối” và đă phải giữ kín mối quan hệ
với người t́nh thứ hai.
Nền quân
chủ lập hiến năm 1830 do giới tư sản
lănh đạo cũng không hứa hẹn mang lại điều
ǵ tốt đẹp cho một người xuất thân quư
tộc như ông. Lối thoát ra khỏi t́nh cảnh bế
tắc ấy là khi ông – cùng với người bạn là
Gustave de Beaumont – được Bộ Tư pháp giao nhiệm
vụ nghiên cứu hệ thống thi hành án ở Mỹ. Đối
với cả hai, lư do chính thức của chuyến đi
sang Mỹ chỉ là cái cớ để có dịp t́m hiểu
toàn diện hệ thống chính trị và xă hội ở đó.
Ngay từ 1825, ông đă quan tâm đến nền dân trị
non trẻ ở Mỹ. Trong các năm 1828/30, ông đă hăng
say tham dự các khóa giảng về lịch sử hiện đại
của François Guizot tại đại học Sorbonne. Trước
khi lên đường, ông đă tin chắc vào sự thắng
lợi không thể tránh khỏi của nền dân trị, tức
của sự b́nh đẳng, ngay cả ở Châu Âu. Chuyến
đi Mỹ chỉ giúp ông có thêm căn cứ thực tế
để chứng minh linh cảm chính trị và trực
giác lư thuyết rằng: tương lai của cựu lục
địa sẽ là những ǵ đang diễn ra ở bên
kia bờ đại dương!
Ông tập
hợp những quan sát ấy trong tập I của bộ
sách Về nền dân trị
ở Mỹ, công bố năm 1835; tập I thành công vang
dội và mang lại uy tín lẫn vinh dự cho ông từ giới
học thuật chuyên nghiệp. Năm 1838, ông được
kết nạp vào “Viện hàn lâm các khoa học nhân văn và
chính trị” (Académie des Sciences Morales et Politiques); năm 1841, được
bầu vào Viện Hàn lâm Pháp trứ danh (Académie française). Với
uy tín đang lên, ông mạnh dạn kết hôn với người
bạn t́nh lâu năm, bất chấp sự phản đối
của gia đ́nh để thực hiện một cuộc
“cách mạng dân chủ” nho nhỏ trong đời sống
riêng tư!
Năm 1840,
ông công bố tập II của bộ sách. Tập II được
viết trừu tượng hơn, không bàn nhiều về
xă hội Mỹ nữa mà về “loại h́nh lư
tưởng” của một nền dân trị nói chung. Trước
không khí đầy khủng hoảng của quê nhà, giọng
điệu của tập II trở nên bi quan hơn, mặc
dù nơi đó ông gói ghém nhiều suy tưởng tâm huyết
nhất của ḿnh. Tập II không hợp “khẩu vị”
quen thuộc của người đọc Mỹ, và cũng
khó nuốt đối với người đọc Pháp;
sách bán không chạy và ông bắt đầu thấy khó khăn
khi cầm bút.
Việc ông
quay trở lại với tham vọng chính trị không hẳn
v́ lư do đó, bởi ông đă theo đuổi nó từ thời
trẻ và ngay trước khi in tập II, ông đă được
cử tri vùng Valogue quê hương cử vào viện dân biểu.
Thành công lớn hơn là ở thời Đệ nhị Cộng
ḥa khi ông được bầu vào Quốc hội và tham gia
tích cực vào việc soạn thảo Hiến pháp 1848. Năm
sau, ông được cử làm Bộ trưởng ngoại
giao của nội các Odilon-Barrot. Nhưng, nội các ấy
chỉ đứng vững được vài tháng. Sau cuộc
đảo chính của Louis Napoléon vào tháng 12.1851, ông rút lui hẳn
khỏi chính trị và cương quyết không ủng hộ
hay hợp tác với Đệ nhị đế chế.
Trong Hồi Kư (công bố năm
1893 sau khi mọi nhân vật có liên quan đă qua đời),
ông kể rơ về những suy nghĩ của ḿnh trong những
năm tháng căng thẳng ấy.
Tocqueville lại
quay trở về với công việc lư thuyết. Năm
1852, ông bắt tay vào công tŕnh lớn thứ hai: Chế độ cũ và cách
mạng/L’Ancien Régime et la révolution (công bố năm 1856).
Trong tác phẩm này, ông dùng mô h́nh lịch sử để
phân tích hiện tại. Ông cố chứng minh rằng cách mạng
không phải là một sự cắt đứt với quá
khứ, trái lại, chỉ hoàn tất sự phát triển đă
có sẵn trong ḷng “chế độ cũ”, gây nên cuộc
tranh luận lớn về vai tṛ của bản thân cuộc
Cách mạng Pháp 1789. Ông định triển khai công việc
nghiên cứu này xa hơn nữa, nhưng cái chết đột
ngột vào ngày 16.04.1859 đă không cho phép ông hoàn tất dự
định.
4. Người
đọc không khỏi đặt câu hỏi: liệu một
trí thức quư tộc gắn bó với chế độ
quân chủ có thể có một đánh giá khách quan về nền
dân trị? Bản thân ông không che dấu vấn đề
này, trái lại, c̣n cho rằng chính v́ nguồn gốc xuất thân mà ông càng phải
khách quan hơn. Trong thư gửi cho người bạn và
đồng thời là người dịch tác phẩm của
ông sang tiếng Anh là Henry Reeve, ông tâm sự: “Người ta
thường trách tôi có thành kiến quư tộc hoặc dân chủ.
Tôi ắt sẽ là như thế nếu tôi được sinh
ra ở một thời đại khác hay trong một nước
khác. Tuy nhiên, chính xuất thân ngẫu nhiên của tôi khiến
tôi dễ dàng tránh được cả hai. Tôi sinh ra vào lúc
kết thúc một cuộc cách mạng lâu dài, khi trật tự
cũ đă đổ vỡ, c̣n trật tự mới chưa
bền vững. Nền quư tộc trị đă chết khi
tôi chào đời, c̣n nền dân trị chưa tồn tại.
Bản năng của tôi không thể buộc tôi gắn với
ảo tưởng nào trong cả hai cả”.
Tuy nhiên, ông thú nhận sự giằng xé nội tâm: khối
óc chấp nhận nền dân trị nhưng trái tim c̣n lưu
luyến với quá khứ vàng son đă suy tàn. Dưới nhan
đề Mon instinct, mes opinions/Ḷng
tôi và ư kiến của tôi, ông nói thẳng: “Về trí óc,
tôi đánh giá cao các định chế dân chủ, nhưng từ
con tim, tôi là một nhà quư tộc, có nghĩa là: tôi khinh rẻ
và sợ hăi quần chúng. Tôi yêu tự do, luật pháp, nhưng
không thích dân chủ. Đó là đáy ḷng tôi”.
V́ thế,
Tocqueville phân tích lạnh lùng và phê phán thẳng tay nền dân
trị mới mẻ tưởng như một tác giả
“phản động”. Ông biết rằng tác phẩm của
ông có thể bị hiểu theo hướng đó. V́ thế,
trong Lời nói đầu của tập II, ông bàn về “những
lời thường quá cứng rắn” của ông khi mô tả
hệ thống dân chủ. Khác với một kẻ địch
thù khôn khéo giữ im lặng, hoặc một chiến sĩ
cuồng nhiệt xiển dương nền dân trị thường
chỉ thấy mặt tích cực, ông – với tư cách là
người bạn chân chính – không muốn che dấu sự
thật đối với nền dân trị (tập II, tr.
6).
Không nhận
thức rơ ưu khuyết của nền dân trị th́ không
thể bảo vệ ưu điểm và khắc phục
khuyết điểm của nó. Thế đứng của
ông rất rơ ràng: là một trí thức quư tộc, ông chấp
nhận nền dân trị như một thực tế lịch
sử và t́m cách tạo ra những ǵ tốt đẹp nhất
từ nó. Thế đứng ấy cho phép ông tiếp cận
vấn đề từ cả hai hướng: một mặt,
ông khắc phục được cách nh́n cố hữu của
các bậc cha đẻ tinh thần cho nền dân trị ở
Mỹ như J. Locke và C. Montesquieu quen xem nước Mỹ
là kẻ đến sau và chỉ có thể lặp lại lịch
sử văn minh của Châu Âu. Theo ông, những người
di dân từ cựu lục địa thực ra đă t́m được
ở Châu Mỹ những điều kiện cho phép họ là
những người đầu tiên hiện thực hóa các
ư tưởng chính trị-xă hội của thời Khai sáng vốn
bị các thế hệ cha ông họ ḱm hăm. Người di
dân trên mảnh đất mới thực hiện những
ǵ “các trí thức Châu Âu đă phác họa; họ thực hiện
trên thực tế những ǵ chúng ta mới mơ tưởng
mà thôi” (“Chế độ cũ và cách mạng”, tr. 149). Nền
dân trị “tự nhiên” ở Mỹ, qua đó, không c̣n là bản
sao mà trở thành kiểu mẫu và kinh nghiệm cho Châu Âu học
hỏi. Mặt khác, từ chỗ có thể so sánh, cân nhắc
“hơn thiệt, được mất” với trật tự
cũ của Châu Âu quư tộc, Tocqueville sớm nhận ra những
nguy cơ tiềm tàng của mô h́nh xă hội mới. Để
khắc phục chúng, nền dân trị, theo ông, cần học
tập quá khứ, không phải để phục hồi nó
một cách vô vọng mà để t́m sự cân đối mới
cho các chức năng xă hội và chính trị. Hai cách tiếp
cận ấy sẽ là tinh thần chủ đạo cho hai
tập của bộ sách.
5. Vậy phải chăng
có “hai” nền dân trị hoàn toàn khác nhau được tŕnh
bày trong hai tập của bộ sách?
Thật ra, như đă nói qua, Tocqueville dành hai tập sách để
phân biệt việc t́m hiểu t́nh h́nh cụ thể ở
Mỹ với việc trầm tư về nền dân trị
như một “loại h́nh lư tưởng" (Idealtypus) của
đối tượng nghiên cứu. Khuôn khổ bài viết
chỉ cho phép giới thiệu sơ qua nội dung chủ
yếu của hai tập sách.
Thời
gian “du khảo” của Tocqueville ở Mỹ kéo dài 9 tháng (từ
11.05.1831-20.02.1832). Cùng với Beaumont,
ông dừng lâu ở New York trước
khi đi lên phía bắc tới biên giới Canada. Sau đó ông đi về
bờ biển phía đông đến Boston,
Philadelphia và Baltimore. Rồi cả hai xuôi về
Pittsburgh, qua Ohio
đến tận Cincinnati, Louisville, Memphis.
Đáp tàu thủy trên sông Mississippi đến
New Orleans. Từ
đó hai ông quay về, đi ngang qua Washington
(có gặp tổng thống Jackson) và
trở lại New York.
Hai ông không chỉ thực hiện sứ mệnh chính thức
là tham quan nhiều trại giam mà c̣n lưu tâm quan sát và tập
hợp tư liệu về xă hội Mỹ. Ư định
từ đầu là t́m hiểu chi tiết và khoa học về
société américaine (xă hội
Mỹ) “mà ai cũng nói nhưng chẳng ai biết” (Toàn tập, bản Beaumont, V, tr. 414). Cả
hai định viết chung, nhưng rồi Beaumont tập trung vào vấn đề
chế độ nô lệ (tiểu thuyết: Marie ou l’esclavage aux Etats-Unies/Marie
hay t́nh trạng nô lệ ở Mỹ). Về lại Âu
Châu, Tocqueville tham khảo thêm nhiều tư liệu, hầu
như là “một chuyến du hành thứ hai về tinh thần”
trước khi công bố tập I.
Mục đích
của tập I (1835) là “cho thấy điều ǵ đă tạo
nên một nước dân chủ trong thời đại ngày
nay của chúng ta”, được minh họa bằng “bức
tranh chính xác” về “thái độ tinh thần của con
người” (Toàn tập, V,
tr. 427) nhằm biện minh cho nền dân trị trước
công luận đang phân hóa ở Châu Âu để biết “ta
nên hy vọng hoặc nên lo ngại điều ǵ nơi nền
dân trị” (tập I, tr. 26). Trong thư gửi cho J. S. Mill,
6.1835,
Tocqueville không che dấu tham vọng làm “nhà dân chủ đích
thực để mang lại cho nhân dân sự trưởng
thành chính trị cần thiết hầu tự cai trị
chính ḿnh”. “Sứ mệnh giáo dục về nền dân trị”
(“mission to educate democracy”) của Tocqueville dựa trên sự
xác tín rằng: “cũng như người Mỹ, người
Âu Châu sớm muộn cũng sẽ đạt tới sự
b́nh đẳng hầu như hoàn toàn” (tập I, 25). Trong khi
các người đồng thời của ông hướng
tầm mắt sang nước Anh để t́m giải pháp
cho bước quá độ tiến lên xă hội hiện đại
của nước Pháp, th́ vị bá tước vùng Normandie
lại nh́n sang bên kia bờ Đại Tây dương. Ông
nh́n thấy ǵ?
Trước
khi đi vào tŕnh bày các định chế và tập tục ở
Mỹ được ông tận mắt chứng kiến,
ông dành hai chương đầu tiên để nhấn mạnh
đến “h́nh thái bên ngoài” và “t́nh h́nh xuất phát” đặc
thù của nước Mỹ. Luận điểm cơ bản
của ông: những người dân di cư Âu Châu đă t́m được
một lục địa mới c̣n “hoang vu” và “hầu như
một chiếc nôi c̣n trống rỗng cho một nước
lớn”. Nhớ đến học thuyết về tư hữu
của Locke, ông cho thấy người da đỏ bản
địa chỉ mới “cư trú” chứ chưa “chiếm
hữu” v́ chưa biết “khai phá” nó. Nói cách khác, những người
di dân văn minh từ cựu thế giới bắt gặp
một t́nh h́nh hy hữu cho phép họ “xây dựng xă hội
trên các cơ sở hoàn toàn mới”. T́nh h́nh xuất phát này
c̣n thuận lợi hơn cho việc phát triển một nền
dân trị “tự nhiên” nhờ yếu tố tín ngưỡng
Thanh giáo nhấn mạnh đến trách nhiệm riêng của
chủ thể lẫn tinh thần “khế ước xă hội”
thừa hưởng ở quê nhà. Đi vào chi tiết,
Tocqueville phân tích sâu các yếu tố chủ yếu sau đây
của nền dân trị Mỹ:
a) Trật tự xă hội của nước Mỹ
mang “tính dân chủ cao độ”:
- Các dị biệt giữa
miền bắc “tư sản” và miền nam “quư tộc” được
thủ tiêu nhờ luật thừa kế hiện đại.
Do việc xóa bỏ chế độ trưởng nam nên đất
đai được chia nhỏ, ngăn ngừa vĩnh viễn
sự phục hồi của chế độ quư tộc về
ruộng đất.
- Thương nghiệp và tài chính phát triển mang lại
sự thịnh vượng với “ṿng chu chuyển tài sản
có tốc độ nhanh không thể tưởng tượng
được”.
- Tŕnh độ văn
minh của người di cư gốc Châu Âu dễ dàng tạo
nên sự b́nh đẳng về tinh thần. Sự b́nh đẳng
về tài sản và tinh thần dẫn đến sự
b́nh đẳng về chính trị. Tóm lại, hoàn cảnh,
nguồn gốc, tŕnh độ văn hóa và nhất là tập
tục đă giúp cho việc thiết lập nền dân trị
mà không cần diễn ra tiến tŕnh cách mạng bạo lực
như ở Châu Âu. Do đó, cách mạng 1776 thực chất
là để giải phóng khỏi “ách áp bức của mẫu
quốc” hơn là của xă hội phong kiến. Giới địa
chủ ở miền Nam
và giới tư sản ở miền Bắc cùng sát cánh đấu
tranh cho sự độc lập chính trị. Nguyên tắc của
nền dân trị là sự b́nh
đẳng của những điều kiện được
thực hiện một cách ḥa b́nh, tự nhiên, không dẫn
đến các xung đột nội bộ.
b) Chủ quyền của nhân dân
- là “tín điều” xuất
phát cho “mọi nghiên cứu về luật pháp chính trị của
nuớc Mỹ”. Quyền lực không được dẫn
xuất từ một nguồn gốc nào nằm bên ngoài xă
hội cả; nền dân trị ấy thoát khỏi mọi
“khái niệm giả” vốn được các hệ thống
phản dân chủ khác ngụy trang. “Nhân dân làm chủ thế
giới chính trị cũng giống như Thượng
đế làm chủ vũ trụ. Nhân dân là nguồn gốc
và mục tiêu của mọi thứ; mọi thứ xuất
phát từ nhân dân và trở về lại với nhân dân”.
- Tocqueville đặc biệt
tán thưởng sự pha trộn khéo léo giữa dân chủ
trực tiếp và dân chủ đại diện. Trong khi ở
Pháp c̣n tranh căi gay gắt nên chọn sự tự do chính trị
kiểu cổ đại hoặc sự tự do riêng tư
kiểu hiện đại, th́ ở Mỹ, người ta
đă hợp nhất một cách tài t́nh: “Khi th́ nghị hội
làm luật giống như ở Athènes, khi th́ các dân biểu
được bầu tiến hành việc này dưới sự
giám sát gần như trực tiếp của nhân dân”. Sự
mô tả của Tocqueville về chủ quyền của nhân
dân đă dự đoán trước thông điệp Gettysburg nổi tiếng
của Abraham Lincohn, xem nền dân trị là “chính quyền của
dân, do dân và v́ dân”.
c) Theo ḍng lịch sử,
Tocqueville tŕnh bày hệ
thống chính trị của nước Mỹ như là
sự ra đời của các định chế dân chủ
từ dưới lên trên. Thoạt đầu là các đơn
vị nhỏ ở địa phương (Townships) tự
quản, phát triển dần thành các quận (Counties), thành
các tiểu bang và sau cùng thành liên bang. Ưu điểm của
nó là sự tập trung quyền lực quốc gia đi liền
với sự phi tập trung về quản lư. Ở cơ
sở, nhân dân thực thi quyền lực trực tiếp,
không cho phép sự đại diện, làm cho “quyền lực
hầu như được phân tán nhỏ để càng
có nhiều người tham gia vào công việc chung càng tốt”.
Ngược lại, ở tiểu bang và liên bang th́ áp dụng
nguyên tắc đại diện, đảm bảo sức
mạnh và chủ quyền ra bên ngoài. Dựa theo một ư tưởng
của Montesquieu, Tocqueville xem chế độ liên bang của
Hoa Kỳ là sự kết hợp thành công giữa an ninh đối
ngoại và tự do đối nội: “liên bang tự do và
hạnh phúc như một nước nhỏ, đồng
thời vẻ vang và hùng mạnh như một nước
lớn”. Tuy nhiên, nếu tổ chức hàng dọc của sự
phân quyền khá thành công th́ theo ông, cơ chế kiểm soát
hàng ngang của Hiến pháp Hoa Kỳ chưa đủ hiệu
nghiệm. Nh́n chung, khi bàn về hệ thống chính trị
(état politique) ở Mỹ, Tocqueville không xem nó là cái ǵ bất
biến, bởi “bên trên mọi định chế và bên
ngoài mọi h́nh thức c̣n có một chủ quyền tối
cao của nhân dân có thể xóa bỏ hay thay đổi nó dễ
dàng”.
d) Chủ quyền của
nhân dân kết tinh cụ thể bằng nhiều hiện tượng:
- trước hết là
nơi các chính đảng.
Các chính đảng chỉ là chỗ tập hợp những
“tay hiếu động tầm thường và vô hại”,
theo đuổi các lợi ích riêng, không có “tín điều
chính trị” nên không ưa thích những đảo lộn lớn.
Sự tranh căi chủ yếu xoay quanh những vấn đề
cá lẻ; nạn đảng tranh và tiếm quyền khó diễn
ra.
- nền tự do báo chí cũng thế.
Báo chí Mỹ cũng có “xu hướng khuấy đảo”
như ở Châu Âu nhưng không gây tác động phá
hoại. Kết luận của Tocqueville: quyền lực của
báo chí đối với công luận cần phải được
bảo vệ, bao lâu một quốc gia đă đạt tới
một mức độ trưởng thành chính trị nào đó.
Trong một nền dân trị với chủ quyền trong
tay nhân dân, việc kiểm duyệt báo chí là hoàn toàn phản
lôgíc.
- h́nh thức thứ ba
là hội đoàn chính trị,
tập hợp chung dưới khái niệm “Association” bao gồm
mọi sáng kiến công dân và “Lobbies”, gây ảnh hưởng
đến đời sống chính trị bên ngoài cơ cấu
quản lư phân quyền và các chính đảng. Đây là yếu
tố hết sức cần thiết trong một xă hội
dân chủ v́ ở đó không có những “tổ chức” tự
nhiên dựa trên nguồn gốc xuất thân (như xă hội
quư tộc) hay giai cấp. Do đó, hội đoàn là “con đê”
nhân tạo để tập hợp lực lượng ngăn
ngừa và đề kháng lại nguy cơ chuyên chế của
các chính đảng và các tập đoàn tài phiệt.
e) Tất nhiên, quyền
lực lớn nhất của nhân dân thể hiện qua quyền
phổ thông đầu
phiếu. Quyền này tất nhiên có mặt yếu là khó
lựa chọn được những nhà cầm quyền
tài giỏi nhất (do ḷng ganh tị và sự kém hiểu biết
của cử tri) cũng như dễ dàng phí phạm tài
nguyên và ngân sách để “kiếm phiếu”. Nhưng, nh́n
chung, chính quyền được bầu cử tự do
không phải lúc nào cũng dẫn đến sự vô chính
phủ, tham nhũng và lăng phí. Ông khen ngợi năng lực
cải cách và ư muốn thành thực của chính quyền dân
cử ở Mỹ biết lo đến “hạnh phúc của
số đông”.
f) Tuy nhiên, Tocqueville xem quyền lực tuyệt
đối của đa số (thoát thai từ chủ
quyền của nhân dân) là vấn đề số một của
nền dân trị Mỹ. Nguy cơ của một sự
“chuyên chế của đa số” đối với lợi
ích của thiểu số là nguy cơ thường trực.
Trong vấn đề này, ông đă gây ảnh hưởng mạnh
mẽ đến quan niệm tương tự của J.
S. Mill.
Theo ông, chính quyền dân chủ không yếu như người
ta thường nghĩ mà là “quá mạnh” và, khác với
Rousseau, ông xem quyền lực tuyệt đối của “ư
chí chung” (volonté générale) là “cái ǵ nguy hiểm và xấu từ
bản chất”. V́ thế, người công dân có quyền bất
tuân lệnh một đạo luật bất công nhân danh
“chủ quyền của con người” trên cả “chủ
quyền của nhân dân”, dù không hề phản đối rằng
đa số có “quyền ra lệnh”. Không có ǵ mâu thuẫn
khi xem đa số dân chủ là nguồn gốc của mọi
quyền lực, đồng thời phủ nhận rằng
nó “có quyền nhân danh chính quyền để muốn làm ǵ
th́ làm”.
Giải
pháp giảm nhẹ nguy cơ “chuyên chế của đa số”,
theo Tocqueville, là ở trong “tập tục” hơn là trong pháp
luật. Tuy sự quản lư phi tập trung có góp phần cho
cá nhân bớt bị bộ máy quan liêu đè nén, nhưng chính
“tinh thần lẽ phải” mới là đối trọng
trước quyền lực của đa số. Tinh thần
ấy bắt nguồn từ truyền thống “common law” tức
từ thẩm quyền và năng lực độc lập
của ṭa án như là đường dây nối liền trực
tiếp người công dân và luật pháp. Thêm vào đó là
quyền uy đạo lư của tôn giáo, ḱm hăm bớt xu hướng
bá quyền của đa số.
Cuối tập
I, Tocqueville rút ra một bảng tổng kết khá tích cực
về nền dân trị ở Mỹ trên nhiều phương
diện: cấu trúc chính trị, quyền uy tôn giáo, tinh thần
yêu nước, óc phê phán và “thực dụng” của người
Mỹ; tất cả góp phần duy tŕ sự cân bằng giữa
năng động và ổn định, giữa tiến bộ
và trật tự. Vị trí địa lư đặc biệt
của nước Mỹ cũng giúp cho nó dễ dàng hơn
trong việc bảo vệ nền độc lập và thi thố
chính sách đối ngoại. Ông dự đoán được
khả năng trở thành siêu cường của Mỹ,
nhưng c̣n quá sớm để có thể nhận diện đầy
đủ các biến thái và đặc điểm của một
siêu cường đế quốc chủ nghĩa về
sau này.
Tuy nhiên,
trong một phụ lục dài, ông cũng bàn đến các
nguy cơ khó tránh khỏi của nước Mỹ: vấn
đề nô lệ và xung đột chủng tộc (nhất
là với người da đen và da màu). Ông không t́m ra được
giải pháp cho hai vấn đề gai góc này và dự đoán
rằng chúng sẽ c̣n gây khó khăn lâu dài cho nước Mỹ.
Tóm lại,
với tập I, Tocqueville tin rằng nền dân trị ở
Mỹ, với các định chế của nó, có thể
nêu gương cho Châu Âu học hỏi, đồng thời,
theo tinh thần của Montesquieu, ông nhận thức rơ: các định
chế tốt nhất cho một quốc gia phụ thuộc
rất nhiều vào điều kiện xuất phát của
mỗi nước. Do đó, học tập nước Mỹ
là hiểu rằng những công dân của thế giới mới
này “không phải đă t́m ra được một h́nh thức
chính quyền duy nhất mà
nền dân trị có thể mang lại”. Chẳng hạn, chế
độ liên bang khó có thể áp dụng cho Châu Âu đương
thời gồm toàn những quốc gia thù địch nhau.
Nhưng, bài học lớn nhất trong chuyến “xuất dương”
này của ông là: phát hiện được “các điều
kiện nền tảng về luật pháp và tập tục”
có giá trị cho bất kỳ h́nh thức nào của nền
dân trị. Cho nên, trong thời gian ở Mỹ, ông “nh́n nhiều
hơn là chỉ nh́n nước Mỹ”, đó là nh́n “h́nh ảnh
của bản thân nền dân trị, của nỗ lực,
bản chất, những định kiến và những đam
mê của nó”. H́nh ảnh ấy gợi lên nhiều vấn đề
phải suy nghĩ được ông tŕnh bày trong tập II.
6. Tập II phát triển
những ǵ đă được đề cập một
cách mặc nhiên trong tập I, nhưng trừu tượng hơn
v́ nước Mỹ bây giờ chỉ c̣n là tư liệu
trực quan để ông nêu ra những phát biểu khái quát
về bản thân nền dân trị hiện đại, với
tất cả nỗ lực “khách quan, vô tư” của “một
người bạn chân chính”.
Tập II gồm
4 phần: ba phần đầu bàn về các ảnh hưởng
của tư duy, cảm xúc và hành động lên đời sống xă hội. Phần
cuối rút ra từ đó những ǵ tinh túy tác động đến
các định chế chính trị. “Khoa học chính trị”
(science politique) của Tocqueville dựa trên cấu trúc nền
tảng ấy, với sơ đồ sau:
Xă hội (état social)
|
|
Nhà nước (état politique)
|
1. Tinh thần
|
|
4. Tổ chức
chính trị
|
2. T́nh cảm
|
|
|
3. Thói
quen
|
|
|
Tâp tục
|
|
Định chế
|
Tinh thần,
t́nh cảm, thói quen (được Tocqueville gọi chung là “habits of the heart”/“các tập quán
của con tim”) – lấy nguyên tắc về sự b́nh đẳng làm yếu
tố chủ đạo – là chân dung của “con người
dân chủ” (homme démocratique) hiện đại. Trong chừng
mực đó, dường như ở tập II, Tocqueville
muốn giới thiệu cho người đọc một
“Xă hội học về sự
b́nh đẳng”. Cách nh́n vội vă thường xem Tocqueville
như là mô h́nh đối lập lại với Marx, khi Marx
xuất phát từ cơ sở hạ tầng kinh tế để
lư giải và dự đoán về sự đảo lộn
xă hội. Thật ra, Tocqueville chỉ dùng phương thức
nghiên cứu về “loại h́nh lư tưởng” (Idealtypus) để
so sánh nền dân trị với chính những giá trị nội tại của bản
thân nó nhằm rút ra những bài học, hơn là nhằm lư
giải nguyên nhân và dự đoán tương lai. Ông cũng
biết rơ rằng người ta có thể trách ông đă xem
“sự b́nh đẳng của những điều kiện”
là nguyên nhân duy nhất của
xă hội hiện đại. Để pḥng ngừa sự
hiểu lầm ấy, ngay đầu tập II, ông đă giới
ước rơ rệt khuôn khổ quy chiếu cho việc
nghiên cứu về nền dân trị của ḿnh: “Tôi phải
cảnh giác ngay người đọc trước sự
hiểu lầm rất bất lợi cho tôi (…) Rất nhiều
quan niệm, cảm xúc của thời đại chúng ta ra đời
từ những nguyên nhân không liên quan ǵ đến sự
b́nh đẳng hay thậm chí c̣n đối lập lại
với nó (…) Tôi ư thức rơ về tất cả những
nguyên nhân khác nhau này và về tầm quan trọng của
chúng, chỉ có điều việc nghiên cứu về chúng
không phải là đối tượng của tôi” (tập
II, Lời nói đầu).
Ta hăy thử
xem qua các phân tích của Tocqueville về ba phương diện
của “con người dân chủ hiện đại”: tinh
thần, t́nh cảm, thói quen và ảnh hưởng của
chúng lên việc h́nh thành các định chế chính trị.
a) Về tinh thần hay tư duy dân chủ: Trước
hết, Tocqueville nhấn mạnh đến vai tṛ lớn
lao của công luận. Trong điều
kiện của sự b́nh đẳng, việc “sẵn sàng
tin vào đám đông” liên tục tăng lên. Quyền uy của
những cá nhân riêng lẻ hay của các giai cấp giảm
dần tỷ lệ thuận với việc xóa bỏ các
khác biệt giữa những người công dân. Khả năng
sai lầm của “toàn dân” bị loại trừ về
nguyên tắc. Từ đó, ḷng tin vào các tín điều tôn
giáo cũng sẽ suy giảm. “Con người dân chủ”
không c̣n dễ dàng thừa nhận một quyền uy nào đứng
ở bên ngoài nhân loại b́nh đẳng.
Mặt
khác, Tocqueville cũng thấy “công luận” là công cụ nguy
hiểm, dễ dàng “lèo lái” tư duy và hành động của
con người. Tác động của sự b́nh đẳng
là khá nghịch lư: vừa mang lại nhiều ư tưởng
mới vừa tước đoạt chúng. Sự giải
phóng ban đầu khỏi cấu trúc phong kiến lại
có thể dẫn đến sự đè nén tự do tinh thần
do cấu trúc của công luận. Phân tích rất sớm của
Tocqueville về “đệ tứ quyền” gây sửng sốt
và nhiều tranh căi. Ông gây ảnh hưởng lớn đến
J. S. Mill, Gustave le Bon… bằng sự nhạy cảm khi ghi nhận
áp lực của số đông lên tư tưởng và cung
cách ứng xử của cá nhân, tiên báo “cái ṿng xoáy trôn ốc
của sự im lặng”.
Mặc dù rơ ràng ông đă đánh giá quá thấp tiềm lực
phê phán của công luận, nhưng nhận định sau
đây thật đáng suy nghĩ: trong chừng mực “con
người dân chủ” chỉ phát hiện bên cạnh ḿnh những
con người giống nhau, th́ “khó mà suy tưởng về
một bộ phận nào đó của nhân loại mà không đồng
thời bao trùm cái toàn bộ”. Mọi nhận thức cá nhân
đều có vẻ “áp dụng được cho mọi
người”. Thay v́ tư duy một cách dị biệt, th́
“sự b́nh đẳng về những điều kiện”
tạo ra một nhăn quan trừu tượng và đồng
nhất hóa. Tư duy không c̣n nắm bắt những con người
cụ thể nữa mà là “nhân loại” nói chung. Tocqueville
đă phát hiện một trong những “mâu thuẫn nội
tại” của nền dân trị. Trong khi thời đại
của sự b́nh đẳng giành được quyền
tự do ngôn luận, th́ chính công luận thường trở
thành quyền uy tinh thần duy nhất, tách rời với
những chủ thể và tự xác lập như một
quyền lực vô danh và vô hạn (xem thêm Sđd của
Claude Lefort).
Đi liền
với tính rập khuôn về tư duy là tŕnh độ trung b́nh, xoàng xĩnh của hoạt
động tinh thần. Khoa học không c̣n được hướng
dẫn bởi ḷng khao khát hiểu biết mà thay vào đó là
việc áp dụng nhanh chóng kiến thức vào đời sống
thị trường. Trong nghệ thuật, chất lượng
nhường chỗ cho số lượng, cái thẩm mỹ
nhường chỗ cho cái hữu ích. Trong văn
chương, người ta đi từ sự mô tả cái
lư tưởng và cái anh hùng sang mô tả cái “đời thường”
và những ǵ “hết sức con người”. Nh́n chung, theo
ông, chân trời tinh thần trong xă hội dân chủ bị
hạ thấp xuống, khiến cho nhà khoa học, nhà văn,
người nghệ sĩ được tôn vinh không v́ tài
năng cho bằng v́ khả năng sinh lợi của họ.
Trong tập I, ông đă đề cập đến tính
xoàng xĩnh về văn hóa, về việc nền dân trị
không khuyến khích những tài năng kiệt xuất. Năm
năm sau, ông vẫn cho rằng: tuy ḷng tin của xă hội
dân chủ vào khả năng hoàn thiện không giới hạn
của con người được chứng thực về
mặt tiến bộ vật chất-kỹ thuật, nhưng
khả năng phát huy “sự vĩ đại đích thực”
của con người bị hạn chế nghiêm trọng.
Sự b́nh đẳng – buộc mọi người phải
nỗ lực lao động để kiếm ăn – tuy
có nâng cao tŕnh độ văn hóa và giáo dục nói chung, nhưng
không c̣n có chỗ cho những tài năng lớn và toàn diện.
b) Về mặt xúc cảm trong nền dân trị,
theo Tocqueville, tất nhiên mặt chủ đạo là “t́nh
yêu” đối với sự công bằng hầu như là một
“bản năng thứ hai”. Xúc cảm ấy phản ảnh
rơ nhất trong sự săn
đuổi tiện nghi của toàn xă hội. “Sống bằng
nhau” trước hết có nghĩa là “mưu cầu sự
giàu có bằng những phương tiện giống nhau” hơn
là “thực thi những quyền chính trị ngang nhau”. Sự
b́nh đẳng tạo cơ hội cho mọi người
“mỗi ngày chọn một vài niềm vui”, khiến họ
bám chặt vào đó “như vào một tài sản quư giá nhất”.
Với
Tocqueville, nền dân trị có vẻ gần với lư tưởng
“công lợi nhiều nhất cho số đông lớn nhất”
của Jemery Bentham. Nếu “con người dân chủ” nỗ
lực chiếm hữu tối đa, th́ xă hội dân chủ
nỗ lực mang lại “hạnh phúc” cho số đông người
nhất. Nếu sự b́nh đẳng là dấu hiệu
tiêu biểu của nền dân trị, th́ việc săn đuổi
sự giàu có là dấu hiệu tiêu biểu của sự
b́nh đẳng. Từ đó, thái độ với lao động
cũng đổi khác. Mọi người - từ anh công
nhân đến ông nguyên thủ - đều lao động để
hưởng lương, kiếm tiền, nên sự dị
biệt về bản chất giữa lao động tự
do và lệ thuộc, cao cấp và thấp kém theo quan niệm
truyền thống không c̣n nữa. Nghề nào cũng vẻ
vang như nhau; việc làm giàu không c̣n bị chế nhạo
mà được tôn vinh thành mẫu mực.
Tuy nhiên, việc
săn đuổi sự giàu có vật chất là một ḷ
lửa thường trực. V́ sự giàu có không có ranh giới,
nên ngay cả người giàu nhất cũng không yên với
cái “restless mind” (cái dục tâm không nguôi) của
ḿnh. Hậu quả, theo Tocqueville, sẽ là một xă hội
của “chủ nghĩa cá nhân”. Ông hiểu từ này theo nghĩa
tiêu cực, tức sự vô cảm về chính trị của
người công dân, sự rút lui hoàn toàn vào cuộc sống
riêng tư. Mối dây liên đới xă hội giữa những
con người và giữa các thế hệ bị nền
dân trị phá vỡ và ai lo phận nấy. Sự “chuyên chế
của tính riêng tư” và “sự bất măn chính trị”, theo
ông, là các đặc điểm cực kỳ nguy hại của
xă hội hiện đại, có thể gây nên thảm họa
cho quyền tự do chính trị và dọn sẵn miếng đất
cho các chế độ chuyên chế.
c) Sau khi bàn về đời
sống tinh thần và t́nh cảm trong nền dân trị, ông
bàn về những tập
tục của nó. Ông hiểu “tập tục” là những
quy tắc và tập quán ứng xử trong xă hội, trong đời
sống gia đ́nh cũng như trong giáo dục. Luận
điểm xuất phát: sự b́nh đẳng về lối
sống và về cương vị xă hội làm cho những
tập tục trở nên “ôn ḥa” hơn so với các xă hội
bất công và tàn bạo trước đây. Người ta
chỉ thực sự có “t́nh cảm chia sẻ” với những
người giống như ḿnh. Chính “tính giống nhau”
(similarité) này là đặc điểm bản chất của
xă hội dân chủ, phân biệt hẳn với thời cổ
đại và phong kiến. Thời trước, người
ta không muốn “làm cho ḿnh giống kẻ khác”, c̣n thời
nay, cá nhân rất thích “đánh mất cá tính của ḿnh đi
để được là một với quần chúng phổ
biến”.
Tính giống
nhau làm nảy sinh h́nh thức mới trong việc thừa
nhận lẫn nhau: đồng nhất hóa với người
khác. Nhờ đó, quan hệ xă hội đơn giản hơn,
thoải mái hơn và cũng trực tiếp hơn. Nhưng,
theo ông, cái “toàn cục chính trị” lại là kẻ thua cuộc
trong tiến tŕnh này: “nền dân trị tháo lỏng những
xiềng xích xă hội, nhưng lại siết chặt mối
dây liên kết tự nhiên. Nó cột chặt bà con, bằng hữu
lại, đồng thời tách rời những người
công dân ra khỏi nhau”. Tính đơn điệu sẽ làm
chủ; “đam mê” duy nhất chỉ là đam mê làm giàu, và
h́nh ảnh ấy sẽ “sớm làm ta mệt mỏi” và dẫn
tới sự “tê liệt” về chính trị-xă hội. Quả
thật, áp lực “đồng phục hóa” của công luận
trong thời kỳ ổn định của nền dân trị
khiến không có triển vọng nào cho những đảo
lộn lớn hay những cuộc cách mạng xă hội. “Nền
ḥa b́nh vĩnh cửu” đầy mơ ước của
Kant tỏ ra không mấy hấp dẫn trước mắt
Tocqueville!.
d) Tinh thần, t́nh cảm,
tập quán của “état social” như thế sẽ ảnh hưởng
như thế nào đến các định chế chính trị
của “état politique”?
Kết quả
dễ thấy – theo Tocqueville lẫn J. S. Mill – là tác động
của tư duy “đồng phục” lên định chế
chính trị. V́ “cá nhân tỏ ra nhỏ hơn và xă hội tỏ
ra lớn hơn”, và “mỗi công dân – trở nên giống hệt
những người khác –, bị mất dạng trong đám
đông”, nên con người trong thời đại dân chủ
“rất dễ có tư tưởng về những ưu quyền
của xă hội và có quan niệm hết sức khiêm tốn
về những quyền của cá nhân”. Thật nghịch
lư: ḷng tin quá mức vào xă hội lại thoát thai từ t́nh
yêu và cuộc đấu tranh gian khổ trước đây
cho quyền tự do và tự trị của cá nhân. Theo ông, sự
tự trị ban đầu có nguy cơ bị đảo
ngược. “Về lâu dài, thật bí hiểm nhưng cũng
chắc chắn, nó sẽ hướng con người
đến sự nô lệ”.
Sự mất
tự do gắn liền với việc tâp trung các quyền
lực chính trị. Tiến tŕnh này là kết quả lôgíc của
lối tư duy “đồng phục”. Ư tưởng về
một quyền lực tập trung, điều khiển mọi
công dân theo những quy định thống nhất là ư thức
tự nhiên của “con người dân chủ”. Và ư tưởng
ấy về sự toàn quyền của nhà nước xuất
phát từ tâm thức yêu thích sự b́nh đẳng và mong muốn
được bảo hộ lợi ích kinh tế. Ở
Châu Âu, xu hướng tập trung hóa quyền lực hành
chính càng mạnh, v́ chính nhà nước trung ương đă
từng là kẻ chiến thắng trong cuộc đấu
tranh giữa quư tộc và tư sản. Tiến tŕnh công nghiệp
hóa và đô thị hóa càng cần đến vai tṛ bảo vệ
trật tự, ổn định và xây dựng cơ sở
hạ tầng của nhà nước.
Vậy, đâu
là chỗ bất lợi của bộ máy quản lư hiện
đại? Theo Tocqueville, đó là v́ nó quá mạnh và quá hiệu
quả! Nó khuất phục con người mà không cần
hành hạ ai cả. Nó hiếm khi “bắt ai phải làm ǵ,
trái lại, chỉ thường xuyên không để cho ai
làm ǵ hết”. Bộ máy tập trung “không phá hủy mà chỉ
ngăn cản; không khủng bố mà chỉ ḱm hăm; … không bẻ
găy ư chí tự do mà chỉ làm cho ṃn mỏi, cùn nhụt, khiến
nhân dân trở thành một bầy đàn những con vật
chăm chỉ và sợ hăi, xem nhà nước là người
chủ chăn”.
“Ông chủ”
và “thần dân” rất hiểu nhau, khiến “những người
bị cai trị thường xem sự bất lực của
ḿnh như là hành vi lương thiện”. “Nhân dân chấp nhận
sự dẫn dắt v́ cho rằng chính ḿnh đă bầu ra
những người chăn dắt. Người ta đồng
ư để được cột trói, v́ thấy rằng đâu
có ai hay có giai cấp nào làm việc đó mà chính bản thân
nhân dân là người nắm đầu dây trói”. Tác động
lừa mị và tha hóa của “chủ quyền của nhân
dân”, của “quyền tự do đầu phiếu” được
Tocqueville nhận diện qua một điển h́nh lịch
sử ở nước Pháp và ông sẽ gọi chung là chủ
nghĩa Bonapart.
7. Tocqueville không phải
là người duy nhất quan tâm đến vấn đề
tự do trong nền dân trị
đại diện. Trước ông có J. J. Rousseau, sau ông c̣n
có Max Weber và nhiều người khác nghiên cứu cặn kẽ
sự nối kết giữa tiến tŕnh dân chủ hóa và sự
thống trị của bộ máy hành chính chuyên nghiệp (Burocratie).
Tuy nhiên, ông nổi bật ở chỗ xét mối quan hệ
giữa “b́nh đẳng” và “tự do” như là vấn đề trung tâm của
tư tưởng chính trị, với hy vọng “ḥa giải”
được cả hai với nhau bằng các giải pháp đề nghị
để khắc phục các nhược điểm của
nền dân trị hiện đại. Đóng góp đặc
sắc này của ông c̣n gây nhiều tranh căi nhưng rất đáng
để t́m hiểu và thảo luận. Ông đặt vấn
đề tự do trong nền dân trị từ các nhận
định cơ bản sau đây:
-
Trước hết, “sự b́nh đẳng
của những điều kiện” là điểm xuất
phát và ḥn đá tảng trong học thuyết chính trị của
Tocqueville. Điều ấy không lạ v́ đây chính là thành
tựu lớn nhất của thời hiện đại.
Tiếc rằng ông không định nghĩa thật rơ về
khái niệm ấy, nhưng rơ ràng nó chống lại mọi
h́nh thức đặc quyền quư tộc và phong kiến.
Tuy nhiên, theo ông, quan niệm “hợp t́nh hợp lư” ấy về
sự b́nh đẳng không đồng nhất với việc
cào bằng mọi sự khác biệt. “Sự b́nh đẳng
tuyệt đối là một ảo ảnh” như một
ghi chú của ông vào đầu năm 1848 (xem Toàn tập III, 2, 742). Ông không
tin rằng sự b́nh đẳng sẽ xóa bỏ được
hết mọi sự phân biệt về giai cấp và đẳng
cấp trong xă hội dân chủ. Theo ông, nó chỉ xóa bỏ
đẳng cấp “tự nhiên” do nguồn gốc xuất
thân, c̣n giữ lại sự phân biệt đẳng cấp
do “tự nguyện”: “Về bản tính tự nhiên, không ai
phải phục tùng người khác hết cả mà chỉ
phục tùng tạm thời do tác động của khế
ước mà thôi. Trong khuôn khổ của hợp đồng
này th́ người này là chủ, người kia là kẻ làm
thuê, nhưng bên ngoài khuôn khổ ấy, họ là hai công dân,
hai con người như nhau” (tập II).
-
Ông xem sự b́nh đẳng đă được
thiết lập về mặt chính
trị thông qua các cuộc cách mạng tư sản ở
thế kỷ XVII và XVIII. Các nhà tự do chủ nghĩa và
xă hội chủ nghĩa tranh căi nhau về các h́nh thức
và các ranh giới của sự b́nh đẳng, nhưng đều
nhất trí ở chỗ nguyên tắc ấy là sự cắt
đứt triệt để với quá khứ. Tocqueville bổ
sung một nhận định: theo ông, ư niệm về b́nh
đẳng không chỉ bắt nguồn từ kho vũ khí
tư tưởng của thời Khai sáng mà c̣n bắt nguồn
xa hơn từ quan niệm của Kitô giáo về con người
như là vật thụ tạo và là h́nh ảnh của Thượng
đế, ngăn cấm mọi đặc quyền trước
người đồng loại. Theo ông, từ chỗ đánh
giá sự b́nh đẳng như là ư tưởng Kitô giáo, xă
hội Phương Tây hiện đại có được
tính “chính đáng” về đạo lư, thậm chí, xem việc
chống lại nền dân trị là “chống lại Thượng
đế”. Trong chừng mực đó, ông đưa ra luận
điểm riêng của ḿnh: không phải ngẫu nhiên mà cuộc
cách mạng dân chủ lại diễn ra trước hết
và chủ yếu ở “thế giới Kitô giáo”. C̣n các nền
“dân trị” cổ đại – vẫn phân biệt giữa
người tự do với người nô lệ và các dân
tộc “dă man” – là chưa xứng đáng với danh hiệu
này.
-
Nếu sự b́nh đẳng là “đặc
trưng của thời đại dân chủ” th́ sự tự
do lại từng có nhiều h́nh thức khác nhau trong các thời
đại trước đây. Ông phân biệt giữa tự
do quư tộc và tự do dân chủ. Trong trường hợp
trước, tự do biểu thị một đặc quyền,
nên có sự bất b́nh đẳng giữa người tự
do và người không tự do. Ngược lại, tự
do dân chủ lại phục
tùng nguyên tắc b́nh đẳng. Quyền tự quyết
của cá nhân chuyển hóa về mặt chính trị thành chủ
quyền của nhân dân. V́ thế, theo ông, khái niệm dân chủ
về sự tự do phổ biến là h́nh thức đúng
đắn và thích hợp của khái niệm “liberté” (tự do) trong thời
hiện đại. Ông đồng ư với Benjamin Constant rằng
các cơ sở tinh thần và xă hội của tự do dựa
trên sự bất b́nh đẳng – như nơi Monstesquieu –
đă trở nên lỗi thời. Do đó, nơi Tocqueville,
ta không thể bảo ông xem tự do là ưu tiên hơn b́nh đẳng.
Ngược lại, nếu xem trọng b́nh đẳng hơn
tự do cũng sẽ làm mất sự cân bằng giữa
hai lư tưởng ấy, và sẽ dẫn đến sự
khủng bố và áp bức.
-
Thế nhưng, trong xă hội hiện
đại, ta luôn chứng kiến sự tự do ngày càng bị
đe dọa trầm trọng. Theo ông, sự đồng nhất
giữa tự do và b́nh đẳng được J. J.
Rousseau đề xướng trong “Khế ước xă hội”
(Du Contrat social, 1745) chỉ có trong ư nghĩa trừu tượng
của một lư tưởng xa vời. Ông đă chứng
kiến biết bao h́nh thức b́nh đẳng mà không có tự
do. Ông thấy các dân tộc hiện đại tha thiết với
“sự b́nh đẳng trong tự do”, nhưng “họ không đạt
được điều này, v́ vẫn c̣n muốn sống
trong sự nô lệ”. Tuy nhiên, Tocqueville nhận rơ rằng
nguyên tắc b́nh đẳng và nguyên tắc tự do không phải
là một sự đối lập không điều ḥa được.
Tuy chúng luôn ở trong một mối quan hệ căng thẳng,
nhưng vẫn mở ra khả năng giải quyết.
Ông muốn “science politique” (khoa học chính trị) của
ḿnh góp phần bắt một nhịp cầu giữa hai lư
tưởng ấy.
-
Trước hết ông chia sẻ với
Thomas Hobbes sự cần thiết của một môn “khoa học
chính trị” mới mẻ. Nhưng, khác với Hobbes, khoa học
này không dùng để chống lại sự vô chính phủ
mà để ngăn ngừa các xu hướng chuyên chế
trong xă hội hiện đại. “Làm cho tự do xuất
hiện từ trong ḷng xă hội dân chủ” là một vấn
đề được đặt ra hoàn toàn mới mẻ:
“tôi chẳng thấy đâu có được điều ấy
cả” là kết luận của ông ở cuối tác phẩm.
Phương pháp tiếp cận của ông, như đă nói,
là phân biệt một cách cơ bản giữa trạng thái
xă hội (état social) và hệ thống chính trị (état
politique). Khoa học chính trị xoay quanh vấn đề
phương thức quan hệ giữa hai lănh vực này với
nhau. Ông tán thành luận điểm của Guizot rằng
“état politique” là biểu hiện và là chức năng của
“état social”. (Về sau, ông dành cho “état politique” vai tṛ lớn hơn.
Thay v́ là chức năng của
état social, ông xem cơ cấu chính trị là động lực của sự phát triển xă hội).
-
Cũng giống như với khái niệm
“b́nh đẳng”, ông không định nghĩa thật rơ về
“tự do”. Có lẽ v́ ông thấy khó “định nghĩa”
chúng một cách chặt chẽ. Thay vào đó, một mặt,
ông xem chúng như là các định đề luân lư tối hậu,
và mặt khác, mô tả các biểu hiện tâm lư cụ thể
của con người về chúng. Theo ông, trong thời hiện
đại, cái “amour d’égalité” (ḷng yêu b́nh đẳng) lấn
át cái “goût de liberté” (sở thích tự do). Cho nên, “khó mà làm cho
người ta hiểu được tự do khi họ
không hề cảm nhận về nó”, tức khi người
ta thiếu cái “mentalité” (năo trạng) tự do. V́ thế, giống
như ông đă đặt “định chế” đứng
sau tư duy, t́nh cảm và tập tục, ông cho rằng nền
dân trị tự do chỉ đạt đến được
khi luật pháp thấm nhuần một “tinh thần” nhất
định, một “văn hóa chính trị sống động”
nào đó, tương tự như cách đặt vấn đề
của Montesquieu.
-
Ông muốn tránh cả hai cách hiểu “cực
đoạn” về tự do: cách hiểu “quư tộc” viện
dẫn đến sự tồn tại của một quy
phạm có trước, xác định sự tự do hành động
của cá nhân một cách tiên nghiệm, lẫn cách hiểu
“cấp tiến” chỉ chấp nhận sự giới hạn
tự do ư chí bởi những điều kiện khách quan.
Ông chủ trương một thứ tự do “ôn ḥa, có chừng
mực, được đức tin, tập tục và luật
pháp củng cố”.
-
Về mặt chính trị, khái niệm về
tự do của Tocqueville muốn điều ḥa giữa hai
thái cực của Constant và Rousseau, hay nói cách khác, giữa
hai quan niệm khác nhau về tự do theo cách phân biệt
đă trở thành kinh điển của Isaiah Berlin: tự
do tiêu cực (thoát khỏi một
điều ǵ) và tự do tích
cực (để làm một điều ǵ).
Đó là sự đối lập giữa tự do cá nhân của
thời hiện đại và tự do chính trị của
thời cổ đại. Theo Tocqueville, tự do tiêu cực
kiểu B. Constant, tự giới hạn ở hạnh phúc
riêng tư và sự độc lập của cá nhân được
bảo đảm bởi định chế để
thoát khỏi sự cưỡng
chế của quyền lực nhà nước là không thể
có được nếu không có khái niệm tích cực của
việc tham dự về chính trị. Đồng thời, việc
từ bỏ hạnh phúc cá nhân và các quyền tự vệ
dựa theo định chế của Rousseau cũng không thỏa
đáng. Tocqueville thấy rằng, trong xă hội hiện đại,
tự do công dân của con người riêng tư được
bổ sung bằng những tập tục và định chế
của việc tham dự vào công việc chung. Sự tổng
hợp giữa tự do cổ đại và tự do hiện
đại vừa dựa trên Hiến pháp đảm bảo
cho mỗi công dân quyền tự trị cá nhân và quyền mưu
cầu hạnh phúc, vừa dựa vào các định chế
tự quản từ cơ sở để có thể tham
gia đầy đủ vào việc lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Theo ông, câu hỏi gay cấn giữa Constant và Rousseau là
nên chọn nền dân trị trực tiếp hay dân trị đại
diện dường như đă được trả lời
phần nào trên thực tế ở nước Mỹ. “Con
người dân chủ” hiện đại phải vừa
là “bourgeois”, vừa là “citoyen”; sự tự do phải vừa
là cá nhân vừa là chính trị; hệ thống phải vừa
tự do, vừa dân chủ. Nơi Tocqueville vẫn c̣n phảng
phất chút dư âm của người “hiệp sĩ quư tộc”:
theo ông, người công dân “tự do không chỉ biết sống
hợp pháp luật. Chỉ với ḷng nhiệt huyết, hiến
dâng, và, trong t́nh huống ngặt nghèo, sẵn sàng đấu
tranh và hy sinh thân ḿnh cho lư tưởng chính trị, “con người
dân chủ” mới xứng đáng với một sự hiện
hữu đích thực tự do.
-
Ở các chương cuối của bộ
sách, Tocqueville mới cụ thể hóa các đề nghị
của ḿnh từ những ư tưởng bàn bạc trước
đó. Ở đây, ông tập trung vào việc xây dựng
các định chế có tính
chức năng để giới hạn quyền lực
của nhà nước và bảo đảm sự tự do
của cá nhân. Các đề nghị của ông thật ra
không hoàn toàn mới mẻ, v́ ít nhiều đă có trong
Montesquieu và, thậm chí c̣n có thể gây hiểu lầm như
là nỗ lực phục hồi một số giá trị
“quư tộc” xưa cũ. Vượt qua định kiến
ấy, ta thấy Tocqueville rất nghiêm chính trong việc rút
kinh nghiệm của quá khứ để đề xuất
yêu cầu xây dựng “các
quyền lực trung gian” (pouvoir intermédiaire) giữa nhà nước
và nhân dân với “nhiều sự khôn ngoan, hiểu biết
và năng lực”. Các quyền lực trung gian ấy không ǵ
khác hơn là sức mạnh tổng hợp của những hội đoàn, của báo chí và nền tư pháp. Các định
chế trung gian này là “thành tŕ” để bảo vệ việc
tham gia của nhân dân vào công việc chung và là môi trường
để rèn luyện tinh thần tự do cho công dân. Nói
theo ngôn ngữ ngày nay, chúng góp phần vào việc gia tăng
“vốn xă hội”, tức
gia tăng ḷng tin cậy và sức cố kết trong nội
bộ nhân dân. Và v́ lẽ trong quan niệm của Tocqueville,
luật pháp và định chế cần đến tập
tục làm nền tảng, nên nền dân trị cũng phải
kế thừa các di sản tinh thần và luân lư c̣n hữu dụng
của quá khứ, đó là: ḷng yêu tự do, ḷng quư trọng
các giá trị tinh thần và biết đặt cái chung lên
trên cái riêng tư. Nhưng, tất cả rồi cũng đều
phải được đặt trên nguyên tắc tối
thượng của thời hiện đại: sự b́nh
đẳng. Ông kết luận bộ sách: … “sự b́nh đẳng
có lẽ ít cao cả hơn, nhưng công chính hơn, và chính
tính công chính này tạo nên sự lớn lao và đẹp đẽ
của nó”.
Tất
nhiên, sẽ thiếu sót nếu không nhắc đến hai đề
nghị khác của ông: một đề nghị quan trọng
về vai tṛ của tôn giáo như là “giềng mối” cho xă
hội dân sự,
và một đề nghị khác khá lạc lơng và khó chấp
nhận về việc phân chia c̣n sặc mùi “quư tộc” giữa
oikos (gia đ́nh) và polis (cộng đồng): gia đ́nh
dành cho phụ nữ để nam giới rảnh tay lo việc
cộng đồng. Ông đang vi phạm nguyên tắc b́nh đẳng
ở phần cụ thể nhất!
8. Thật khó phân loại
và xếp hạng Tocqueville trong lịch sử các nhà tư tưởng
chính trị. Ông tự nhận ḿnh là một “libéral d’une
espèce nouvelle” (nhà tự do kiểu mới) (xem Toàn tập Beaumont, V, 433). Tên gọi ấy
ngụ ư những ǵ, thật khó lư giải. Về hạt
nhân “tự do” trong tư tưởng của ông, ông không khác
mấy với những J. Locke, Adam Smith, Benjamin Constant hay J.
S. Mill. Nhưng, theo ông, ư chí cá nhân cũng phải tương
hợp với lợi ích “đích thực” của quốc
gia, trong chừng mực đó, ông lại tán thành Rousseau
trong việc biến nhà “bourgeois” (tư sản) ích kỷ
thành “citoyen” (công dân) hướng đến lợi ích chung.
Một mặt, là nhà tự do, ông thừa nhận thuyết
duy lư của phong trào Khai sáng, nhưng mặt khác lại
không quá tin cậy vào lư tính con người, nhất là loại
lư tính công cụ bắt chính trị và xă hội phải phục
vụ cho kinh tế. Ông mong muốn rằng: lư tính và bản
năng, tin và biết, b́nh đẳng và tự do phải được
kết hợp lại với nhau. Như vậy, nếu tóm
tắt một cách thô thiển, có thể cho rằng mục
tiêu của Tocqueville là: đặt quan niệm tự do của
Montesquieu trên nền tảng dân chủ của Rousseau và bảo
đảm an toàn cho mục tiêu ấy bằng sự hiền
minh của Pascal.
Ông không có cao vọng như Hegel, Marx hay August Comte để
khẳng định một sự vận động lịch
sử sẽ hướng đến một trật tự
nhất định trong tương lai. Viễn tượng
của ông chỉ là nhận biết “sự thật khách
quan” của thời hiện đại. Theo ông, ai nhắm
mắt trước những sự thật do nền dân trị
hiện nay tạo ra là “tụt hậu” về nhận thức.
Tuy nhiên, việc hướng đến cái ǵ “khách quan” được
ông giải thích bằng một khái niệm khá huyền hoặc:
sự thiên hựu (Providence). Tuy
nhiên, ông hiểu “thiên hựu” không phải là sự “giải
thoát” hay “cứu chuộc” nhân loại theo nghĩa mạt thế
luận (eschatologique), mà chỉ là sự hiện hữu của
những sự thật lịch sử mà con người không
thể từ khước, độc lập với quan điểm
cá nhân ḿnh. Do đó, khi ông gọi nền dân trị là “sản
phẩm của thiên hựu”, ông chỉ muốn nói rằng
xă hội hiện đại là một sự thật khách
quan như thế, vượt ra khỏi bất kỳ sự
lư giải chủ quan nào. Bạn ông, nhà kinh tế học
Anh Nassau William có lẽ hiểu ông hơn cả: “Tocqueville
xem nền dân trị như là một chủ nhân ông khiến
người ta phải kính sợ; người ta có thể
không yêu nó, nhưng phải biết vâng lời nó” (Toàn tập Gallimard, VI, 2, tr. 504
và tiếp).
Triết học
lịch sử của Tocqueville phân biệt các lănh vực
nào con người có thể can thiệp và kiến tạo
theo ư ḿnh, và những lĩnh vực nào ta không thể dự
đoán hết được mà chỉ có thể xem như
là những “đại lượng khả biến” để
định hướng cho ḿnh. Nếu hiểu chữ
“thiên hựu” như là “vận mệnh” của con
người, ta có thể mượn câu sau đây của
ông ở cuối tác phẩm để kết luận:
“Thiên hựu [hay Vận mệnh] đă tạo ra loài người
không phải hoàn toàn độc lập mà cũng không hoàn
toàn nô lệ. Đúng ra, nó vẽ một ṿng tṛn định
mệnh chung quanh mỗi con người khiến ta không thể
nào trốn thoát được, nhưng, bên trong các ranh giới
rộng răi ấy, con người là đầy uy lực và
tự do. Các dân tộc cũng thế”.
9. Việc “khó phân loại và xếp
hạng” Tocqueville càng khiến cho quá tŕnh đọc và thảo
luận về ông thêm phong phú và phức tạp. Hầu như
xu hướng nào cũng có thể t́m thấy nơi ông một
người “đồng minh”. Các đời tổng thống
Mỹ từ Eisenhower, Reagan cho đến Clinton luôn viện dẫn đến
“ông người Pháp” (Frenchman) này, v́ thấy ở Tocqueville
một thần tượng mang lại “bộ mặt” cho nước
Mỹ. Các tác giả bảo thủ ca tụng Tocqueville v́
ông đă xem tôn giáo như là đối trọng luân lư cho chủ
nghĩa đa nguyên hiện đại. Các nhà tự do chủ
nghĩa khen Tocqueville v́ đă cố bảo vệ sự tự
do trong điều kiện b́nh đẳng của xă hội.
Các nhà cộng ḥa tân-tự do th́ nhận ra chính ḿnh trong phê
phán của Tocqueville đối với bộ máy quản lư
hiện đại. Cánh tả chính trị lại nhấn mạnh
đến yếu tố tham gia của người công dân
trong học thuyết dân chủ của Tocqueville. Tất
nhiên, cũng không thiếu tiếng nói phê phán. Mạnh nhất
là Jonathan Breyce trong “The Predictions of Hamilton and de Tocqueville”
(1887) xem những phân tích của Tocqueville là hoàn toàn chủ
quan và “nghiệp dư”, v́ sự “đồng
thuận phổ biến” (consensus universalis) được
Tocqueville quan sát trong xă hội Mỹ từ lâu đă không c̣n
nữa trước sự phân hóa giai cấp, văn hóa và
làn sóng công nghiệp hóa và nhập cư ồ ạt. Mặc
khác, với sự ra đời của “siêu cường” Mỹ,
người dân Mỹ đă đủ tự tin và không cần
đến sự “thừa nhận” từ bên ngoài nữa.
Tư
tưởng của Tocqueville lại hồi sinh mạnh mẽ
trong thời kỳ “New Deal” (Chính sách kinh tế-xă hội mới
của Roosevelt năm 1932). Khởi đầu là nhờ G.
W. Pierson tái dựng lại chuyến đi của Tocqueville
(G. W. Pierson, Tocqueville and Beaumont
in America, New York 1938). Quyển sách được
đọc rộng răi v́ nhấn mạnh đến vị
trí hầu như ngoại lệ của nước Mỹ
và cả những khuyết điểm của nền dân trị.
Tocqueville trở thành nhà tiên tri cho thời đại “quần
chúng”, tiên báo đúng đắn những nguy cơ lẫn cơ
hội của thời hiện đại, đồng thời
như là “cha đẻ tinh thần” cho một nền dân trị
“tự do và thịnh vượng” của Mỹ đối
lập lại cơn đau đẻ khó khăn của
Châu Âu! Ngoài ra, ngành “Hoa Kỳ học” (Americanistics) mới ra
đời cũng có thể khai thác vô vàn chi tiết phong phú
về lịch sử, văn hóa và văn học từ tác
phẩm của Tocqueville.
Nhưng,
sự hồi sinh thực sự về Tocqueville diễn ra
vào hai thập niên cuối thế kỷ 20 và kéo dài đến
hiện nay chung quanh cuộc tranh luận về “chủ
nghĩa cộng đồng” (communitarism). Cùng với
Aristotle, Rousseau và Hegel, Tocqueville được tôn vinh như
là “spiritus rector” (“người
cha tinh thần”) của thuyết cộng đồng,
phê phán chủ nghĩa cá nhân và bộ máy hành chính phúc lợi,
ủng hộ cho các lực lượng gắn kết xă hội
trong nền dân trị. Tác phẩm nổi tiếng nhất
của chủ nghĩa này là của Bellah mang nhan đề
từ chính thuật ngữ của Tocqueville: “The habits of the
heart” (Các tập quán của con tim)
và tự xem “một cách mặc nhiên và minh nhiên” như là sự
“tiếp thu chi tiết và chú giải về Tocqueville” (Sđd,
tr. 349). Tác phẩm nổi tiếng khác là của Robert Putnam
đề ra khái niệm đang lừng danh hiện nay là “vốn xă hội” (Social capital),
theo đó một nền dân trị vận hành tốt là nhờ
vào “vốn xă hội” của những công dân, từ chức
năng mang lại sự tin cậy và cố kết có ư nghĩa
“sống c̣n” của những hội đoàn và sáng kiến
công dân.
Nếu
sự hồi sinh của Tocqueville trong thời kỳ “New
Deal” (các thập niên 30-40 của thế kỷ XX) là nhằm
để khắc phục các xung đột giai cấp th́
ngày nay, nó lại giúp cho người ta cảm nhận sâu sắc
hơn về sự bất đồng thuận, sự dị
biệt và tính hàm hồ, nước đôi của xă hội
“hậu-dân chủ” trong một cách đọc “hậu-hiện
đại” về Tocqueville để t́m cách “điều trị”.
Ở
Châu Âu, ảnh hưởng của Tocqueville cũng khá phong
phú. Ông cung cấp tư tưởng chủ đạo cho
“cuộc cải cách luật bầu cử” của Anh năm
1866/67 cũng như trong “Constituante” (Hiếp pháp) năm 1875
ở Pháp với chế độ lưỡng viện và sự
cân bằng giữa hành pháp và tư pháp.
Về
tư tưởng, như đă nói, ông gây ảnh hưởng
quyết định lên J. S. Mill, và chính J. S. Mill tự nhận
là người kế tục và có công truyền bá Tocqueville ở
Anh. Trong thời chiến tranh lạnh, F. von Hayet cố biến
Tocqueville thành đối thủ của Marx, nhưng chính
Raymond Aron
đă bác lại khi cho rằng mối lo lớn của
Tocqueville không phải là nhà nước nói chung mà là bộ
máy hành chính phúc lợi “gia trưởng”. (Aron muốn hiểu
Tocqueville như là nhà “tự do-bảo thủ” theo hướng
Montesquieu để chống lại chủ trương tái-phân
phối tài sản của Đảng xă hội Pháp đương
thời!). Ở Đức, từ Nietzsche cho đến T.
W. Adorno, J. Habermas, Tocqueville luôn là một nguồn tham khảo
và gợi hứng cho việc phê phán xă hội và văn hóa.
Tác giả nổi bật ở đây là Hannah Arendt.
Arendt nh́n thấy nơi Tocqueville các yếu tố tiền
phong trong việc chống lại chủ nghĩa chuyên chế
hiện đại, nhất là “chủ nghĩa chuyên chế
mềm” và ủng hộ hành động chính trị tích cực
của người công dân.
Trong
bối cảnh xung đột ngấm ngầm hiện nay
giữa “siêu cường” Mỹ và “Châu Âu già nua”, các h́nh ảnh
khác nhau về nước Mỹ và về nền dân trị
nói chung đang là đề tài nóng hổi và hấp dẫn được
tổng kết trong công tŕnh nổi tiếng của Claus
Offe
nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh của
“Frenchman”, của ông “Nguyễn Trường Tộ” đáng
yêu này của nước Pháp.
Bùi
Văn Nam Sơn
tháng
11. 2006