Lời
giới thiệu
Trần
Hữu Quang
Bùi
Văn Nam Sơn
Max Weber (tên đầy
đủ là Maximilian Carl Emil Weber) (1864-1920), nhà xă hội
học người Đức, là một trong số ít tác
giả có tầm ảnh hưởng lớn lao trong ngành xă
hội học, và được xem là một trong những
ông tổ của ngành khoa học xă hội này, bên cạnh
những tác giả tên tuổi như Karl Marx, Emile Durkheim,
Vilfredo Pareto, Georg Simmel... Một số
luận điểm và công tŕnh nghiên cứu của ông đă
và vẫn c̣n tiếp tục là đề tài gây tranh luận
trong giới học thuật, kể cả về phía
những người ngưỡng mộ lẫn về phía
những kẻ phê phán. Kể từ khi có bản
dịch đầu tiên sang tiếng Nga cho tới những
bản dịch sang tiếng Nhật sau này, các công tŕnh
của ông đă không ngừng gây ảnh hưởng
lớn lao tới các bước phát
triển của ngành xă hội học ở hầu như
tất cả các nước trên thế giới.
Nhưng Weber
không chỉ là một nhà xă hội học, ông c̣n
được biết đến như là một nhà
triết học, nhà luật học, nhà kinh tế học và
nhà sử học với những kiến thức và lư
giải uyên thâm. Khối lượng công tŕnh
đồ sộ của Weber có thể được
xếp làm bốn loại chính sau đây :
(a) các công tŕnh phương pháp luận trong khoa học xă
hội và triết học, (b) các công tŕnh sử học, (c)
các công tŕnh xă hội học về tôn giáo, và (d) công tŕnh quan
trọng nhất của Weber là quyển Wirtschaft und
Gesellschaft (Kinh tế và xă hội) (1922). Vốn được coi là
một trong những nhà sáng lập của bộ môn xă
hội học, Weber đă để lại những
dấu ấn đặc trưng về mặt tư duy
phương pháp luận xă hội học. Cũng giống
như Georg Simmel (1858-1918), một nhà triết học và xă
hội học Đức và cũng là bạn của ông, Max
Weber c̣n được coi là một nhà tư tưởng
về tính hiện đại (Modernität) – tính hiện
đại xét như là hệ quả của quá tŕnh lư tính
hóa (Rationalisierung) toàn bộ đời sống xă hội
trong quá tŕnh chuyển từ các xă hội cổ truyền
sang các xă hội tư bản chủ nghĩa hiện
đại ở châu Âu.
Theo nhà xă hội học
người Mỹ Talcott Parsons, người ta thấy
nổi lên hai mối bận tâm chính trong toàn bộ sự
nghiệp khoa học của Weber : đó
là mối bận tâm về phương pháp luận và
về việc xây dựng lư thuyết trong khoa học xă
hội, và mối bận tâm về việc làm sao hiểu
được cấu trúc xă hội và đặc
điểm phát triển của nền văn minh Tây phương
hiện đại.
Theo Weber, thuật ngữ
“xă hội học” thường bị sử dụng
một cách khá mơ hồ. Trong công tŕnh
Wirtschaft und Gesellschaft (Kinh tế và xă hội) (1922), ông
định nghĩa xă hội học là “một môn khoa
học nhằm thông hiểu bằng cách lư giải [deutend
verstehen] hành động xă hội và nhờ đó giải
thích một cách nhân quả sự diễn tiến và các tác
động của nó.”
Định nghĩa này đă nêu ra ba giai đoạn
trong lối tiếp cận của Weber :
thông hiểu (verstehen), lư giải (deuten), và giải thích
(erklären). Trước hết, chúng ta cần
hiểu hành động xă hội của các cá nhân bằng
cách chú tâm tới ư nghĩa mà họ nhắm đến –
với một thái độ phương pháp luận khách
quan và trung tính. Sau đó, để có
thể sắp xếp lại cái thực tại vô cùng
đa dạng, chúng ta cần áp dụng nguyên tắc xây
dựng “loại h́nh-lư tưởng” (Idealtypus) vốn có chức
năng chính là giúp chúng ta lư giải thực tại. Và cuối cùng, chúng ta cần đi t́m nguyên nhân
nhằm giải thích được thực tại –
đây vốn là mục tiêu tối hậu của ngành xă
hội học.
Đối
với Weber, xă hội học phải là một bộ môn
khoa học “thông hiểu” (verstehende Soziologie) về “hành
động xă hội” (soziales Handeln). Weber cho rằng
chỉ khi nào thông hiểu được các hành
động xă hội của các cá nhân, thông hiểu
được ư nghĩa mà các cá nhân gán cho hành động
của họ, th́ chúng ta mới có thể giải thích
được một cách thấu đáo các sự kiện
xă hội hay các hiện tượng tập thể. Quan niệm này đối lập với lập
trường phương pháp luận của nhà xă hội
học Pháp đương thời là Emile Durkheim (1859-1917),
vốn quan niệm xă hội học phải trở thành
“một ngành khoa học thực chứng” (science positive).
Chính v́ có lối tiếp
cận ấy mà Max Weber đă viết vào năm 1904-1905 công
tŕnh nổi tiếng mang tên là Die protestantische Ethik und der Geist
des Kapitalismus (Nền đạo đức Tin lành và tinh
thần của chủ nghĩa tư bản, từ đây
viết tắt là ĐĐTL). Đây không phải là một
công tŕnh nghiên cứu xă hội học về tôn giáo theo
đúng nghĩa của chuyên ngành này, v́ đối
tượng nghiên cứu của nó không phải là một
vấn đề tôn giáo, mà là mối quan hệ giữa
nền đạo đức Tin lành và “tinh thần” của
chủ nghĩa tư bản. Trong quyển sách này, Weber
khảo sát quan niệm đạo đức và động
cơ ứng xử của các cá nhân thuộc các giáo phái Tin
lành, cũng như ư nghĩa mà̀ họ gán cho hành
động xă hội của ḿnh, nhằm đi đến
giả thuyết cho rằng nền
đạo đức Tin lành có một mối liên hệ
“tương hợp chọn lọc” [Wahlverwandtschaften]
với “tinh thần” của chủ nghĩa tư bản,
và do vậy đă tạo ra một số động
lực tinh thần cần thiết và thuận lợi cho
sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
ở châu Âu.
Thực ra, Max Weber không
phải là người đầu tiên nêu câu hỏi
: đạo Tin lành có dính líu ǵ và ở mức
độ nào với chủ nghĩa tư bản ? Vào
đầu thế kỷ XX, đă có một loạt học
giả Đức bàn về vấn đề này (mà Weber
đều có quen biết) như Eberhard Gothein, Werner Sombart,
Georg Jellinek và Ernst Troeltsch. Cơ hội
trực tiếp khiến ông quan tâm đặc biệt
đến vấn đề là vào tháng 4-1903 nhân “Hội
nghị của sử gia Đức” (Deutscher Historikertag)
ở Heidelberg
và ông được nghe Georg Jellinek phê phán rất mạnh
bộ Chủ nghĩa tư bản hiện đại (Der
moderne Kapitalismus) (hai tập) (1902) của Werner Sombart. Trong quyển ĐĐTL này, Weber có ư muốn lư
giải chủ nghĩa tư bản khác với Sombart mà ông
đă nhiều lần phản bác. Cũng trong năm
1903, ông đă sang Hà Lan để t́m thêm
tư liệu về đạo Tin lành. Và ông đă phát
hiện mối quan hệ giữa “một số quan
niệm Puritanist [Thanh giáo]” và sự ra đời của
“tinh thần” của chủ nghĩa tư bản. Kết
quả sơ khởi này được ông nêu trong phần
đầu của công tŕnh nghiên cứu về “Roscher und
Knies und die logischen Probleme der historischen Nationalökonomie” (Roscher và
Knies và các vấn đề lôgic của khoa lịch sử
kinh tế quốc dân), trong đó ông đưa ra ư
tưởng như sau : “Một nghiên cứu sâu hơn có
lẽ sẽ cho thấy rằng sự phân ly này [giữa
nền kinh tế tư nhân và hoạt động công
cộng] có nguồn gốc từ một số quan niệm
Puritanist nhất định, vốn đă có ư nghĩa
rất lớn đối với 'sự ra đời
của tinh thần tư bản chủ nghĩa'.”
Ư tưởng đó h́nh
thành dần dần trong bài “Die 'Objektivität'
sozialwissenschaftlicher und sozialpolitischer Erkenntnis” (“Tính khách quan”
của nhận thức khoa học xă hội và chính
trị-xă hội) đăng vào năm 1904 trong Archiv für
Sozialwissenschaft und Sozialpolitik, tập XIX, tức một
tập trước khi công bố luận văn đầu
tiên của ĐĐTL (tập XX, 1904). Trong bài báo đó,
Weber nhấn mạnh đến sự cần thiết phải
“phác thảo một 'ư niệm' về nền văn hóa
tư bản chủ nghĩa” (“Zeichnung einer 'Idee' der
kapitalistischen Kultur”) cũng như đă đề cập
đến sự phân biệt rất cơ bản giữa
“giáo hội” (“Kirche”) và “giáo phái” (“Sekte”), và tầm quan
trọng của niềm tin vào sự tiền định (Prädestinationsglauben)
trong giáo thuyết của Calvin.
Trong số các
trước tác của Weber, chính quyển ĐĐTL này
đă làm cho giới nghiên cứu hao tốn nhiều
giấy mực nhất kể từ khi xuất bản
lần đầu cho tới ngày nay. Max Weber có lẽ
là một trong số rất ít tác giả xă hội học,
nếu không muốn nói là người duy nhất, đă coi
các nhân tố tôn giáo như có vai tṛ trung tâm trong sự h́nh
thành của các nền văn minh và đặc biệt là
trong sự ra đời của tư duy duy lư Tây
phương. Trong những công tŕnh nghiên cứu khác về
các tôn giáo lớn trên thế giới như Do Thái giáo cổ
đại, Lăo giáo, Khổng giáo, Ấn Độ giáo,
Phật giáo (mà ông bắt đầu nghiên cứu kể
từ năm 1911), ông đă t́m cách xác định vai tṛ
của các nền văn hóa tôn giáo và các nền đạo
đức tôn giáo với tư cách là những nhân tố
thúc đẩy hay ḱm hăm sự phát triển của nền
văn minh công nghiệp tư bản chủ nghĩa
cận đại.
Người ta có thể
đồng ư hay không đồng ư với giả thuyết
của ông về vai tṛ chủ yếu của nền
đạo đức khổ hạnh Tin lành trong sự sinh
thành của tư duy duy lư tư bản chủ nghĩa Tây
phương, nhưng đáng chú ư là trong lịch sử khoa
học xă hội hiện đại, hiếm có luận
đề nào gây ra những cuộc tranh căi sôi nổi kéo dài
hơn một thế kỷ và cho đến nay vẫn c̣n
kích thích mở ra nhiều cuộc nghiên cứu mới.
I. Chủ nghĩa tư bản
theo Weber
Xét về mặt nào đó,
có thể nhận định như một tác giả
rằng toàn bộ các công tŕnh của Max Weber đều mang
thao thức về vấn đề nguồn gốc
của chủ nghĩa tư bản : tại sao và làm
thế nào mà cuối cùng chủ nghĩa tư bản đă
được xác lập không chỉ như một mô h́nh
ứng xử kinh tế thống trị, thậm chí duy
nhất, mà nh́n chung c̣n là một mô h́nh văn hóa ghi dấu
ấn lên trên toàn bộ các lĩnh vực đời
sống xă hội, tinh thần cũng như vật
chất ở châu Âu cận đại và đương
đại ?
Đề cập tới
chủ nghĩa tư bản xét như là “sức mạnh
mang tính chất quyết định nhất trong
đời sống hiện đại của chúng ta” (tức là ở các xă hội Âu
châu), trong bài “Vorbemerkung” [“Lời nhận xét mở
đầu”] mà ông viết vào cuối năm 1919, Max Weber
nhấn mạnh rằng, trái ngược với quan
niệm ngộ nhận thông thường, chủ nghĩa
tư bản hoàn toàn không phải là hệ quả của
ḷng hám lợi hay máu tham tiền vốn là những hiện
tượng mà người ta có thể bắt gặp
ở bất cứ xă hội nào vào bất cứ thời
đại nào. Ông viết : “ ‘Ham muốn
chiếm hữu’, ham muốn ‘chạy theo doanh lợi’,
chạy theo tiền bạc, càng nhiều tiền càng
tốt, tự chúng không có liên quan ǵ tới chủ nghĩa
tư bản. Ham muốn ấy đă từng tồn
tại và đang tồn tại nơi những
người hầu bàn, người bác sĩ, người
đánh xe ngựa, người nghệ
sĩ, người đàn bà lẳng lơ, người công
chức tham ô nhũng lạm, người lính, kẻ
trộm cắp, kẻ viễn chinh, kẻ cờ bạc,
kẻ ăn mày. (…) Ḷng hám lợi vô độ không hề
giống chút nào với chủ nghĩa tư bản, và
lại càng không mảy may liên quan ǵ tới ‘tinh thần’
của nó.”
Ngược lại,
chủ nghĩa tư bản, theo Weber,
“chính là sự chế ngự [Bändigung], hay chí ít là sự
điều tiết bằng lư tính, cái bản năng phi lư
tính ấy”.
Weber h́nh dung chủ nghĩa tư
bản như là sự hiện diện và sự hoạt
động của những doanh nghiệp mang mục
đích làm ra lợi nhuận tối đa và có lối
tổ chức thuần lư đối với lao
động và sản xuất. Ông viết :
“Thật vậy, chủ nghĩa tư bản đồng
nghĩa với việc đi t́m lợi nhuận trong
những doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa liên
tục và thuần lư : đi t́m một lợi nhuận luôn
luôn tái sinh, đi t́m ‘tính sinh lợi’. V́ nó
buộc phải như thế. Khi mà toàn bộ nền
kinh tế nằm trong trật tự tư bản chủ
nghĩa, th́ bất cứ một doanh nghiệp tư
bản chủ nghĩa riêng lẻ nào không tự
định hướng ḿnh theo mục
tiêu đạt được tính sinh lợi th́ chỉ có
nước tiêu vong.”
B́nh luận
về điểm này, nhà xă hội học người Pháp
Raymond Aron (1905-1983) lưu ư thêm rằng, thực ra, ở
đây Weber coi đặc trưng cấu thành then chốt của
chủ nghĩa tư bản không phải là việc đi
t́m “lợi nhuận tối đa” (profit maximum), mà là
việc tích lũy bất tận (accumulation indéfinie). Từ xưa tới nay, thương nhân nào
cũng muốn kiếm lời tối đa qua mỗi
vụ buôn bán. Nhưng đối với nhà kinh doanh
tư bản chủ nghĩa th́ nét đặc trưng không
nằm ở chỗ ông ta không hạn chế ham muốn
doanh lợi, mà ở chỗ ông ta luôn nung nấu ham muốn
tích lũy không ngừng ngày càng nhiều, và do vậy mà ư chí
sản xuất của ông ta cũng trở nên không có
giới hạn. Chính là sự kết nối
giữa ham muốn lợi nhuận với tính kỷ
luật thuần lư và lối tổ chức thuần lư
mới tạo nên nét đặc trưng của chủ
nghĩa tư bản Tây phương.
Raymond Aron nhấn mạnh
rằng, theo quan niệm của Weber,
không phải chỉ có một, mà là có nhiều dạng
chủ nghĩa tư bản trong lịch sử thế giới.
Nói cách khác, mỗi xă hội tư bản
chủ nghĩa có những nét đặc trưng không
giống với các xă hội tư bản chủ nghĩa
khác. Và chính v́ thế mà Weber áp dụng phương pháp
“loại h́nh-lư tưởng” để xác định
thế nào là chủ nghĩa tư bản, nghĩa là xây
dựng khái niệm chủ nghĩa tư bản dựa
trên một số nét đặc trưng nhất.
Weber viết : “(…) theo
những tư liệu kinh tế mà chúng ta biết
được cho đến nay, ở tất cả các
nền văn hóa đă từng có 'chủ nghĩa tư bản'
và những doanh nghiệp 'tư bản chủ nghĩa'
dựa trên một [mức độ] lư tính hóa nào đó
trong việc hạch toán đồng vốn. Ở Trung Hoa,
Ấn Độ, Babylon, Ai Cập, ở vùng Địa
Trung Hải thời cổ đại, vào thời trung đại
cũng như vào thời cận đại.” Trên khắp thế giới, ở
đâu cũng có thương nhân, bán sỉ hay bán lẻ,
những người cho vay, những nhà kinh doanh thực
dân, những ông chủ đồn điền sở
hữu nô lệ, sử dụng lao động khổ sai
trực tiếp hoặc gián tiếp, những kẻ đầu
cơ “chuyên đi săn mọi cơ hội để
kiếm tiền”, những “kẻ phiêu lưu tư bản
chủ nghĩa”… Và phần lớn hoạt động
của những loại người này “đều mang tính
chất thuần túy phi lư tính và đầu cơ, hoặc là
thiên về cách chiếm hữu bằng bạo lực,
nhất là chiếm đoạt chiến lợi phẩm
thông qua chiến tranh, hay dưới h́nh thức chiến
lợi phẩm tài chánh, nghĩa là thông qua việc bóc
lột những người bị trị”.
Theo Weber, đấy chỉ
là những loại h́nh “chủ nghĩa tư bản
thương mại, hoặc hướng đến
chiến tranh, đến chính trị, hay đến chính
quyền” hoặc “chủ nghĩa tư bản phiêu
lưu”. Ông cho rằng “trong thời kỳ cận
đại, Tây phương đă biết đến
một dạng phát triển của chủ nghĩa tư
bản hoàn toàn khác và chưa có ở bất cứ nơi
nào trên trái đất : [đó là] cách
tổ chức thuần lư tư bản chủ nghĩa
đối với lao động tự do (về mặt
h́nh thức) mà người ta chỉ có thể bắt
gặp ở dạng thô sơ ở các nơi khác.” Weber gọi dạng
chủ nghĩa tư bản này là “chủ nghĩa tư
bản doanh nghiệp dân sự” [“bürgerliche
Betriebskapitalismus”].
Bên cạnh việc nh́n
nhận vai tṛ quan trọng của những yếu tố
như thị trường và kỹ thuật, Max Weber c̣n
đặc biệt nhấn mạnh tới vai tṛ cũng
như quá tŕnh lư tính hóa của luật pháp và của bộ
máy hành chính [Verwaltung]. Ông viết :
“Cấu trúc thuần lư của luật pháp và của bộ
máy hành chính lẽ tất nhiên là điều quan trọng.
Thật vậy, chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp
thuần lư hiện đại đ̣i hỏi phải có
sự tiên liệu có tính toán, không chỉ về mặt
kỹ thuật sản xuất, mà cả về mặt
luật pháp, cũng như một bộ máy hành chính với
những qui tắc h́nh thức rơ ràng. Không có những
yếu tố này, th́ chắc chắn sẽ chỉ có
thể nảy sinh thứ chủ nghĩa tư bản phiêu
lưu và thương mại đầu cơ, cũng
như đủ mọi loại chủ nghĩa tư
bản chịu sự chi phối của chính trị,
chứ không thể nảy sinh loại h́nh doanh nghiệp
thuần lư được điều khiển bởi
sự chủ động của cá nhân với một
số vốn thường trực và sự tiên liệu
vững chắc.”
Chúng ta có thể tóm tắt
một số yếu tố đặc trưng của
chủ nghĩa tư bản Âu châu cận đại mà
Weber đă đề cập tới như sau : sự
hiện diện của những doanh nghiệp mang mục
tiêu tích lũy không có giới hạn đối với
lợi nhuận và có lối tổ chức thuần lư
đối với lao động tự do ; khả năng
tính toán thuần lư và khả năng tiên liệu ; một
thị trường lớn mạnh được tạo
ra bởi những “mối lợi” kinh tế ; tính chất
thuần lư của các ngành khoa học và của nền
kỹ thuật đặt cơ sở trên đó ; cấu
trúc thuần lư của luật pháp và của bộ máy hành
chính.
Nhà xă hội học
người Mỹ Talcott Parsons (1902-1979) b́nh luận
rằng, theo cách hiểu của Weber, khái niệm “chủ
nghĩa tư bản” cần được nh́n nhận
không phải chỉ như một h́nh thái tổ chức
kinh tế, mà phải coi nó như “mô thức riêng biệt”
(distinctive pattern) của toàn bộ một xă hội – theo cách
nói của Parsons. Weber không chấp nhận dừng lại
ở những tiêu chuẩn kinh tế thông thường mà
người ta hay sử dụng để định
nghĩa và hiểu thế nào là chủ nghĩa tư
bản. Thực ra, ông cũng không đưa ra một
định nghĩa nào cụ thể và minh nhiên, nhưng qua
các công tŕnh của ông, toát lên rơ ràng ư định của ông
khi đề cập đến khái niệm chủ nghĩa
tư bản là “chuyển từ chỗ nhấn mạnh
chính khía cạnh kinh tế sang nhấn mạnh những
yếu tố thông thường vốn nằm bên
dưới [khía cạnh kinh tế] lẫn bên dưới
những khía cạnh khác của xă hội chúng ta”.
Weber đặt ra một
câu hỏi mấu chốt trong lối đặt vấn
đề của ông là tại sao các quá tŕnh đặc
trưng của chủ nghĩa tư bản Âu châu cận
đại chỉ xảy ra ở châu Âu, chứ không
xảy ra ở các nền văn hóa khác :
“Tại sao các lợi ích tư bản chủ nghĩa ở
Trung Hoa hay ở Ấn Độ đă không làm giống
như thế ? Tại sao ở đó sự phát triển
khoa học, nghệ thuật, chính trị lẫn kinh tế
đều không lèo lái theo các con đường lư tính hóa
vốn là đặc trưng riêng của Tây phương
?”
Từ đó Weber đề
cập tới giả thuyết khoa học chính của ḿnh : “(…) nếu tư duy duy lư kinh tế,
trong sự ra đời của nó, phụ thuộc vào
nền kỹ thuật thuần lư và luậ̣t pháp
thuần lư, th́ nó cũng phụ thuộc nói chung vào năng
lực và tâm thế của con người khi họ
chọn những lối sống thuần lư nào đó trong
thực tế. Khi lối sống này vấp
phải những ḱm hăm về tinh thần, th́ sự phát
triển của ứng xử kinh tế thuần lư cũng
sẽ gặp phải những trở lực nội tâm
nặng nề.”
Điều đáng chú ư ở đây là Weber đề
cập tới những con người cá thể và “lối
sống” cũng như “tâm thế” (Disposition) của
những con người ấy với tư cách là một
trong những nhân tố quan trọng cần nghiên cứu
nhằm góp phần giải thích sự ra đời và phát
triển của chủ nghĩa tư bản ở châu Âu.
Trước
khi bàn tiếp về giả thuyết trên, chúng ta hăy
dừng lại để t́m hiểu thêm về
phương pháp luận cá nhân (hay nói một cách đầy
đủ là “phương pháp luận quy về cá nhân”)
(methodological individualism) của Max Weber – người thường
được coi là cha đẻ của phương pháp
luận này.
II. Phương pháp luận cá
nhân
Như mọi
người đều biết, khái niệm “hành
động xă hội” (soziales Handeln) là một trong những
phạm trù chính trong tư duy xă hội học của Max
Weber. Khi t́m hiểu chủ nghĩa tư bản, ông
khởi sự bằng cách đưa ra định nghĩa
về hành vi kinh tế tư bản chủ nghĩa
: “Chúng tôi gọi hành vi kinh tế 'tư bản
chủ nghĩa' là hành vi dựa trên hy vọng đạt
được doanh lợi bằng cách tận dụng
những cơ hội trao đổi, nghĩa là dựa trên
những cơ may chiếm hữu một cách ḥa b́nh (về
mặt h́nh thức).” Như
vậy, nói như Alain Bihr, “chủ nghĩa tư bản” đối
với Max Weber trước hết không phải là, hay không
chỉ là, một hệ thống kinh tế, ít ra vào lúc ban
đầu của quá tŕnh nhận diện khái niệm này,
như các nhà kinh tế học thường quan niệm.
Dưới cách nh́n độc đáo của Weber, khái
niệm này trước hết nói đến một mô h́nh
ứng xử kinh tế đặc thù ; mô h́nh ứng
xử này một khi đă trở nên phổ biến và
ổn định th́ lẽ tất nhiên sẽ dẫn
đến chỗ h́nh thành một hệ thống kinh
tế, nhưng theo Weber, người ta chỉ có thể
hiểu được hệ thống này nếu qui
chiếu nó về các hành vi và hoạt động của các
cá nhân vốn tạo nên động lực thúc đẩy
sự vận hành của cả hệ thống. Ở đây, Weber đă vô h́nh trung
nhấn mạnh tới những điều kiện
chủ quan cần thiết cho sự h́nh thành “tinh thần”
của chủ nghĩa tư bản và từ đó thúc
đẩy sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản.
Diễn tŕnh phương
pháp luận mà Weber tiến hành trong quyển ĐĐTL
gần như đối lập, hay đúng hơn là khác
hẳn, so với quan điểm mà Emile Durkheim đă tŕnh
bày cách đó hơn 10 năm trong quyển Những qui
tắc của phương pháp xă hội học (1894). Theo
nhà xă hội học người Pháp này, người ta
chỉ có thể giải thích một hiện tượng
xă hội này bằng một hiện tượng xă hội
khác, và do đó cần tập trung chú ư tới các “sự
kiện xă hội” (fait social) khách quan ở bên ngoài chứ
không cần quan tâm tới những động cơ hay ư
định chủ quan của các cá nhân. “Mỗi
lần mà một hiện tượng xă hội
được trực tiếp giải thích bằng
một hiện tượng tâm lư, người ta có thể
chắc chắn rằng lối giải thích này là sai
lầm.” Durkheim nêu ra
một trong những nguyên tắc phương pháp luận
xă hội học như sau : “Phải
đi t́m nguyên nhân quyết định của một
sự kiện xă hội nơi các sự kiện xă hội
xảy ra trước đó, chứ không phải nơi các
trạng thái ư thức cá nhân.”
Theo mạch suy nghĩ
của Max Weber, không thể nhận diện các sự
kiện xă hội giống như các sự kiện vật
lư, bởi lẽ các sự kiện xă hội luôn luôn
được h́nh thành hay được xây dựng
“từ bên trong” (construits de façon endogène) bởi những tác
nhân xă hội, và chính do sự tự xây dựng này
(autoconstruction) mà các sự kiện xă hội mới có
thể hiện hữu, mới có thể xảy ra ; và
cũng do vậy mà chúng ta cần hiểu được “ư
nghĩa nội sinh” (sens endogène) của các hành động
xă hội. Ở đây, chúng ta
cần lưu ư rằng “loại h́nh-lư tưởng”, theo
phương pháp luận của Weber, không nhằm
đến những cấu trúc đă được
vật hóa (structures chosifiées), mà là nhằm đến
những mối quan hệ ư nghĩa (rapports de signification) – tức là
những mối quan hệ giữa các hành động xă
hội có ư nghĩa của các cá nhân. Nói cách khác, cái “loại
h́nh-lư tưởng” của chủ nghĩa tư bản
ở xă hội Âu châu cận đại theo
Weber trước hết cần được đi t́m
nơi những tâm thế, lối sống hay “hành vi kinh
tế tư bản chủ nghĩa” của những con
người sống trong xă hội này.
Trong quyển Wirtschaft und
Gesellschaft (Kinh tế và xă hội), Weber phát biểu rơ
rằng chỉ có thể giải thích được các
cấu trúc xă hội nếu hiểu được và
giải thích được cách ứng xử của các cá
nhân – một quan điểm mà giới khoa học xă hội
ngày nay thường gọi là “phương pháp luận [qui
về] cá nhân” (methodological individualism) –, mặc dù ông vẫn
không phủ nhận vai tṛ nhận thức luận cần
thiết của những “cấu trúc xă hội” (soziale
Gebilde). Ông viết : “(…) đối với việc lư
giải hành động theo hướng thông hiểu mà
bộ môn xă hội học tiến hành, những cấu trúc
ấy chỉ là những
kết quả [Abläufe] và những tập hợp kết
nối [Zusammenhänge] của những hành động
đặc thù của những con người cá thể
[einzelner Menschen], bởi lẽ những con người này
mới chính là những tác nhân duy nhất [mà chúng ta] có
thể hiểu được – [những tác nhân] của
một hành động hướng đến ư nghĩa. Nhưng dù vậy, ngành xă hội học, kể
cả v́ mục đích riêng của ḿnh, vẫn không thể
bỏ qua những khái niệm tập thể ấy
[kollektiven Gedankengebilde] vốn xuất phát từ những
lối tiếp cận khác.”
Tuy nhiên, phương pháp
luận cá nhân của Weber hoàn toàn không có liên quan ǵ với lư
thuyết về sự chọn lựa thuần lư (rational
choice theory) trong ngành kinh tế học vốn h́nh dung cá nhân
như con người đơn lẻ (atome) và ích kỷ,
cũng “không phải là một bước lùi trở
lại t́nh trạng trước Hegel với một quan
niệm cá nhân chủ nghĩa-nguyên tử về xă hội” . Mặt khác, trong số ba nghĩa của
khái niệm “individualisme” (cá nhân luận) mà nhà xă hội
học người Pháp Raymond Boudon phân biệt, chỉ có
nghĩa thứ ba mới đúng là phương pháp luận
của Max Weber : (a) cá nhân luận “xă hội học”
(individualisme “sociologique”) là khái niệm dùng để chỉ
lối ứng xử của các cá nhân trong ḷng một xă
hội vận hành dựa trên nguyên tắc b́nh đẳng
(chẳng hạn những xă hội “cá nhân chủ nghĩa”
[sociétés “individualistes”] đối lập với những xă
hội “đẳng cấp” [sociétés “hiérarchiques”]) ; (b) cá nhân
luận “đạo đức” (individualisme “éthique”) là khái
niệm dùng để chỉ một học thuyết cho
rằng cá nhân là điểm qui chiếu tối hậu
của các chuẩn mực, các định chế và các
chọn lựa giá trị trong xă hội (đối lập
chẳng hạn với “chủ nghĩa tập thể”
[“collectivisme”]) ; và (c) cá nhân luận “về phương pháp”
(individualisme “méthodologique”) (ở đây chúng tôi dịch là
“phương pháp luận [qui về] cá nhân”) là lối
tiếp cận được dùng để giải thích
các quá tŕnh xă hội bằng cách xuất phát từ các cá nhân
(đối lập với khuynh hướng “tổng
thể luận” về phương pháp [“holisme”
méthodologique]).
Theo Weber, các nhà khoa học
xă hội trước hết cần tiến hành việc
qui giản (reduction) những hiện tượng tập
thể (nh́n bên ngoài tưởng chừng như là một
thực tại độc lập) vào những hành
động của những con người cá thể. Ông
cho rằng, đối với ngành xă hội học, khi nói
đến “nhà nước” chẳng hạn th́ hiện
tượng này “không nhất thiết chỉ bao gồm hay
chủ yếu bao gồm những yếu tố quan
trọng xét về mặt pháp lư”. Ông viết tiếp
: “Và trong bất cứ trường hợp nào,
đối với [ngành xă hội học], không hề có nhân
cách tập thể nào 'hành động' ['handelnde'
Kollektivpersönlichkeit]. Khi [xă hội học] nói tới 'nhà
nước', 'dân tộc', 'công ty cổ phần', 'gia
đ́nh', 'lực lượng quân đội' hay những
'cấu trúc' tương tự, th́ ngược lại, nó
chỉ đơn giản nhắm đến một
kết quả nào đó của những hành động xă
hội đă xảy ra hay được kiến tạo là
có thể xảy ra của những [con người] cá
thể.”
Trong một bức thư
gởi cho R. Liefmann vào tháng 3-1920, Weber khẳng định
lập trường của ḿnh như sau :
“Nếu cuối cùng tôi trở thành một nhà xă hội
học, th́ đó chủ yếu là nhằm đặt
một dấu chấm hết đối với những
cách thực hiện đặt nền tảng trên các khái
niệm tập thể vốn vẫn luôn ám ảnh. Nói khác
đi, ngay cả ngành xă hội học cũng chỉ có
thể được tiến hành bằng những hành
động của một, hay vài, hay nhiều cá nhân riêng
biệt. Chính v́ thế, nó phải áp dụng
một cách chặt chẽ những phương pháp cá nhân.”
Nhưng chúng ta không nên
ngộ nhận rằng thao tác qui giản về hành
động cá nhân này mang một ư nghĩa bản thể luận,
v́ nó chỉ mang ư nghĩa phương pháp luận : theo
Weber, “con người cá thể” hay cá nhân được xem
xét ở đây không hề được quan niệm
như là những đơn vị đơn lẻ,
biệt lập nhau, mà chỉ được coi như
những dữ kiện cuối cùng mà chúng ta có thể và
cần phải “thông hiểu” và lư giải để có
thể giải thích được các hiện tượng
xă hội. Và chính
Weber c̣n nói rơ thêm rằng “cần phải loại bỏ
sự ngộ nhận khủng khiếp cho rằng
phương pháp 'cá nhân luận' ['individualistische' Methode]
cũng có cùng một nghĩa như một sự đánh giá
cá nhân chủ nghĩa ['individualistische' Wertung]”.
III. Khái niệm Beruf và tư duy
duy lư khổ hạnh của đạo Tin lành
Hăy trở
lại với câu hỏi là tại sao chủ nghĩa tư
bản Âu châu chỉ ra đời và phát triển trong xă
hội Tây phương thời cận đại, chứ
không ở bất cứ nơi nào khác. Giả
thuyết mà Weber đề xướng là :
có một số yếu tố của đạo Tin lành
đă tạo ra được những động cơ
thuận lợi cho sự h́nh thành của chế độ
tư bản chủ nghĩa. Weber cho rằng chính cái thái
độ đặc trưng đối với lao
động – một thái độ vốn chịu ảnh
hưởng quyết định bởi nền đạo
đức Tin lành, và điều này chỉ có ở
phương Tây – có khả năng giải thích diễn
tiến lịch sử đặc thù ấy của
phương Tây, khác với tất cả các nơi khác trên
thế giới.
Nền đạo
đức Tin lành mà Weber phân tích trong quyển sách này chủ
yếu là quan niệm giáo thuyết của phái Calvin mà sau
đây là tóm tắt năm điểm chính, dựa trên
bản Tuyên tín Westminster
năm 1647 :
- Có một đấng Thiên
Chúa tuyệt đối, siêu việt, đă tạo nên và cai trị trời đất, nhưng
nằm ngoài khả năng hiểu biết của trí
tuệ hữu hạn của con người.
- Đấng Thiên Chúa toàn
năng và huyền bí này đă tiền định sự
cứu độ hay sự kết án
đối với mỗi con người chúng ta, và chúng ta
không thể thay đổi ǵ được điều này
bằng các sự nghiệp của ḿnh.
- Thiên Chúa
đă tạo dựng ra thế giới v́ sự vinh quang
của chính Người.
- Con người, cho dù
được cứu độ hay bị kết án,
đều có nghĩa vụ lao
động cho sự vinh quang của Thiên Chúa và tạo
dựng nên vương quốc của Người ngay trên
thế gian này.
- Những công việc
trần thế, bản tính con người, và thân xác,
tất cả đều thuộc về trật tự
của tội lỗi và của sự chết, và
đối với loài người, sự cứu
độ chỉ có thể là một món quà tặng không
của ân huệ Thiên Chúa.
Theo Weber, thực ra
những yếu tố trên đây cũng xuất hiện
tản mạn trong giáo thuyết của các tôn giáo khác,
nhưng chỉ duy nhất trong đạo Tin lành mới có
sự nối kết của tất cả các yếu
tố này ; và điều này sẽ dẫn đến
những hệ quả hết sức quan trọng.
Người tín đồ theo giáo phái
Calvin không thể biết được là ḿnh sẽ
được cứu độ hay sẽ bị kết
án, và đây là điều làm cho họ cảm thấy lo âu,
khắc khoải. Để thoát ra khỏi
nỗi lo âu này, do xu hướng tâm lư tự nhiên, họ
sẽ đi t́m trong thế giới này những dấu
hiệu chứng tỏ ḿnh được chọn. Weber cho rằng chính v́ thế mà một số tông
phái Calvin cuối cùng đă t́m ra chứng cớ rằng ḿnh
được Thiên Chúa chọn thông qua thành quả và
sự nghiệp của ḿnh trong thế gian, trong đó có
sự thành công về mặt kinh tế. Do vậy, cá
nhân bị thúc đẩy đến chỗ phải cần
cù làm việc để vượt qua nỗi khắc
khoải là không biết ḿnh có được cứu
rỗi hay không.
Weber viết :
“Thay vào chỗ của những kẻ tội lỗi
đầy ḷng khiêm hạ vốn được Luther
hứa hẹn ân sủng nếu họ tự phó thác ḿnh cho
Thiên Chúa trong một ḷng tin sám hối, xuất hiện 'các
vị thánh' tự tin mà chúng ta có thể bắt gặp
nơi các thương gia Puritanist với ư chí sắt thép
của thời kỳ anh hùng của chủ nghĩa tư
bản, và kể cả ngày nay nơi một số
gương mặt điển h́nh. Mặt
khác, để đạt tới sự tự tin này, cách
thức thích hợp nhất được khuyến khích
là hăy làm việc không ngơi nghỉ trong một nghề
[rastlose Berufsarbeit]. Điều này, và chỉ
điều này thôi, mới xua tan được nỗi hoài
nghi về mặt tôn giáo và đem lại sự tin chắc
về ân sủng.”
Khái niệm Beruf mà Weber
sử dụng ở đây, theo ông, do xuất phát từ
quan niệm thần học của đạo Tin lành, không
phải chỉ có nghĩa đơn giản là “nghề
nghiệp” (như chữ “profession” hay “job” trong tiếng Anh,
chỉ một loại lao động để kiếm
sống), mà c̣n mang ư nghĩa “thiên chức” – ông nhắc
tới từ “calling” trong tiếng Anh (đồng nghĩa
với chữ “Berufung” [sự kêu gọi] trong tiếng
Đức) – hay một “phận sự” (Aufgabe) do Thiên Chúa
chỉ định, và v́ thế nó đi đôi với khái
niệm “bổn phận” (Pflicht). Weber cho
rằng đây chính là sản phẩm hết sức mới
mẻ của cuộc Cải cách của đạo Tin lành,
khác hẳn so với quan niệm của đạo Công giáo
truyền thống về “đời này” (đối
lập với “đời sau”) và về các công việc
trần gian. Ông viết : “(…) cho
rằng bổn phận được thực hiện
thông qua các nghề nghiệp trần thế, rằng
bổn phận ấy là hoạt động đạo
đức cao nhất mà con người có thể
đảm nhiệm ở đời này – đó chắc
chắn là điều mới mẻ. Như
vậy, một cách tất yếu, hoạt động
thường ngày mang một ư nghĩa tôn giáo, chính từ
đó mà khái niệm 'Beruf' mang ư nghĩa [thiên chức]
ấy. Ư nghĩa này biểu lộ tín điều trung
tâm của tất cả các giáo phái Tin lành vốn bác bỏ
sự phân biệt các điều răn đạo
đức nơi người Công giáo thành các praecepta
[mệnh lệnh] và các consilia [lời khuyên].”
Và Weber tóm tắt quan
niệm đạo đức của giáo phái Calvin như
sau : “Cách duy nhất để có một cuộc sống
đẹp ḷng Thiên Chúa không phải là vượt lên trên
nền đạo đức của đời sống
trần thế bằng lối sống khổ hạnh trong
tu viện, mà chính là chu toàn trong thế gian các bổn
phận tương ứng với chức phận mà
cuộc sống dành cho mỗi người trong xă hội –
chính v́ thế mà các bổn phận trở thành 'thiên
chức' [Beruf] của mỗi người.” Đặc trưng tư
tưởng của giáo thuyết Calvin là nhấn mạnh
tới nỗ lực của cá nhân chứ không coi trọng
vai tṛ của các định chế, và loại trừ
những xu hướng huyền bí, những xu hướng
nặng về nghi thức – nói khác đi, đây chính là
lối tư duy dẫn đến quá tŕnh “giải ma
thuật” (Entzauberung) và quá tŕnh lư tính hóa lối sống
của người tín đồ Calvin.
Chính ở điểm này
mà, theo Weber, có một sự gặp
gỡ hết sức quan trọng giữa một số yêu
cầu trong lôgic thần học Calvin với một số
yêu cầu của lôgic tư bản chủ nghĩa – hay
giữa tư duy duy lư khổ hạnh Calvin với tư duy
duy lư của nhà kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Nền đạo
đức Tin lành khuyến cáo các tín đồ của ḿnh
phải cảnh giác và dè chừng đối với của
cải thế gian và phải có một lối sống
khổ hạnh (Askese). Trong khi đó, làm việc
một cách duy lư nhằm tạo ra doanh lợi và không tiêu xài
hoang phí doanh lợi này – đây chính là lối ứng xử
cần thiết cho sự phát triển của chủ nghĩa
tư bản, bởi nó có nghĩa là không ngừng tái
đầu tư số lợi nhuận mới
được tạo ra. Chủ nghĩa tư bản
cần lối tổ chức thuần lư đối với
lao động, và giả định
rằng phần lớn lợi nhuận không
được tiêu xài hết mà phải được
tiết kiệm nhằm có thể tiếp tục phát triển
các phương tiện sản xuất. Chính đây là
nơi bộc lộ sự “tương hợp chọn
lọc” giữa quan niệm và lối sống của
đạo Tin lành với “tinh thần” của chủ
nghĩa tư bản.
Theo Talcott Parsons, khái
niệm “tinh thần của chủ nghĩa tư bản” –
một cụm từ đặc trưng mà Weber sử
dụng thường xuyên – không phải chỉ nói về
sự chiếm hữu hay hành động chiếm hữu
đơn thuần như nhiều tác giả thường
lầm tưởng, mà trước hết và chủ
yếu bao hàm “tính lư tính” (Rationalität) hay tư duy lư tính
(Rationalismus) – hiểu như là một tâm thế mở luôn
hướng đến những cách giải quyết
vấn đề mới, đối lập với óc
thủ cựu (Traditionalismus) ; một thái độ tận
tâm và chuyên cần đối với công việc v́ chính công
việc chứ không v́ mục đích nào khác, thái độ
mà Weber diễn giải trong một khái niệm kép là nghề
nghiệp-thiên chức (Beruf trong tiếng Đức, hay
calling trong tiếng Anh).
Weber viết như sau : “Một trong các bộ phận cấu
thành của tinh thần tư bản chủ nghĩa
hiện đại, và không chỉ của tinh thần này, mà
cả của chính nền văn hóa hiện đại,
tức là lối sống thuần lư dựa trên ư
tưởng Beruf, đă được phát sinh từ tinh
thần của nền khổ hạnh Ki-tô giáo – đó chính
là điều mà các tŕnh bày của chúng tôi muốn chứng
minh.”
Ở đây, để
hiểu rơ hơn ư tưởng của Weber, chúng ta có
thể đọc thêm đoạn văn sau đây trong
một công tŕnh khác của ông, khi ông so sánh giáo thuyết Puritanist
(Thanh giáo) ở châu Âu với tư tưởng Nho giáo
(Khổng giáo) ở Trung Hoa : “Sự đối lập
giữa [tư tưởng] Nho giáo và [tư tưởng]
Puritanist cũng làm cho chúng ta hiểu rằng sự tiết
độ và óc tiết kiệm, kết hợp với 'ham
muốn doanh lợi' và 'óc quí trọng của cải' c̣n lâu
mới có thể đại diện hay có thể làm nảy
sinh được 'tinh thần tư bản chủ
nghĩa'. Nhà Nho điển h́nh chi tiêu những khoản
tiết kiệm ấy lẫn những khoản tiết
kiệm của gia đ́nh để có được
một nền học thức, để dùi mài kinh sử
nhằm trải qua các kỳ thi và nhờ đó đảm
bảo cho ḿnh cơ sở xă hội của một cuộc
sống giàu sang. Người tín đồ
Puritanist điển h́nh kiếm được nhiều
tiền, tiêu xài ít, và do bị thúc bách phải tiết
kiệm bởi tư tưởng khổ hạnh, nên tái
đầu tư các khoản lợi nhuận của ḿnh
dưới h́nh thức tư bản vào các doanh nghiệp
tư bản chủ nghĩa thuần lư. 'Tư duy duy lư' – và đây là bài học thứ hai
đối với chúng ta – chi phối cả hai nền
đạo đức ấy. Nhưng chỉ có
nền đạo đức duy lư của phái Puritanist,
vốn hướng đến một đời sau,
mới dẫn đến chỗ h́nh thành một tư duy
duy lư kinh tế ở ngay trong đời này với tất
cả những hệ quả cuối cùng của nó, chính là
bởi v́ tự nó, không c̣n có ǵ là xa lạ đối
với nó nữa, chính là bởi v́ lao động trong
thế gian này đối với nó chỉ là biểu
hiện sự theo đuổi một mục tiêu siêu
việt. (…) Tư duy duy lư Nho giáo hàm nghĩa là một
sự thích nghi duy lư với thế gian ;
c̣n tư duy duy lư Puritanist là một sự làm chủ duy lư
đối với thế gian.”
Theo Weber, sở dĩ ở Trung Hoa không phát triển
được chủ nghĩa tư bản là do thiếu
những điều kiện và tâm thế thuận lợi
cho quá tŕnh này, hay nói chính xác hơn là do khuôn khổ quá
cứng nhắc và tù đọng của các nghi thức và
tập tục, nói khác đi là do xu hướng bảo
thủ của tư tưởng Nho giáo.
IV. Lư
thuyết của Weber về mối liên hệ nhân quả
Theo Raymond Aron,
không ít người ngộ nhận rằng Max Weber đă t́m
cách bác bỏ chủ nghĩa duy vật lịch sử khi
ông ta giải thích những nhân tố kinh tế bằng
những nhân tố tôn giáo. Aron cho
rằng hoàn toàn không phải như vậy. Trong công
tŕnh ĐĐTL, Weber chỉ muốn minh chứng rằng
người ta chỉ có thể hiểu được các
ứng xử của con người trong các xă hội khác
nhau nếu đặt chúng trong khuôn khổ nhân sinh quan hay
thế giới quan của họ. Các tín điều tôn giáo
và cách giải thích các tín điều này là một bộ
phận nằm trong nhân sinh quan và thế giới quan
ấy, và v́ thế chúng ta cần phải hiểu chúng
để có thể hiểu được ứng xử
của các cá nhân và của các nhóm xă hội, nhất là
ứng xử kinh tế của họ. Max Weber muốn
chứng minh rằng những quan niệm tôn giáo thực
sự là một nhân tố có ảnh hưởng quan
trọng đối với các lối ứng xử kinh
tế, và do đó, là một trong những nguyên nhân của
những chuyển biến kinh tế của các xă
hội.
Weber nói rơ rằng mục
tiêu của ông trong quyển sách này chỉ giới hạn
vào chỗ lư giải vai tṛ của nhân tố tinh thần,
trong “vô số” những động lực khác, đối
với quá tŕnh phát triển của chủ nghĩa tư
bản. Ông viết : “Như vậy công cuộc nghiên
cứu sau đây có lẽ cũng là một đóng góp khiêm
tốn vào việc cho thấy bằng cách nào các 'ư
tưởng' trở thành những sức mạnh hữu
hiệu trong lịch sử. (…) Chúng tôi chỉ muốn làm
sáng tỏ cái phần của các động lực tôn giáo
trong vô số những động lực cá biệt trong
lịch sử vốn đă góp phần vào sự phát
triển của nền văn minh hiện đại
của chúng ta, vốn đặc biệt hướng
về đời này. Vấn đề chúng tôi đặt
ra chỉ nhằm định rơ, trong một số nội
dung đặc biệt của nền văn minh này,
những nội dung nào có thể được quy kết
là do tác động của cuộc Cải cách [Tin lành]
với tính cách là nguyên nhân lịch sử.”
Câu hỏi mà Weber nêu ra là
“một số niềm tin tôn giáo đă quyết định
như thế nào đối với sự h́nh thành của
một 'năo trạng kinh tế', hay nói khác đi là 'ethos'
của một h́nh thái kinh tế ?” Để
trả lời cho câu hỏi này, ông nói “chúng tôi đă dùng làm
thí dụ những mối liên hệ giữa cái ethos của
đời sống kinh tế hiện đại với
đạo đức thuần lư của đạo Tin lành
khổ hạnh.” Và ông khẳng
định “như vậy, chúng tôi sẽ chỉ quan tâm
tới một phương diện mà thôi của mối
liên hệ nhân quả.”
Điều mà chúng ta
cần lưu ư ở đây là Max Weber không hề có một
quan điểm cực đoan và đơn-nguyên nhân
(monokausal) về mối liên hệ nhân quả khi giải
thích thực tại xă hội, và ông cũng chưa bao
giờ nghĩ một cách giản đơn rằng
chủ nghĩa tư bản chỉ là “sản phẩm”
của nền đạo đức Tin lành. Ông viết rơ
như sau : “(…) cũng tuyệt nhiên không có chuyện bảo
vệ cho một luận điểm giáo điều và phi
lư như là cho rằng 'tinh thần của chủ nghĩa
tư bản' (…) chỉ có thể ra đời như là
kết quả của một số tác động nhất
định của cuộc Cải cách [Tin lành], hay thậm
chí c̣n khẳng định rằng chủ nghĩa tư
bản với tư cách là một hệ thống kinh
tế là một sản phẩm của cuộc Cải cách
[Tin lành]. Ngay sự kiện một số h́nh
thức quan trọng của doanh nghiệp tư bản
chủ nghĩa đă có trước cuộc Cải cách [Tin
lành] khá lâu cũng đă đủ để bác bỏ
luận điểm này. Ngược lại, mối
quan tâm duy nhất của chúng tôi sẽ là định rơ
trong mức độ nào các tác động tôn giáo đă góp
phần tham gia vào việc gây dấu ấn về chất
và sự bành trướng về lượng của 'tinh
thần' này trên thế giới ; ngoài ra,
định rơ những phương diện cụ thể
nào của nền văn minh dựa vào cơ sở tư bản
chủ nghĩa đă nảy sinh từ đó.”
Trong một bài viết vào
năm 1910 mang tên là “Chống lại sự phê phán liên quan
tới 'tinh thần' của chủ nghĩa tư bản”
nhằm phản bác lại những lời công kích của
nhà sử học người Đức Felix Rachfahl
(1867-1925), Max Weber nhắc lại rằng ông quan niệm
những động lực tinh thần xuất phát từ
nền đạo đức Calvin “chỉ là một
yếu tố cấu thành của 'tinh thần' của
chủ nghĩa tư bản”. Ông viết : “Tôi đă
từng nói một cách hết sức quyết liệt
rằng tôi không hề chịu tránh nhiệm ǵ về
việc các tác giả khác đă tuyệt đối hóa các
nhân tố tôn giáo ấy – những nhân tố mà tôi đă
gọi một cách rơ ràng và nhấn mạnh tối đa
như là một thành tố đặc thù –, và về
việc họ đồng hóa chúng [tức là các nhân tố
tôn giáo ấy – N.D.] với 'tinh thần của chủ
nghĩa tư bản' nói chung hay thậm chí c̣n coi chủ
nghĩa tư bản như là xuất phát từ chúng.”
Cũng giống như
trường phái mác-xít, Max Weber luôn nh́n nhận “vai tṛ quan
trọng căn bản của kinh tế” và ông luôn “chú ư
trước hết” tới các điều kiện kinh
tế khi t́m cách giải thích các thực tại xă hội.
Tuy nhiên, và đây là điểm độc đáo trong
lối tiếp cận của Weber, ông nhấn mạnh
rằng cũng phải đồng thời lưu tâm
tới “những mối tương quan nhân quả
ngược lại” – nói khác đi, tác động nhân
quả theo Weber không phải là tác động một chiều,
đơn giản, mà thực ra là một sự
tương tác vô cùng phức tạp trong thực tại xă
hội mà nhiệm vụ của nhà nghiên cứu là phải
làm sáng tỏ. Ông phát biểu điều này khi bàn về
chuyện đi t́m nguồn gốc của tư duy duy lư
(Rationalismus) Tây phương hiện đại
: “Mọi nỗ lực giải thích theo chiều
hướng này đều sẽ phải nh́n nhận vai tṛ
quan trọng căn bản của kinh tế, và chú ư
trước hết tới các điều kiện kinh
tế. Nhưng đồng thời, cũng
phải chú ư tới những mối tương quan nhân
quả ngược lại. Bởi lẽ, nếu
tư duy duy lư kinh tế, trong sự ra đời của
nó, phụ thuộc vào nền kỹ thuật thuần lư và
luậ̣t pháp thuần lư, th́ nó cũng phụ thuộc
nói chung vào năng lực và tâm thế
của con người khi họ chọn những lối
sống thuần lư nào đó trong thực tế.”
Raymond Aron cho rằng toàn
bộ tư duy về mối tương quan nhân quả
của Weber được thể hiện trên cơ sở
xác suất hay “khả năng xảy ra”. Đối với
Weber, không thể có một yếu tố nào đó có thể
quyết định một cách đơn-nguyên nhân
(monokausal) hay một chiều đối với toàn bộ
đời sống xă hội, cho dù đấy là yếu
tố kinh tế, yếu tố chính trị hay yếu
tố tôn giáo. Aron giải thích rằng Weber quan niệm các
mối tương quan nhân quả trong ngành xă hội
học chỉ như là những mối tương quan
“cục bộ” và “có khả năng xảy ra” (“relations
partielles et probables”). Nói cách khác, một bộ
phận này của thực tại xă hội có thể là, hay
không là, nguyên nhân của một bộ phận khác của
thực tại xă hội – chứ không bao giờ có thể
là nguyên nhân của toàn bộ thực tại xă hội.
Và những mối tương quan nhân quả
này luôn luôn mang tính chất xác suất, nghĩa là có thể
xảy ra hay không xảy ra – chứ chúng không bao giờ mang
tính chất quyết định tất yếu. Và
chính tính chất bất định này trong thực tại
xă hội là điều mà các nhà nghiên cứu khoa học xă
hội phải quan tâm , để có
thể đi đến chỗ giải thích
được rằng tại sao một hiện
tượng xă hội lại xảy ra ở nơi này,
trong xă hội nà̀y, chứ không xảy ra ở nơi
khác, trong các xă hội khác.
Theo Raymond Aron, lư thuyết
về tương quan nhân quả của Weber chính là một
nỗ lực nhằm phản bác lại cách hiểu máy móc
và thô thiển về chủ nghĩa duy vật lịch
sử. Chẳng hạn, khi so sánh các dữ kiện lịch
sử, Weber đă từng đặt vấn đề
như sau : tại sao tại ngay những trung tâm phát
triển tư bản chủ nghĩa như Florentia (Ư) vào
các thế kỷ XIV và XV, lại không thể xuất
hiện quan niệm về việc kiếm tiền thông qua
nghề nghiệp như một mục đích tự thân,
hay như một “chức phận”, một “thiên chức”
(Beruf), vốn là đặc trưng quan trọng nhất
của “tinh thần” của chủ nghĩa tư bản ?
Trong khi đó, tại sao điều này lại có thể
xảy ra ở những khu rừng của Pennsylvania (Mỹ) vào thế
kỷ XVIII, nơi mà các hoạt động kinh doanh lúc
ấy vẫn c̣n hết sức lạc hậu
? Từ đó, ông nhận định rằng “ở
đây mà nói đến sự 'phản ánh' các điều
kiện 'vật chất' lên trên 'thượng tầng
kiến trúc tư tưởng' th́ là điều hoàn toàn vô
nghĩa”. Weber cho rằng chính
bối cảnh tư tưởng của giáo thuyết
Calvin “đă dẫn tới chỗ coi loại hoạt
động xem ra chỉ nhằm tới lợi nhuận này
như là một thiên chức [Beruf] mà đối với nó,
cá nhân cảm thấy ḿnh có bổn phận luân lư”, “đă
tạo ra nền tảng và sự biện hộ về
đạo đức cho lối ứng xử 'kiểu
mới' của nhà kinh doanh” , và chính nhờ đó mà nó đă
góp phần tạo ra những động lực tinh
thần và những lối ứng xử thích hợp và
cần thiết cho tiến tŕnh phát triển của chủ
nghĩa tư bản.
Theo nhà xă hội học
người Mỹ Robert Nisbet (1913-1996), vấn đề mà
Max Weber đặt ra không phải là đi t́m nguồn
gốc tuyệt đối và tối hậu của sự
chuyển biến xă hội, ông không t́m cách xây dựng
một lư thuyết theo đó chỉ có một nhân tố duy
nhất mang tính chất quyết định toàn bộ
đời sống xă hội. Weber không phủ nhận vai tṛ quan trọng của
các tiến bộ kỹ thuật và kinh tế trong sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhưng
ông là người đặc biệt chú tâm tới vai tṛ
của động lực cá nhân trong các quá tŕnh chuyển
biến xă hội. Nói cách khác, ông đă nỗ
lực đưa những yếu tố như các giá
trị xă hội, các động lực ứng xử và các
cấu trúc tinh thần vào trong một khuôn khổ lư
thuyết giải thích sự chuyển biến xă hội.
Mặt khác, cũng cần nhắc lại rằng Weber không
t́m cách “giải thích” chủ nghĩa tư bản xét
một cách tổng thể bằng giáo thuyết Calvin, mà
thực ra ông chỉ t́m hiểu cái “tâm thế” của
nền đạo đức Calvin vốn cho rằng lao
động, của cải và lợi nhuận không những
được chấp nhận và được
đề cao, mà thậm chí c̣n trở thành một sức
mạnh thúc bách về mặt đạo đức và thống
trị về mặt luân lư –
điều mà ông cho là có một sự “tương hợp
chọn lọc” (Wahlverwandtschaften) với “tinh thần”
của chủ nghĩa tư bản, hay với những yêu
cầu về mặt phẩm chất và tính cách của
một nhà kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Khái
niệm “quan hệ tương hợp chọn lọc” là
một khái niệm độc đáo mà Weber sử dụng
khi ông nhận định về mối quan hệ
tương tác giữa nền đạo đức Tin lành
với tinh thần của chủ nghĩa tư bản .
Ở cuối công tŕnh
của ḿnh, Weber minh định lập trường
phương pháp luận của ḿnh như sau
: “Dù có thiện chí đến đâu, bản thân con
người hiện đại, nh́n chung, thường không
đủ khả năng h́nh dung hết tầm quan
trọng của các ư tưởng tôn giáo đối với
các cách ứng xử, văn hóa và tính cách dân tộc.
Nhưng lẽ tất nhiên chúng tôi không hề có ư
định thay thế một lối lư giải nhân quả
'duy vật' phiến diện [einseitig] bằng một
lối lư giải duy linh [spiritualistische] về văn hóa và
lịch sử, thực ra cũng không kém phần phiến
diện. Cả hai [lối lư giải này]
đều có thể làm được, nhưng nếu
cả hai không tự xem ḿnh như là bước sơ
khởi của sự t́m ṭi mà lại có tham vọng cho
rằng ḿnh mang lại kết luận [của sự t́m
ṭi], th́ cả hai đều không phục vụ tốt cho
chân lư lịch sử.”
Ngay sau khi ra đời, tác
phẩm ĐĐTL đă được các nhà thần
học đồng t́nh rộng răi, nhưng lại bị
các sử gia và các nhà kinh tế học phê phán mạnh mẽ : nhiều bài điểm sách đă
lập tức ngộ nhận rằng Weber đưa ra
một lối lư giải “duy tâm chủ nghĩa” và “tâm lư
học” về lịch sử. Các phê phán sau
đây c̣n ảnh hưởng đến hiện nay, dù Weber
đă trả lời nghiêm túc và cặn kẽ.
Karl Heinrich Fischer (1879-1975)
(nhà triết học về lịch sử) viết bài
“Kritische Beiträge zu Professor Max Webers Abhandlung 'Die protestantische
Ethik und der Geist des Kapitalismus' ” (Các đóng góp phê phán về
công tŕnh ĐĐTL của GS Max Weber) , trong đó ông xem công
tŕnh của Weber nói chung là một cống hiến, nhưng
phê phán Weber đă có một cách lư giải lịch sử “duy
tâm chủ nghĩa và tâm lư học” : việc Weber xem
đạo đức Tin lành là cơ sở tư
tưởng cho Beruf [nghề nghiệp-thiên chức] là không
có sức thuyết phục và sự trùng hợp giữa
đạo Tin lành và chủ nghĩa tư bản không
phải ở đâu cũng có về mặt lịch sử
(Max Weber đă trả lời ngay trong tập XXV ấy, tr.
243-249). Sau đó, Fischer lại viết thêm một bài
đăng trong số kế tiếp :
“Replik auf Herrn Professor Max Webers Gegenkritik” (Đáp lại
lời phản-phê phán của GS Max Weber) để chứng minh rằng
luận điểm của Max Weber chỉ đúng nếu có
thể “loại trừ hết mọi yếu tố khác
của sự ra đời của chủ nghĩa tư
bản”.
Felix Rachfahl (sử gia) trong
bài “Kalvinismus und Kapitalismus” (Giáo thuyết Calvin và chủ
nghĩa tư bản)
đă chủ yếu phê phán khái niệm “tinh
thần tư bản chủ nghĩa” là không thích hợp
để nắm bắt động lực kinh tế
dẫn đến chủ nghĩa tư bản, và, chủ
nghĩa tư bản vẫn có mặt ở những
nơi không có “tinh thần” này.
Nh́n chung,
cả hai cách phê phán khá tiêu biểu ấy đều có
đặc điểm chung là không hiểu rơ và ngộ
nhận về khái niệm Idealtypus (loại h́nh-lư
tưởng) được Max Weber tŕnh bày trong bài về
“Tính khách quan…” nói trên. Rachfahl phê phán đúng vào điểm mà
Weber lấy làm nguyên tắc cho việc nghiên cứu
: chỉ nghiên cứu một yếu tố của
sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, và
các “loại h́nh-lư tưởng” – được xây dựng
nên để t́m hiểu yếu tố này – không nhất
thiết phải có thật trong thực tế lịch
sử. V́ thế, trong một bài trả lời
ngắn, Weber trách Rachfahl là “đă phạm nhiều sai
lầm thô bạo do đọc một cách hời hợt”.
“Loại h́nh-lư
tưởng” là một công cụ phương pháp luận
đặc thù của Max Weber, xuất phát từ yêu cầu
thấu hiểu về “hành động xă hội” hơn là
về “cấu trúc xă hội”, bởi, như đă nói, theo
ông, hành động xă hội là trung tâm của việc nghiên
cứu xă hội học, và chỉ có nhờ sự thấu
hiểu những ư đồ, ư tưởng, giá trị và
ḷng tin đă thúc đẩy con người hành động,
ta mới hiểu được xă hội cũng như
cấu trúc của nó. Nhận thức này
bắt đầu từ khi Max Weber đọc
được hai tác phẩm quan trọng của Heinrich
Rickert (“Die Grenzen der naturwissenschaftlichen Begriffsbildung” [Các
giới hạn của việc xây dựng khái niệm khoa
học tự nhiên], và “Kulturwissenschaft und Naturwissenschaft” [Khoa
học văn hóa và khoa học tự nhiên], 1896/1902).
Ông cho rằng hai tác phẩm ấy là “rất hay” và ông
“đă nghĩ tới cho dù chưa đạt đến
mức triển khai về lôgic như thế”. Rickert phân biệt tự nhiên và
văn hóa : tự nhiên là “cái
được ta suy tưởng độc lập với
giá trị”, nó là sự tồn tại “không có ư nghĩa”,
“chỉ được tri giác thôi”. Ngược lại,
mọi quá tŕnh văn hóa đều là “hiện thân của
một giá trị được con người thừa nhận : chính v́ giá trị đó mà quá tŕnh
văn hóa đă được người ta hoặc
tạo ra, hoặc, nếu nó đă có mặt, th́ vun bồi,
chăm sóc”. Như thế, những đối tượng
văn hóa gắn liền với những giá trị, và ta
gọi chúng là “những thực tại có giá trị”, hay
“những tài sản văn hóa” (Güter), nhưng đồng
thời phải phân biệt chúng với bản thân
những giá trị này, bởi những giá trị này không
phải là những thực tại và ta có thể không
cần xét tới. Khoa học xét những đối
tượng tự nhiên không phải như những
thực tại có giá trị, trái lại, tách rời chúng
với những giá trị, v́ thế, “nếu, trong tư
tưởng, ta tách rời giá trị ra khỏi một
đối tượng văn hóa, th́ có thể nói, nó
trở thành tự nhiên đơn thuần hay có thể
nghiên cứu nó một cách khoa học như một
đối tượng tự nhiên”.
Việc phân biệt
giữa tự nhiên và văn hóa như thế đ̣i hỏi
một sự thay đổi về phương pháp
luận : khi nghiên cứu các quá tŕnh và các đối
tượng văn hóa, ta phải nắm bắt nguồn
gốc của mọi văn hóa, của hành động con
người về mặt khái niệm và phương pháp ;
nói cách khác, phải xây dựng một phương pháp khái
quát hóa nhưng không làm tổn hại đến đặc
điểm quan trọng nhất của chúng là biểu
hiện của những cá nhân có lư tính và có ư thức về
giá trị hoặc không hy sinh đặc điểm này do
sự cưỡng bách của phương pháp. Tất
nhiên, theo Rickert, các “khoa học văn hóa”
cũng phải đi đến những kết luận
khái quát hóa có giá trị phổ biến, nhưng “không
phải theo cách” của các khoa học tự nhiên, v́, khác
với các khoa học tự nhiên, chúng quan tâm đến cái
cá biệt lẫn cái đặc thù của một hiện
tượng lịch sử. V́ thế, Rickert
đề ra “phương pháp cá thể hóa” (individualisierendes
Verfahren) của khoa lịch sử, đối lập
lại với phương pháp “khái quát hóa” (generalisierendes
Verfahren) của khoa học tự nhiên. Rickert
đồng ư về cơ bản với sự phân biệt
của Wilhelm Windelband (“Sử học và khoa học tự
nhiên”, 1894) giữa phương pháp “cá biệt hóa”
(idiographisch) của sử học và phương pháp “quy
luật hóa” (monothetisch) của khoa học tự nhiên.
Nhưng, theo Rickert, đấy mới
chỉ là sự phân biệt “tiêu cực” (khoa học văn
hóa không phải là khoa học tự nhiên), nên cần bổ
sung thêm phương pháp “tích cực” mà ông gọi là việc
“đặt quan hệ với giá trị” (Wertbeziehung). Theo đó, bất kỳ sự tŕnh bày nào về
lịch sử cũng phải đặt đối
tượng của ḿnh vào mối quan hệ với một
giá trị có hiệu lực phổ biến. Các giá trị có hiệu lực phổ biến khi
chúng “đ̣i hỏi sự thừa nhận trong thực
tế của mọi thành viên trong một cộng
đồng nhất định”. Đó là “các giá
trị xă hội phổ biến có tính quy phạm” hay “các
giá trị văn hóa”. Nguyên tắc “thuần túy lư thuyết”
này chỉ có một mục đích là nh́n cho ra chỗ quan
trọng đối với hiện tượng văn hóa,
và đặt nó vào một trật tự có ư nghĩa,
nhưng điều hệ trọng không kém là
: bản thân nhà nghiên cứu phải đặt các giá
trị mà bản thân ḿnh yêu thích hay tôn thờ ra bên ngoài công
việc nghiên cứu. Ông nói ngắn gọn :
“Cho dù môn sử học làm việc với những giá
trị, nhưng nó không phải là một khoa học
định giá trị. Nó chỉ khẳng
định những ǵ đang là.”
Max Weber tiếp thu nồng
nhiệt quan niệm này của Rickert về cả hai yêu cầu : một mặt, yêu cầu “không
đưa ra phán đoán giá trị” (Werturteilsfreiheit)
để có thể có được sự kiểm tra vô
tư, liên chủ thể về kết quả nghiên cứu
; mặt khác, “đặt đối tượng trong
mối quan hệ với giá trị” (Wertbeziehung) để
thỏa ứng đặc điểm của đối
tượng văn hóa-lịch sử. Max Weber mở
rộng nguyên tắc phương pháp luận này vào xă
hội học : ông tin rằng xă hội học có thể
học được từ khoa học tự nhiên
“việc nghiên cứu những sự kiện thuần túy
như là những sự kiện” (Fakta eben rein als Fakta
behandeln), đồng thời phản đối việc “tuyệt
đối hóa một số h́nh thức trừu
tượng hóa của khoa học tự nhiên thành chuẩn
mực cho tư duy khoa học nói chung” và thấy “xă hội
học đang bị các nhà kỹ trị được
đào tạo theo kiểu khoa học tự nhiên
cưỡng hiếp”. Điều
ấy phải thay đổi và đồng thời
đặt ra cho các ngành khoa học xă hội một vấn
đề lớn : làm sao vừa có
thể “ganh đua” được với khoa học
tự nhiên về tính chính xác, vừa không mô phỏng máy móc
quan niệm về quy luật của khoa học tự
nhiên.
Theo Max Weber, khoa học
tự nhiên lẫn khoa học xă hội-nhân văn (“khoa
học văn hóa”) đều đứng trước
một hiện tượng giống nhau, đó là “tính phức
hợp không thể nh́n thấu hết và ngày càng tỏ ra
cứ lớn dần lên” (khiến Rickert trước đó
đă nhận ra “sự bất lực của khái niệm”
). Ông rút ra kết luận : dùng “tinh
thần hữu hạn của con người” để
cố nắm bắt tính phức hợp của thực
tại vốn vô tận về nguyên tắc này sẽ
nhất định thất bại, nếu ta không
tiền-giả định một cách mặc nhiên rằng
ta chỉ nên lấy một bộ phận hữu hạn
của thực tại làm đối tượng cho sự
lĩnh hội khoa học và xem nó là “cơ bản” theo
nghĩa là “đáng để biết”. Để có thể xác
định “bộ phận hữu hạn” nào của
thực tại vô tận là “cơ bản”, các khoa học xă
hội cần một “thước đo” (Maßstab).
Thước đo ấy được Max Weber gọi là
“loại h́nh-lư tưởng” (Idealtypus).
Thật ra,
không phải tất cả đều bắt nguồn
từ bản thân Max Weber. Ta đă biết rằng Max
Weber tiếp thu quan niệm “đặt đối
tượng trong quan hệ với giá trị” (Wertbeziehung)
và “không đưa ra phán đoán giá trị” (Wertfreiheit)
từ H. Rickert, c̣n “loại h́nh-lư tưởng" là
thuật ngữ của Georg Jellinek, đồng nghiệp
của ông ở Heidelberg, nhưng từ một lĩnh
vực áp dụng khác : luật học. Max Weber tận dụng
thuật ngữ “loại h́nh-lư tưởng” của G.
Jellinek sau khi ông gặp khái niệm “loại h́nh-nghiêm
ngặt” (strenge Typen) hay c̣n gọi là “loại h́nh-hiện
thực” (Realtypen) của Carl Menger, nhà kinh tế học
quốc dân ở Wien để chỉ các h́nh thức
hợp quy tắc diễn ra thường xuyên và lặp
đi lặp lại trong thực tại mang đặc
điểm chính xác của quy luật. Theo C. Menger, chúng
được tạo ra bằng cách cô lập hóa các
yếu tố cơ bản nhưng thường bị che
giấu của hành động kinh tế. Weber
nh́n thấy trong các “loại h́nh-hiện thực” này một
khuôn mẫu để ông xây dựng nên các “loại h́nh-lư
tưởng” của ḿnh. Chỗ mới mẻ của
Max Weber là đă xây dựng được mô h́nh đối
lập và áp dụng rộng răi vào trong khoa học xă hội
và nhân văn nói chung. Ông giới thiệu
“loại h́nh-lư tưởng” lần đầu tiên trong bài
“Tính khách quan của nhận thức khoa học xă hội và
chính trị-xă hội” năm 1904, và về sau, một cách có
hệ thống, trong quyển Kinh tế và xă hội (1918,
1920). Theo đó, loại h́nh-lư tưởng là một “h́nh
ảnh lư tưởng” hay một “h́nh ảnh của tư
tưởng” mang “tính chất của một sự không
tưởng” (Utopie), và, về cơ bản, là một
sản phẩm của sự “tưởng tượng”
(Phantasie) nhưng được “rèn luyện” và
“hướng đến thực tại”. Loại h́nh-lư
tưởng được h́nh thành bằng cách
“cường điệu một hay một số
phương diện và bằng việc tập hợp vô
số những hiện tượng riêng lẻ khá hỗn
độn và rời rạc (nơi nhiều nơi ít và có
khi không hề có) vào dưới các phương diện
được nêu bật một cách cường
điệu nói trên thành một h́nh ảnh thống nhất
của tư tưởng” (và không được có mâu
thuẫn nội tại).
Trong tính thuần túy ấy
của khái niệm, “loại h́nh-lư tưởng” hay “h́nh
ảnh thống nhất của lư tưởng” này không
thể t́m thấy ở đâu cả trong thực tại.
Nó không phải là “thực tại lịch sử”, thậm
chí không phải là thực tại “đích thực”, và
cũng không nhằm phục vụ như một “sơ
đồ” (Schema) để thực tại được
“sắp xếp vào đó như một “mẫu điển
h́nh” (Exemplar). Đúng hơn, nó
mang ư nghĩa của một khái niệm giới hạn
thuần túy có tính lư tưởng (rein idealer Grenzbegriff)
“để thực tại được đo,
được so sánh với nó, hầu làm sáng tỏ các
bộ phận cấu thành nào là có ư nghĩa quan trọng
trong nội dung thường nghiệm về thực
tại”. Ông c̣n viết : “Các
loại h́nh-lư tưởng càng được cấu
tạo một cách sắc bén và dứt khoát bao nhiêu, tức
càng xa lạ với thế giới [weltfremd] bao nhiêu, th́
trong nghĩa này, chúng càng làm tốt nhiệm vụ của
chúng về mặt thuật ngữ và phân loại cũng
như về mặt lợi ích cho nghiên cứu
[heuristisch].” Thêm nữa, v́
lẽ các loại h́nh-lư tưởng luôn được áp
dụng vào thực tại, nghĩa là, những “sự
kiện” phải được đo với chúng, nên rút
cục nếu chúng không phù hợp với “sự kiện”
th́ chúng không được xem là “bị bác bỏ”, mà
đúng hơn, chính việc sự kiện đi lệch
khỏi chúng sẽ phải được giải thích.
Trở lại với
việc sử dụng hai “loại h́nh-lư tưởng” là
“tinh thần của chủ nghĩa tư bản” và “sự
khổ hạnh bên trong thế gian” trong quyển
ĐĐTL, ta thấy phân tích của Max Weber chủ yếu
xoáy vào ba cấp độ : (a) cấp độ của các
cấu trúc kinh tế-xă hội (“chủ nghĩa tư
bản”) ; (b) cấp độ của những cá nhân hành
động (“nhà doanh nghiệp tư bản chủ
nghĩa”) và (c) cấp độ của tín ngưỡng
(“Tin lành”). Giữa các cấp độ này có
những sự trung giới (Vermittlungen/médiations) của hai
loại h́nh-lư tưởng (Idealtypen) nói trên. Ở
đây, Max Weber không đề ra một tương quan nhân
quả theo kiểu quy luật của khoa học tự
nhiên mà một quan hệ “có ư nghĩa” (sinnhafte), nghĩa là,
ông không bảo : nếu A (= Tin lành) tồn tại th́
tất yếu có B (chủ nghĩa tư bản), mà chỉ
nói : nếu A (= quan niệm thiên chức về nghề
nghiệp [Berufsethos], sự khổ hạnh bên trong thế
gian) và B (chủ nghĩa tư bản) trùng hợp với
nhau th́ có “cơ may” (Chance) là chủ nghĩa tư bản
sẽ trở thành h́nh thức kinh tế thống trị mà
không bị nhiều cản trở về mặt tinh
thần. Sự trung giới giữa cấp độ (a) và
cấp độ (c) diễn ra thông qua các tiến tŕnh
xuất phát từ cấp độ (b) và liên quan
đến cấp độ (b), tức là cấp
độ hành động của những cá nhân riêng
lẻ. Những tác nhân ấy không phải là những
sản phẩm trừu tượng của đầu óc
như các “loại h́nh-lư tưởng” mà là những con
người cụ thể, gắn một ư nghĩ chủ
quan (subjektiver Sinn – Sinn ở đây là “ư nghĩ”) vào cho hành
động của ḿnh. Khởi đầu
của một tiến tŕnh phức tạp như chủ
nghĩa tư bản tất yếu cần có các “chủ
thể xă hội” (soziale Träger). Khởi
đầu ấy không phải là đạo Tin lành, giáo
thuyết Puritanist hay giáo thuyết Calvin mà là những con
người cá biệt, có những xác tín nhất
định và chuyển chúng thành hành động.
Nhưng Weber, với tư cách là nhà xă hội học, không
dừng lại ở những cá nhân (chẳng hạn
nơi h́nh tượng Benjamin Franklin vốn được
xem như là loại h́nh-lư tưởng [Idealtypus] của con
người cá nhân tư duy tư bản chủ nghĩa) mà
quan tâm đến những nhóm xă hội, từ đó, ông
xét “tầng lớp trung lưu tư sản” như chủ
thể xă hội (Träger) hiện thân cho những “ư nghĩ”
chủ quan ấy. Những ư nghĩ chủ
quan dần dần phát triển thành một “Gesinnung”, “Ethos”,
và bản thân “tâm thế” này, đến lượt nó,
lại là “sản phẩm của một tiến tŕnh giáo
dục lâu dài”. Khía cạnh hấp dẫn nhất
đối với Max Weber là ở chỗ :
những ư nghĩ chủ quan này đă thoát ly một cách
không chủ định ra khỏi những cá nhân hành
động để biến thành những chuẩn
mực ràng buộc trong hành động (kinh tế)
thường ngày. Chỉ có tiến tŕnh “biện chứng”
giữa những động lực tinh thần (“ư nghĩ
chủ quan”) và những cấu trúc kinh tế xă hội
tự tổ chức (chủ nghĩa tư bản hiện
đại) mới làm lộ diện ư nghĩa văn hóa
của những tư tưởng (tôn giáo) (cũng tức
là làm lộ rơ chức năng “lư giải” của hai
“loại h́nh-lư tưởng” trên đây). “Ư nghĩ chủ
quan” của những người tín đồ liên quan
đến việc dùng các phương tiện để
đạt được sự cứu rỗi hay
để minh chứng việc được ân sủng ; nhưng ư nghĩ đó lại
biến thành một sự nối kết ư nghĩ khách quan
trong các h́nh thức tổ chức đang tự h́nh thành
của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
hiện đại. Chính trên miếng
đất tư bản chủ nghĩa ấy mà các ư
nghĩ chủ quan trở thành những chuẩn mực
phổ biến của hành động xă hội, và có
thể thoát ly khỏi nguồn gốc ra đời mang tính
tôn giáo của chúng. Chủ nghĩa tư bản
hiện đại, khi đă trở thành h́nh thái kinh tế
thống trị, không cần đến các xác tín tôn giáo
để “hợp thức hóa” hay “chính đáng hóa”
(Legitimation) cho nó nữa, thậm chí chủ nghĩa tư
bản có thể quay lại chống chúng. Trong những
điều kiện nhất định, chính những ư
tưởng (tôn giáo) tạo ra những tác động,
rồi những tác động này trở thành nguyên nhân phá
hủy ngay chính những ư tưởng ấy
!
Việc ư nghĩ chủ
quan chuyển hóa thành những hậu quả xă hội
(nhiều khi ngoài ư muốn và ngược lại với ư
muốn) là điều đă được Adam Smith, Kant,
Hegel… nhận thấy, chẳng hạn khi động cơ
vị kỷ của những cá nhân cũng có thể
phục vụ, hay thậm chí, là điều kiện
để phục vụ cho cái “phúc lợi phổ biến”
của xă hội. V́ thế,
như Gregor Schöllgen nhận xét : “Ở đây, đúng là Max
Weber đă đứng vào truyền thống của
triết học thực hành từ Kant đến Hegel, khi
ông luôn biết xem xét bất kỳ hành động nào
dưới hai khía cạnh : một mặt là tra hỏi
về ư nghĩa mà người hành động gán cho hành vi
của ḿnh, nhưng đồng thời, mặt khác, chú ư
đến diễn biến thật sự ra bên ngoài của
hành vi vốn không phải bao giờ cũng lường
trước được do một người quan sát
ghi nhận. Nhiệm vụ của nhà khoa học văn hóa
[nhà khoa học xă hội và nhân văn] là ở chỗ suy
nghĩ cả hai khía cạnh này một cách tổng hợp,
một nhiệm vụ mà theo Weber có
thể hoàn thành được một cách thích đáng
nhờ dựa vào loại h́nh-lư tưởng.”
Tóm lại, theo Max Weber, không
phải “những tất yếu của sự vật” hay
“những quy luật lịch sử” điều khiển
một cách đơn-nguyên nhân [monokausal] các quá tŕnh tác
động của những ư tưởng lên trên hành
động của những cá nhân và những nhóm xă hội,
mà chính những con người hành động thúc
đẩy các quá tŕnh này. Song, mặt khác,
những “ư nghĩ chủ quan” của người hành
động bao giờ cũng ra đời trên những
cơ sở vật chất nhất định. Chủ nghĩa tư bản hiện đại
không thể h́nh thành nếu không có một nền
đạo đức tương ứng với nó,
nhưng nền đạo đức này cũng không
thể được thiết lập mà không có chủ
nghĩa tư bản làm cơ sở. Với Max Weber,
hiện thực lịch sử là một hiện thực do
con người cấu tạo nên và có thể tác
động được, nhưng đồng thời
hiện thực ấy cũng là điều kiện và
giới hạn cho những khả năng hành động
của con người.
Max Weber viết
: “Chính những lợi ích (vật chất và tinh
thần) – chứ không phải những ư tưởng –
mới trực tiếp thống trị hành động
của con người. Nhưng, 'các h́nh ảnh về
thế giới' do những 'ư tưởng' tạo ra
lại rất nhiều khi giữ vai tṛ như kẻ
đặt đường ray [chúng tôi nhấn mạnh –
N.D.] để xác định con đường trên đó
động lực của những lợi ích thúc
đẩy hành động đi tới.”
Raymond Aron nhận xét
rằng, hơn bất cứ tác giả xă hội học
lớn nào khác như Emile Durkheim hay Vilfredo Pareto, cho
đến nay Max Weber vẫn có thể được coi là
một nhà xă hội học “đương thời”
với chúng ta. Theo Aron, giá trị của quyển
ĐĐTL nằm ở chỗ đă đặt ra hai câu
hỏi có ư nghĩa hết sức lớn lao.
Câu hỏi thứ nhất là một câu hỏi mang tính
chất lịch sử : các giáo phái Tin
lành hay nói chung tư tưởng của đạo Tin lành
đă ảnh hưởng mức độ nào đến
sự h́nh thành và sự phát triển của chủ nghĩa
tư bản ? Câu hỏi thứ hai là một câu hỏi lư
thuyết xă hội học : việc
“thông hiểu” các ứng xử kinh tế buộc phải
được qui chiếu về các niềm tin tôn giáo,
về nhân sinh quan của các tác nhân xă hội trong chừng
mực nào hay theo chiều hướng nào ? Theo Aron, trong
tư duy của Max Weber, không hề có sự đứt
đoạn hay ngăn cách giữa con người kinh
tế và con người tôn giáo. Chính v́ phụ thuộc vào
một nền đạo đức nhất định
nào đó mà con người bằng xương bằng
thịt trong những t́nh huống cụ thể nhất
định mới trở thành một homo oeconomicus. Raymond
Aron cho rằng công lao của Weber là
đă nỗ lực phân tích cấu trúc của hành
động xă hội nhằm phân loại các lối ứng
xử, và từ đó ông đi đến chỗ so sánh các
hệ thống tôn giáo, kinh tế, chính trị, xă
hội. C̣n theo đánh giá
của Talcott Parsons, sự đóng góp độc đáo
nhất của Weber là “đưa vào trung tâm của sự
chú ư những khía cạnh (…) đă bị che khuất trong
phần lớn các tư tưởng xă hội và kinh
tế, và cho thấy tầm quan trọng lớn lao của
những khía cạnh này đối với xă hội của
chúng ta”. Theo Aron, cho dù luận
đề của Weber có thể đúng hay sai, và cho dù nó có
thể bị phản bác đến mức độ nào
đi chăng nữa, th́ vấn đề và lối
đặt vấn đề của ông ngày nay vẫn c̣n
nguyên vẹn ư nghĩa thời sự.
xXx
Từ năm
1911, Max Weber nghiên cứu về các tôn giáo lớn trên thế
giới (Nho, Lăo, Ấn độ giáo, Phật giáo, Do Thái
giáo) như là “tiêu chuẩn so sánh” cho luận điểm về
vai tṛ của đạo Tin lành đối với chủ
nghĩa tư bản. Từ chỗ kiểm tra câu hỏi : phải chăng ở đâu không có
đạo Tin lành, cũng không có chủ nghĩa tư
bản, Max Weber phát triển thành một công cuộc nghiên
cứu toàn diện mà ông đă không thể kết thúc về
tiến tŕnh “lịch sử phổ quát” của việc “lư
tính hóa” mọi lĩnh vực đời sống trong
mọi nền văn hóa. Từ các nghiên cứu bộ
phận, nhất là từ năm 1916 khi ông đặc
biệt quan tâm đến yếu tố “giải ma
thuật” (Entzauberung) và sự “tiên tri thuần lư” của Do
Thái giáo, ông đi đến chỗ nhận định
: lư tính hóa hay hợp lư hóa là “số phận của
thời đại chúng ta” (das Schicksal unserer Zeit), v́ nó là
phổ quát (universal) và không thể ngăn cản
được (unaufhaltsam). “Lư tính hóa” theo
nghĩa rộng nhất là sắp đặt có trật
tự, có hệ thống theo những tiêu chuẩn của
con người. Nó không chỉ tác động đến các
lĩnh vực kinh tế, pháp quyền, khoa học, kỹ
thuật, tổ chức nhà nước, tức “tổ
chức bên ngoài của thế giới” mà cả các lĩnh
vực vốn thuộc về cái ǵ “phi lư tính”, “hỗn
độn”, “vô trật tự” như tôn giáo, đạo
đức, nghệ thuật, văn hóa, t́nh dục, tức
các lĩnh vực điều tiết “tổ chức bên
trong của thế giới”. Nhưng, tiến tŕnh “lư tính
hóa”, theo Max Weber, không phải là một sự phát triển
đơn tuyến (unilinear), hợp quy luật, mà luôn có
những phát triển trái chiều, đầy hiểm
họa. Ông mô tả nó bằng rất nhiều thuật
ngữ vừa tích cực vừa tiêu cực : “quản lư
chuyên nghiệp/quan liêu hóa (Bürokratisierung), “công nghiệp hóa”,
“trí tuệ hóa”, “chuyên môn hóa”, “phương pháp hóa”, “kỷ
luật hóa”, “giải ma thuật”, “thế tục hóa”,
thậm chí “phi nhân hóa” (Entmenschlichung), “vật hóa”
(Versachlichung), “phi nhân cách hóa” (Verunpersönlichung), “tước
bỏ linh hồn” (Entseelung)… V́ thế, Dirk Kaesler viết : “Một lư thuyết về hiện
đại hóa theo nghĩa một 'lư thuyết tiến hóa'
theo đó thế giới – hay ít ra là lịch sử loài
người – được tŕnh bày như một sự
tiến lên không ngừng nghỉ đến chỗ hoàn
thiện của việc thống trị thế giới
một cách lư tính là một sự ngộ nhận kỳ
quặc về toàn bộ sự nghiệp của Max
Weber.” Chính những cái “bất
ngờ”, “ngẫu nhiên”, những sự phát triển
“phản-lư tính”, “vô-nhân đạo” nơi tiến tŕnh lư
tính hóa, những cái “giá phải trả” (Kosten) của
tiến tŕnh phức tạp ấy là điều Max Weber
đặc biệt quan tâm và ông có cái nh́n tỉnh táo,
cảnh báo về nhiều nguy cơ, chứ không phải là
người biện hộ (Apologet) vô điều kiện
cho tiến tŕnh ấy như không ít người lầm
tưởng. “Tinh thần chức nghiệp”, như đă
nói, sớm tách rời khỏi cơ sở tôn giáo của nó
và từ một sự quyết định tự do lúc ban
đầu đă trở thành sự tất yếu, thậm
chí một sự cưỡng bức : “Người
Puritanist đă muốn làm một con người-nghề
nghiệp, c̣n chúng ta th́ phải làm.”
Theo một nghĩa nào đó, “lư tính ở trong lịch
sử” – như cách nói của Hegel – đă được
chứng thực trong thực tế, nhưng không phải
lúc nào cũng đồng nghĩa với “vương
quốc của sự Tự do”! Từ viễn
tượng chính trị (nhuốm màu bi quan), ông không
thấy có lối thoát ra khỏi “cái lồng của sự
lệ thuộc” (Gehäuse der Hörigkeit) , ra
khỏi việc “ấu trĩ hóa con người”
(Entmündigung), ra khỏi sự “tha hóa” (Entfremdung) ḥng làm cho
tính thuần lư – đă bị thoái hóa thành mục đích
tự thân – trở lại là phương tiện
để phục vụ cho con người và cho các quan
hệ xă hội của con người. Ông luôn lo sợ : “Trước bước tiến lên
không ǵ ngăn cản nổi của chủ nghĩa tư
bản và sự 'quan liêu hóa', không biết c̣n có thể
cứu văn phần c̣n sót lại nào đó của một
sự tự do vận động theo một nghĩa 'cá nhân
chủ nghĩa' hay không, và làm sao nền 'dân chủ' c̣n có
thể có được trong tương lai.” Chính qua các nhận
định từ rất sớm giữa khói lửa
của cuộc Thế chiến thứ nhất, Max Weber
xứng đáng là một trong những “bậc thầy
tư tưởng” (maître-penseurs) của thế kỷ XX bên
cạnh những Adorno, Horkheimer, G. Lukács… về “biện
chứng của sự Khai minh”.
xXx
Quyển sách mà độc
giả đang cầm trên tay bao gồm công tŕnh chính là
Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của
chủ nghĩa tư bản mà Max Weber viết vào năm
1904-1905 (in trong Archiv für Sozialwissenschaft und Sozialpolitik, tập
XX, 1904, quyển 1, tr. 1-54, và tập XXI, 1905, quyển 1, tr.
1-110), và có sửa chữa, bổ sung vào năm 1920. Ngoài ra
c̣n có thêm một bài mang tên là “Các giáo phái Tin lành và tinh
thần của chủ nghĩa tư bản” (Die
protestantischen Sekten und der Geist des Kapitalismus) – đây là một
bài mà Weber đă bổ sung thêm nhiều, khởi sự
từ một bài báo của ông đăng trên tờ
Frankfurter Zeitung, số ra vào dịp Phục sinh năm 1906,
sau đó bài này ông được mở rộng và
đăng trên tờ tạp chí Christliche Welt (1906) với
tựa đề là “Các giáo hội và các giáo phái” (“Kirchen und
Sekten”). Ở ngay phần đầu quyển sách này là bài
“Lời nhận xét mở đầu” (Vorbemerkung) mà Weber
viết vào cuối năm 1919 để mở đầu
cho một bộ sách gồm ba tập mang tên là Gesammelte
Aufsätze zur Religionssoziologie (Tập hợp các luận văn
về xă hội học tôn giáo) – bộ này chỉ
được xuất bản sau khi Weber qua đời vào
năm 1920. Chúng tôi dịch thêm cả hai
phần này để bạn đọc có thêm tư
liệu nghiên cứu.
Quyển sách này
được dịch từ nguyên bản tiếng
Đức, có tham khảo các bản dịch tiếng Pháp và
tiếng Anh, bởi một tập thể dịch giả
thuộc nhiều chuyên ngành khoa học xă hội-nhân văn
khác nhau bao gồm Bùi Văn Nam Sơn (triết học),
Nguyễn Nghị (sử học, văn hóa Kitô giáo),
Nguyễn Tùng (xă hội học, dân tộc học) và
Trần Hữu Quang (xă hội học). Nguyên bản
tiếng Đức được sử dụng là ấn
bản Die protestantische Ethik und der Geist des Kapitalismus của
nhà xuất bản C. H. Beck, do Dirk Kaesler ấn hành, München,
2004.
Được dùng
để đối chiếu tham khảo trong việc
dịch thuật là bản dịch tiếng Pháp của
Jacques Chavy, L’éthique protestante et l’esprit du capitalisme (suivi d'un
autre essai), Paris, nhà xuất bản Plon, 1964, và bản dịch
tiếng Anh của Talcott Parsons và Anthony Giddens, The Protestant Ethic
and the Spirit of Capitalism, London và Boston, nhà xuất bản Unwin
Hyman, 1930. Bản dịch đầu tiên ra
tiếng Anh này không có “Lời nhận xét mở đầu”
và cũng chưa có bài “Các giáo phái Tin lành và tinh thần
của chủ nghĩa tư bản”. V́ thế, chúng
tôi cũng đă tham khảo thêm bản dịch tiếng Anh
của Stephen Kalberg đối với “Lời nhận xét
mở đầu” của Max Weber (“Prefatory Remarks” to Collected
Essays on the Sociology of Religion) và bài “Các giáo phái Tin lành và tinh
thần của chủ nghĩa tư bản”, in trong
quyển The Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism, xuất
bản lần thứ ba, Los Angeles, nhà xuất bản Roxbury
Publishing, 2002.
Nhằm
cố gắng tôn trọng nguyên vẹn các ư tưởng
của Max Weber, bản dịch tiếng Việt này cũng
đă dịch tất cả các chú thích trong bản gốc.
V́ văn phong tiếng Đức của Weber đôi khi khá
dài ḍng, nên trong những trường hợp ấy, bản
dịch này đành phải cắt những câu nào quá dài thành
những mệnh đề ngắn hơn, nhằm diễn
đạt sáng sủa hơn ư tưởng của tác
giả mà vẫn cố gắng trung thành tối đa
đối với văn phong cũng như những
thuật ngữ của tác giả. Số trang ghi ở ngoài
lề mỗi trang là theo ấn bản
gốc tiếng Đức (tập I quyển Gesammelte
Aufsätze zur Religionssoziologie, Tübingen, Nhà xuất bản J.C.B.
Mohr [Paul Siebeck], 1920), để tiện trích dẫn
thống nhất theo thói quen của giới nghiên cứu
về Max Weber.
Cuối cùng, chúng tôi xin
được phép thay mặt nhóm dịch giả chân thành
cám ơn Quĩ dịch thuật Phan Châu Trinh, Nhà xuất
bản Tri thức, Tủ sách Tinh hoa Tri thức Thế
giới, ông Chu Hảo cùng tất cả những anh chị
làm việc trong tủ sách này đă ủng hộ chúng tôi
về tinh thần cũng như vật chất, hết
ḷng động viên chúng tôi hoàn thành công tŕnh dịch
thuật này. Bản dịch này chắc hẳn không tránh
khỏi những sai sót, lỗi lầm, nên chúng tôi rất
mong được quí độc giả ân
cần chỉ giáo. Chúng tôi cũng hy vọng rằng
quyển sách sẽ góp phần nhỏ bé vào việc bồi
bổ tri thức khoa học xă hội ở nước ta.
Và nếu nó gợi được một vài
ư tưởng ǵ mới mẻ chăng cho người
đọc th́ đấy là điều chúng tôi không mong
mỏi ǵ hơn.
TPHCM, ngày
24-5-2007