Leo
Gabriel, Wien
... “Để cho tôi
nhận thức được
cái ǵ nối kết
thế giới trong
chỗ
thâm để nhất của nó”...
(Goethe,
Độc thoại của Faust)
[
I ]
Có một sự
nhận thức không nhắm đến một đối
tượng nhất định hay một lănh vực
đối tượng bị giới hạn nào mà tập
trung vào sự thống nhất [hay nhất thể] của
những đối tượng, vào sự nối kết
của chúng. [Loại] tư tưởng nhắm
đến sự thống nhất ấy trước
hết phải vượt lên trên những đối
tượng và những quan hệ thường nghiệm
riêng lẻ của chúng, nghĩa là phải siêu việt lên
(transzendieren) để đạt được cái chân
trời qua đó cái Toàn bộ đi vào trong tầm
ngắm; việc đưa cái Toàn bộ “đi vào-trong-tầm-ngắm”
này chính là bản chất của tư duy lư luận.
Lịch sử tư tưởng con người, trong
triết học cũng như trong các ngành khoa học, cho
thấy có loại tư tưởng có được
mối quan hệ này với cái Toàn bộ, cho thấy tư
tưởng ấy không ngừng nỗ lực theo chiều
hướng vươn tới sự thống nhất
tối hậu và sự tổng tŕ cái Toàn bộ có thể
nhận thức được. C̣n liệu ở trong
một sự nối kết nhất định nào đó
về nhận thức, cái Toàn
bộ hiện thực (Wirklichkeit) có thể được
nắm bắt một cách khách quan như là đối
tượng (gegenständlich) hay không, lại là một vấn
đề khác; vâng, có lẽ không
c̣n là vấn đề nữa đối với ai nh́n
nhận rằng bản thân cái Toàn bộ của những
đối tượng th́ không thể lại trở thành một đối
tượng giữa những đối tượng khác
được (1).
Thế nhưng,
nếu cái Toàn bộ - với tư cách là đối
tượng -, là không thể đạt đến
được trên b́nh diện đối tượng khách
quan [như Kant nói] và dù vậy, [cái Toàn bộ] vẫn là
một chân lư mà Tư tưởng không bao giờ để
cho bị tướt đoạt đi [như yêu sách
của Hegel] (2),
th́ ắt phải đi một con đường khác, mà
mục tiêu của nó không phải là những đối
tượng nữa, trái lại, con đường ấy
dẫn ta đi ra khỏi đối tượng
để đi vào trong sự vận động siêu
việt của tư duy; sự vận động ấy
sẽ dẫn đến cái Toàn bộ của tồn
tại một cách “siêu-đối tượng”
(übergegenständlich).
Con đường
này cũng có điểm đi và điểm đến, do
đó, có hướng đi. Mục tiêu là cái Toàn bộ; c̣n
điểm đi, từ đó khởi động
hướng đi đến cái Toàn bộ, tức cái
điểm từ đó tư tưởng phải xuất phát hầu, nói chung,
có thể đi đến được cái Toàn bộ,
chính là nền móng (Grund) và,
đối với cái Toàn bộ rộng lớn nhất, là nền móng tối hậu hay
là cái “Căn cơ” (“Urgrund”).
Chỉ từ trên
chóp đỉnh cao nhất của ḥn núi mới mở ra cái
nh́n về toàn bộ cảnh quan. Công tŕnh xây dựng càng to
lớn th́ nền móng của ṭa nhà càng cần phải
được đặt sâu hơn. Cho nên, một công tŕnh
xây dựng có nhiệm vụ bao trùm toàn bộ thế
giới ắt phải có nền móng sâu nhất. Cây bám rễ thật sâu vào ḷng
đất th́ mới lớn mạnh thành h́nh thể và cành
lá sum suê. Giống như h́nh ảnh trên đây của núi,
cây và công tŕnh xây dựng đă cho thấy rơ, nền móng và
cái Toàn bộ gắn liền với nhau. Cái Toàn bộ không
thể có được nếu không có nền móng và
ngược lại, nếu không có cái Toàn bộ th́ nền
móng không đặt nền cho cái ǵ cả. Chính sự
gắn liền của chúng mới đào luyện nên
cấu trúc của tư tưởng có khả năng “khai
thông” hiện thực.
Liên quan đến
vấn đề “nền móng” hay “cơ sở” (Grund),
cần thiết nêu ra một lưu ư từ giác độ
Lô-gíc học. Theo đó, tư duy không chỉ nỗ lực
để nhận thức một đối tượng
nhất định, nghĩa là xác định nó là cái ǵ (khái niệm,
định nghĩa) và khẳng định rằng nó thực sự tồn tại (phán
đoán) mà c̣n đặt cơ sở [nêu lư do] (begründen) tại sao nó tồn tại
[như thế]. Tuy nhiên, tính toàn vẹn (Integrität) của các
cấu trúc lô-gíc nêu trên của tư duy [làm các chức
năng] xác định bằng khái niệm, phán đoán và đặt
cơ sở sẽ bị phá hủy, nếu các h́nh thức
này của [một bên là việc] kiến tạo ư nghĩa
bằng tư duy và [bên kia là việc] tŕnh bày bằng
biểu tượng bị trộn lẫn với nhau.
Tư duy làm nhiệm vụ xác định, định
nghĩa và vạch ranh giới cho một đối
tượng không thể
được đặt ngang bằng hay đánh
đồng cùng một lúc với nhiệm vụ
đặt cơ sở, bởi từ đó sẽ làm
nảy sinh một sự biến dạng (Deformation) về
lô-gíc với tất cả mọi hậu quả của nó.
Cho nên, sự phân biệt về cấu
trúc lô-gíc giữa Tư duy-căn cơ và Tư
duy-đối tượng là một tiền đề quan
trọng cho việc hiểu được h́nh thức
tư duy lư luận [có nhiệm vụ] trung giới [trung gian môi giới] (vermittelt) giữa Căn
cơ và đối
tượng.
Nhưng, chuỗi
những cơ sở [hay nguyên nhân] phải được
quy về cơ sở hay Căn cơ tối hậu
mới có thể thỏa ứng được chức năng
đặt nền móng của nó.
Không phải ngẫu
nhiên mà bất cứ nơi đâu, khi cái Toàn bộ của
tồn tại hay nói khác đi, Thế giới đi vào
trong tầm nh́n của một tiến tŕnh suy tưởng
bao trùm th́ đồng thời lại đặt ra câu
hỏi về một Căn cơ tối hậu, tức
về cái nền móng hay Căn cơ của Thế giới
(Weltgrund). Thế giới, với tư cách là sự
thống nhất hay nhất thể bao trùm, nói chung, chỉ
có thể “nắm được-cái-đúng thật”
[của nó] là từ cái Căn cơ tối hậu này mà
thôi. Cái “Căn cơ” này là cái căn cơ tối hậu,
không c̣n được đặt cơ sở từ
một cái ǵ khác hơn nữa; nó là vô-điều kiện;
vậy, tự nền tảng (im Grunde), nó là bản thân cái
Vô-điều kiện, là cái Tuyệt đối. Như
thế, cái Căn cơ và cái Toàn bộ - cái Căn cơ
tuyệt đối và cái Toàn bộ bao trùm nhất, mà ta gọi
là Thế giới [hay Vũ trụ] - tự cho thấy là
khế hợp với nhau, là gắn liền với nhau
thành một mối tương quan (Bezug), trong đó Tư
duy đạt được kích thước mô thức
trọn vẹn, tṛn đầy của ḿnh. Cái Toàn bộ
của sự hiện hữu – xét như là Thế giới
- được và phải được không ngừng t́m
cách chiếm lĩnh xuất phát từ một cái Tuyệt
đối – xét như là cái Căn cơ. Bởi v́ ta
phải tự làm cho ḿnh sáng tỏ rằng chính sự suy
tư triệt để
nhất (gründlichste) này trong một ư nghĩa tối
hậu mới mang lại nền tảng (Basis) có tính
lịch sử và tính nguyên tắc cho mọi tính thấu
đáo (Gründlichkeit) về mặt hệ thống của
Tư duy; tức tính thấu đáo được yêu sách
phải có ở trong Triết học cũng như trong khoa
học.
Quả là sự
kiện mang tầm vóc lịch sử thế giới khi
Tư duy này đă khai mở cấu trúc của nó lần
đầu tiên trong các kinh sách minh triết của người
Ấn Độ cổ đại, khi Tư duy ấy
đă triển khai ở đó trước tiên và trải
qua h́nh thái hiện thân đầu tiên của ḿnh. Chính
điều này nói lên ư nghĩa của tư tưởng
Ấn Độ cổ đại, của “những sự
máy động sớm nhất của tư duy triết
học mà ta được biết” (G.Misch) với tư
cách là khởi nguyên lịch sử của Triết học.
Không thể chối
căi rằng sự thống nhất hay nhất thể thâm
để nhất và Căn cơ tối hậu của
Thế giới là đề tài của tư biện
tối cổ Ấn Độ. Cũng là một sự
kiện có thật khi cho rằng sự tư biện này
đă ra đời trong sự kết hợp chặt
chẽ nhất với tôn giáo và đă tự phát triển
từ mối quan hệ của nó với cái Tuyệt
đối. Tất nhiên, về bất kỳ nền
triết học nào, ta đều có thể khẳng
định rằng nó gắn liền như một cam
kết với tôn giáo trong ư nghĩa thời đại
của sự ra đời của nó. Tuy vậy, mối
quan hệ này cũng cho thấy những sự dị
biệt đáng chú ư. Triết học Hy Lạp [cổ
đại] hành xử một cách biện chứng với
tôn giáo và tự phát triển từ sự đối
lập lại với tôn giáo như là một thứ “tôn
giáo khác” đă được tẩy sạch bằng lư tính
của một nền tư tưởng đă
được xây dựng thành h́nh thức khái niệm;
nền tư tưởng ấy đă tạo ra ư niệm
về Thượng đế mang tính triết học
[“Thượng đế của triết gia”] một cách
tự chủ, độc lập với tôn giáo ở trong Ư
niệm về cái Thiện (Platon) và về “cái tạo ra
Vận động mà bản thân không bị vận
động” (“der unbewegte Beweger”) (Aristote). Tư tưởng
Ấn Độ th́ lại không như vậy. Tư
biện Ấn Độ không lúc nào rời bỏ mảnh
đất tôn giáo, trái lại, đúng hơn, không ngừng
và trực tiếp nuôi dưỡng ḿnh từ những
nguồn sinh lực của mảnh đất mà nó không bao
giờ tự làm cho ḿnh bị bật rễ. Tuy nhiên,
về phía ḿnh, sự tư biện của Ấn
Độ cổ đại lại cải tạo và phát
triển cấu trúc của tôn giáo từ bên trong. Và đó chính là tiến tŕnh đă
dẫn thuyết đa thần thông qua thuyết độc
thần đến thuyết phiếm thần tiêu biểu
của Ấn Độ, tức đến sự thống
nhất hay nhất thể của Thượng đế và Thế giới. Tiến
tŕnh này – và đây là chỗ trùng hợp với triết
học Hy Lạp – đă được khởi
động bằng h́nh thức tư duy lư luận – siêu
h́nh học, bằng lối tư duy nỗ lực thoát ly
một cách tuyệt đối khỏi cái đa tạp
thường nghiệm để hướng về sự
nhất thể hóa triệt để, - tức
hướng về sự thống nhất hay nhất
thể ex radice [triệt để], hướng về
sự thống nhất từ một gốc rễ tối
hậu, hướng về một sự thống nhất
tuyệt đối của cái đa tạp từ một
nền móng tối hậu hay là từ cái Căn cơ (Urgrunde). Tư duy này khởi
động ở đâu th́ ở đó mọi sự đa
dạng, mọi tính đa tạp của thế giới
cảm tính đều rơi vào “cỗ cối xay” của
sự hoài nghi và giải thể-tối hậu. Cái thế
giới thường nghiệm này – trong tính nội tại
(Immanenz) chặt chẽ, khép kín của nó như là “thế
giới” – bị rung chuyển bởi sự trở thành
đáng ngờ của tính đa tạp đầy màu
sắc của nó, của sự phong phú những h́nh thái và
bộ mặt của nó, tức của những ǵ đă và
đang khống chế Tinh thần ngây thơ vốn
chỉ xuất phát từ cái cảm tính. Và nay th́ Tinh
thần muốn tự giải thoát ḿnh khỏi bạo
lực áp chế này của sự phong phú và muốn thu
hoạch cho ḿnh một Mô
thức (Form) về Thế giới không phải từ
cái cảm tính (Sinnliche) mà từ ư
nghĩa (Sinn). Tinh thần-phản tư đă thành công
trong việc vượt qua cái đa tạp-cảm tính
bằng sự thống nhất mang lại ư nghĩa; và,
từ cái đa tạp-cảm tính, làm cho h́nh thành nên một
cái Toàn bộ có ư nghĩa và, do đó, có thể hiểu
được, với tư cách từ nay là “Thế giới” nói chung.
Tiến tŕnh này
của sự khủng
hoảng [trong tư duy] tác động đến
thế giới của giác quan, đến kinh nghiệm
cảm tính trên toàn bộ bề rộng của nó, cho nên
cũng tác động đến cả những h́nh thái
biểu kiến [có thể trực quan được]
của những vị thần linh trong nền tôn giáo đa
thần. Khi Thần India [Thần Đế Thích Thiên], trong
một bài ca (3),
bị chế diễu như là một tay nát rượu
đang khật khưỡng v́ bị rượu (Somatrank?)
làm cho say mềm th́ bản thân tính thần linh cũng chao
đảo trong vỏ hiện tượng của ḿnh và
tiêu biến đi cùng với Ngài. Sự khủng hoảng
sâu sắc này của ư thức tôn giáo, trong đó ngay bản
thân những h́nh tượng rực rỡ nhất của
thế giới thần linh như Thần Indra - những
vị thần c̣n lại th́, trong một bài ca, thấy ḿnh
bị chế nhạo như là những con ếch (4) – cũng không được
miễn trừ, chỉ có thể được lư giải
bằng sự đột phá của một tư duy
đang kiến tạo thế giới một cách mới
mẻ, của một tư duy có khả năng và có mong
muốn trừu tượng hóa khỏi những vị
thần linh riêng lẻ ấy (5). Tư duy này mở ra buổi
b́nh minh bằng buổi hoàng hôn của những thần linh
do nó đă tạo ra, và đẩy mặt trời của
một “Thần linh” mới lên cao: ánh sáng của mặt trời ấy
c̣n tiếp tục rọi sáng chung quanh bản thân những
h́nh tượng đă tiêu trầm của quá khứ. Sau
đây, thiết nghĩ nên đi vào chi tiết để
chứng minh rằng tư tưởng đột phá ở
đây thật sự là tư tưởng thống nhất
mang tính chất triết
học và siêu h́nh học.
[
II ]
Bốn kinh tập Vệ đà
(tức Tứ
Phệ đà: Rigveda – Samaveda – Yajurveda và Atharaveda) chứa
đựng hạt nhân bên trong là các bài hát và các bài cầu
nguyện của nghi thức hiến tế trong h́nh
thức thi ca tôn giáo. Lần lượt bao bọc chung quanh
hạt nhân này giống như các lớp vỏ là: các Brähmana như là sự
giải thích về cách tiến hành các nghi lễ hiến
tế và nghi thức, các Aranyaka
[A lan nhă] hay c̣n gọi là các “kinh Sơn lâm”, tức các chiêm
nghiệm về quyền năng tác động của
thần linh được thu thập trong cảnh cô
tịch ở núi rừng và các Upanisaden
[Áo nghĩa thư], tức các suy tư từ việc
nhập định (meditierende Versenkung) vào cái tối linh
của Brahma. Như
thế, có thể thấy một chuỗi các cấp độ rơ rệt
đi từ những kinh nghiệm và khải thị có tính
tôn giáo của các thi sĩ và các nhà thấu thị hay tiên tri
của thời cổ qua con đường của sự
phản tư (Reflexion) và suy niệm-nhập định
(Meditation) dẫn đến sự khám phá hạt nhân [hay
chân tướng] của Brahma
ngay trong các Upanisaden [Áo
nghĩa thư] bằng một tính
tư tưởng có đặc điểm “suy niệm-nhập
định” riêng biệt, khác cơ bản với Lô-gíc
học-khái niệm và Biện chứng pháp của Tây
phương. Tuy nhiên, dù có các cấu trúc khác nhau về
tư duy như đă nêu, tiến tŕnh chuyển từ các
kinh nghiệm siêu việt sang h́nh thức tư tưởng trong việc tŕnh bày các khám phá
của ḿnh, về căn bản, là tiến tŕnh của
[tư duy] lư luận,
gắn kết tư tưởng Ấn Độ với
tư tưởng Tây phương. Do đó, hoàn toàn có cơ
sở để để lấy tiến tŕnh vận
động này của tư duy - với đặc
điểm là đưa nội dung kinh nghiệm vào trong
h́nh thái của suy niệm-nhập định – làm cơ
sở cho mọi nỗ lực kiến lập khái niệm
của tư biện Ấn Độ như là tiến
tŕnh nền tảng.
Điều cốt
yếu để hiểu được [tư biện
Ấn Độ] là phải lănh hội đúng đắn cái tiền đề của
tiến tŕnh tư duy lư luận-siêu h́nh học này. Cần
lưu ư rằng tư duy-suy-niệm-nhập định
(meditierendes Denken) phát xuất từ những bài ca và
những lời cầu nguyện vốn thuộc về kho
dự trữ của nghi thức hiến tế. Nghi
thức này là sự phụng hiến thiêng liêng, và, với
tư cách ấy, chính là ở chỗ nhằm hiện thực
hóa một trật tự thiêng liêng, siêu việt, tức
cũng là hiện thực hóa cái phép tắc (rtam) dâng cúng
lễ vật. Những bài ca và những lời cầu
nguyện đi kèm theo hành vi dâng hiến lễ vật và
mang lại cho hành vi này sự thỏa ứng về ư
nghĩa trong lời nói. V́
lư do đó, Lời của
những văn bản nghi lễ có sức mạnh ma
lực nhằm đạt được và tạo ra
trật tự thiêng liêng, và do đó, tạo ra trật
tự an lành cho thế giới từ bản thân cái linh
thiêng, cái Thần linh, cái Tuyệt đối, để
trong đó sự an lành của thế giới – như là cái
Toàn bộ nguyên vẹn, b́nh an vô sự của tồn
tại – được đảm bảo từ cái Căn
cơ siêu việt tối hậu. Sự đồng nhất về bản chất
này giữa phép tắc nghi lễ với trật tự
tuyệt đối của thế giới; tính cốt
yếu của việc thực thi sự đồng nhất
này nhằm bảo tồn và bảo đảm trật
tự ở trong thế giới chính là ư nghĩa sâu xa
nhất của việc cử hành nghi thức thờ cúng.
Không ngừng tạo ra và bảo tồn vững chắc
tính thiêng liêng và tính an lành cho toàn bộ Thế giới
cũng chính là việc bảo tồn sâu xa nhất và là chân
lư đúng thật của hành động thờ cúng; hành
động ấy có cả thế giới và có sự hoàn
chỉnh thường trực của tính toàn bộ nguyên
vẹn của thế giới ở trong mắt ḿnh; tính
toàn thể này lớn dậy cho hành động thờ cúng
từ mối quan hệ với cái Tuyệt đối; c̣n
cái Tuyệt đối là việc chăm sóc công cuộc
thờ cúng, là việc xây dựng và đào luyện (bilden)
thế giới trên nền tảng của cái Căn cơ
tuyệt đối, tối hậu; và “Văn hóa”
(Kultur/Bildung), xét theo nghĩa đen của tên gọi
lẫn theo nội dung của sự việc, th́, kỳ cùng
và sâu thẳm nhất, chính là ở chỗ đó.
Như thế, không
có ǵ phải ngạc nhiên khi việc phản tư-nhập
định - xuất phát từ nền móng thờ cúng này -
lại có thể đánh thức hay khơi dậy ư nghĩa và h́nh ảnh của thế giới. Hiện
tượng thờ cúng một cách thiêng liêng xoay quanh
một trung tâm, đó là xoay quanh cái Tuyệt đối,
như là hiện tượng nguyên sơ của việc
kiến tạo thế giới (Welt-bildung) và đặt nền móng cho nó
từ cái Căn cơ tối hậu đă làm cho thế
giới phát khởi lên một cách “tinh thần” (geistig: tư duy lư luận)
trước cái nh́n của người chiêm nghiệm
như là cái Tất cả-hướng-đến-tính
thống nhất, như là cái “Vũ
trụ-đại thống” (Uni-versum). Đây chính là khái
niệm sơ thủy nhất về vũ-trụ từ
tư duy thờ cúng-tôn giáo. Việc phản tư (Nachdenken)
- nhập định về công cuộc kiến tạo
thế giới bằng thờ cúng này chuyển hóa nội
dung khải thị của nền thi ca tôn giáo sang h́nh thái
tinh ṛng, sáng tỏ và minh giải của một tư tưởng về
thế giới; tư tưởng này làm nổi bật
cấu trúc của tính thống nhất, của tính chặt
chẽ nghiêm ngặt và của sự nối kết vào trong
một Cái Một “nối kết thế giới ở trong
chỗ thâm để nhất của nó” bằng sự
sắc bén riêng có của tính tư duy phản tư. Một
kết quả tất yếu là: tư duy phản
tư-nhập định - tiếp ngay sau nội dung kinh
nghiệm của ư thức tôn giáo - khởi động cái
tiến tŕnh suy tư nỗ lực vươn tới
điểm thống nhất tuyệt đối của thế
giới và bao hàm hết mọi hiện hữu vào trong
sự thống nhất tuyệt đối như là sự
thống nhất-toàn thể (Alleinheit). Tiến tŕnh vận
động này xuất hiện trong các “Bài ca nhất
thể” của Dirghatama (6), trong đó, đồng
thời với việc hạ thấp vai tṛ của những thần linh là sự
xuất hiện của một
vị Thần đứng lên trên những thần linh ấy, hay nói đúng hơn,
đă xuất hiện một tính
thần linh, tuy thoạt đầu c̣n được
suy tưởng như Một Vị Thần nhân cách cá
vị, đó là Prajàpati [“Ba
xà ba đế”], để rồi sau đó, bằng h́nh
thái khẩn trương hơn của tư duy nhập
định-trừu tượng, được diễn
tả như là Cái Một
ở trong tư biện triết học đầu tiên này.
Qua đó, toàn bộ động thái tư duy này tự cho
thấy là một động thái tư duy triết học
chính cống chứ không c̣n là một động thái tư
duy tôn giáo nữa, bởi, với tư duy tôn giáo th́ tính nhân
cách cá vị cụ thể về Căn cơ của
thế giới bao giờ cũng là nét điển h́nh và
cơ bản.
“Bài ca nhất
thể” trong Rigveda 1, 164
đạt đến đỉnh cao trong mệnh
đề sau: “ekam sad viprà
bahudhà va danti” (Cái đúng thật chỉ là Một th́
được các nhà thơ gọi tên bằng nhiều
cách) (7). Như
thế rơ ràng là nhiều
vị thần linh, tức những “pholloi theoi” (Hy Lạp)
của thi ca tôn giáo được quy về một tính thần linh duy
nhất (es theon). Ở đây, Cái Một (ekam) không
được phép bị ngộ nhận theo nghĩa “tính
từ” như một thuộc tính [tính đơn
độc, duy nhất] mà theo nghĩa “chủ từ”,
tức như là trung tâm chống đỡ hiện
thực. V́ thế mới gọi là Tad ekam, Cái Một
hay Cái Một ấy. Cái
Một đồng thời là tất cả như Bài ca Vàlakhilya (8) nhấn mạnh: Ekam va idam vi bahudhà sarvam (Cái này
cũng là Một và đă trở thành Tất cả).
Điều này chỉ có thể có được khi Cái
Một trở thành tất
cả, giống như hạt muối (9) hoàn toàn tan ră trong nước
biển nhưng vẫn được bảo tồn
ở trong đó. Và cũng chính trong đó hiển lộ
diễn tŕnh vô tận của sự sinh diệt, hiển
lộ “cái bánh xe quay từ chính bản thân ḿnh” (Nietzsche)
của vô lượng những thăng trầm, tức
diễn tŕnh thần thánh của cái natura naturans sinh ra
tất cả và đồng thời bảo tồn bằng
cách thu hồi tất cả vào lại trong chính ḿnh. Bản
chất của tiến tŕnh “trở thành” (Werden) nằm ngay
trong chỗ khởi đầu (Anfang), trong đó mọi
diễn tŕnh tiếp theo đều tự quyết cho
tới chỗ kết thúc những ǵ đă được cùng thiết định
ở trong cái khởi đầu. Một vấn đề
khó là làm sao nối kết
cái chỗ kết thúc này - tức cái đă nằm ở bên trong thế giới,
do đó, là ở bên trong sự Nội tại (Immanenz) -
với cái khởi đầu vốn nhất thiết
phải nằm ở trong sự Siêu việt (Transzendenz)
lại với nhau để đảm bảo ṿng tuần
hoàn vĩnh cửu. Chỗ khởi đầu có tính
quyết định, - cái khởi đầu “chứa-giữ” tất
cả ở bên trong chính ḿnh và “buông
thả” từ chính ḿnh
– là nguồn suối nguyên thủy (Ursprung). Như thế,
cái nguồn suối nguyên thủy này tất yếu phải
là Cái Một, giữ tất cả ở trong chính ḿnh
như trong nếp gấp không
được khai mở (eingefaltet) và [đồng
thời] Cái Một này – với tư cách là hiện thực
sáng tạo – cũng tất yếu phải là nguồn
suối nguyên thủy như là sự triển khai (Entfaltung) [nếp gấp ấy]
của cái Toàn bộ. Cho nên, Bài Tụng ca sáng tạo (10) nhấn mạnh cái diễn
tŕnh tuyệt đối của nguồn suối nguyên
thủy như là sự biến (Ereignis) sáng tạo của
tính nhất thể làm nền tảng “căn cơ” cho
tất cả mọi sự đối lập và dị
biệt, như sau: “Không phải đă từng có cái Vô (asad)
lẫn cái Hữu (sad), không phải đă từng có cái
Chết lẫn cái Sống, không phải đă từng có
Đêm lẫn ánh sáng rực rỡ của Ngày...”; như
thế tức là: những sự đối lập, từ
cái kết cấu biện chứng của hiện thực
cho đến sự đối lập nguyên thủy
giữa Hữu và Vô đều được vượt
qua v́ sự ưu ái dành cho tính thống nhất hay nhất
thể, cho sự độc thoại (Monologie) của cái
khởi đầu.
Gần như
với cùng chính những từ ấy, nhưng Heraklit đă phát biểu
điều trái ngược lại (11): “Ngày và Đêm, Tuổi trẻ
và Tuổi già, Đông và Hạ, Sống và Chết
đều là một. Bởi v́ cái này ra đời từ
cái kia và cái kia lại ra đời từ cái này khi nó
chuyển hóa”. Do đó, đây là tính thống nhất
của sự đối
lập. Sự thống nhất này – như là mối quan
hệ lưỡng cực giữa hai bản chất
đối lập, nhưng cũng là giữa hai bản
chất nhất định,
có tính đối tượng khách quan – trở nên có
hiệu lực tác động khiến cho một bản
chất bao giờ cũng tạo ra bản chất kia
từ cơ sở của sự đối lập của
nó, nghĩa là, ở trong sự
phân đôi, [trong tinh thần] “đấu tranh là cha
đẻ của vạn vật” (12). Như thế, sự
đối lập tự chứng tỏ như là nguyên nhân (khách quan) và tự
bộc lộ trong diễn tŕnh biện chứng sự dị biệt giữa
Căn cơ (Urgrund) và Nguyên nhân (Ursache).
Bởi v́ [ở đây] tiến tŕnh của sự ra
đời diễn ra một cách biện chứng như là
tiến tŕnh của các cái đối lập thuộc
về “sự vật”, nghĩa là, như chuỗi tiếp
diễn của những cái đứng đối lập
lại với nhau trên cùng
một b́nh diện, do đó, trong thực tế, là
của những Đối-Tượng (Gegen-stände). Như
thế, phép biện chứng [của Heraklit] là một
sự Trở thành ở bên trong Cái-đă-trở thành, là
sự Thiết định, hay nói đúng hơn, là sự
Thiết định-tách rời ra khỏi nhau
(Auseinander-setzung) ở trong
Cái-đă-được-tiền-thiết định, là
sự triển khai của cái Đă-được-mang
lại, là sự phân hóa của cái Duy Nhất một cách
nguyên thủy (13).
Sự Trở thành [biện chứng] này không phải là
Nguồn suối nguyên thủy đích thực, mà đúng
hơn, lấy Nguồn suối nguyên thủy này làm
điều kiện tiên quyết .[Nói khác đi], vận
động Căn cơ là
sự tạo ra (Hervorbringung) ở trong tính nhất thể
tuyệt đối, c̣n vận động biện chứng là sự gây nên [sự vật]
(Verursachung) ở trong tính nhị thể tuyệt
đối. V́ thế, chính cấu trúc nhất nguyên và
nhị nguyên là căn cứ để phân biệt giữa
Căn cơ và Nguyên nhân.
Ta đọc trong
“Tụng ca sáng tạo” (14): “Trong tính sơ nguyên nổi lên cơn gió
không có gió [chính là] Cái Một ấy (tad ekam) và ngoài nó ra,
đă không có một cái nào khác”.
Như thế, tính nhị thể đă bị loại
trừ. Cơn gió không có gió là động năng sơ
thủy của việc “trở thành” như là diễn tŕnh
không có sự đối lập; là nguồn suối nguyên
thủy như là diễn tŕnh ở trong tính nhất thể
tuyệt đối từ sự tập trung cùng cực.
Với tư cách là sự Tập-Trung, tức như là
một diễn tŕnh giữ vững trong trung tâm của sự tập
hợp nội tại, nguồn suối nguyên thủy
của thế giới là tiến tŕnh sáng tạo như có
thể được trải nghiệm ở trong tiến
tŕnh sáng tạo [của lao động] tinh thần
được chuyển trao y nguyên sang cho Vũ trụ. Do
đó, trong Tụng ca sáng tạo, sự “đan dệt
tối tăm của buổi khai thiên lập địa” –
như là nỗi khát khao nguyên thủy bất khả phân
biệt của sự sáng tạo - được liên
hệ với mănh lực của Tapa, tức của nguồn nội hỏa hay
nội nhiệt của tiến tŕnh sinh nở. Như
thế, Tự nhiên và Tinh thần – như là tiến tŕnh
sáng tạo - được ḥa quyện thành một
nhất thể cao hơn của một diễn tŕnh sơ
thủy kiến lập thế giới
“đại-thống nhất” (uni-versal). Thế giới ra
đời từ sự sáng tạo toàn bộ, trọn
vẹn (integral); sự sáng tạo ấy nối liền
Tự nhiên [vật chất] và Tinh thần thành một
thể thống nhất mang tính sáng tạo sơ thủy
ở trong nguồn suối uyên nguyên. Cho nên, ta
được dạy rằng cái “sáng tạo” một cách
tuyệt đối là nằm ngay ở trong sự tập
trung những sức mạnh của Tự nhiên và Tinh
thần. Ở trong vận động của nguồn
suối nguyên thủy, sự sáng tạo ra Tinh thần và
Tự nhiên hợp lưu vào trong “Cái Một”, vào trong cái “vertere in unum” sơ
đầu nơi tiến tŕnh “trở thành” của Vũ
trụ. Điều ấy cắt nghĩa tại sao ở
trong “Vần thơ của giáo sĩ” (15), Cái Một đạt
được một cách tư
biện lại được đồng nhất hóa
với Thần Prajàpati [Ba
xà ba đế], tức trong sự nhân cách hóa mang tính tôn giáo
về cái sức mạnh tự nhiên sinh nở này [cái “natura naturans” nói ở trên].
Tuy nhiên, tiến tŕnh
[nói trên đây] của vũ trụ như là sự ra
đời của thế giới từ Cái Một, từ
sự thống nhất của việc tập hợp
nội tại là cùng
được quy định bởi cấu trúc của
tiến tŕnh nhận thức tư biện nhập
định, bằng chính tiến tŕnh của sự
nhận thức đang nhập định, trong đó
Căn cơ của thế giới “mọc lên”, nghĩa
là khai mở ra. Trong tư biện triết học của
kinh Vệ đà, vấn đề cốt lơi là sự đồng nhất này
giữa nhận thức sơ thủy về thế giới với nguồn gốc
sơ thủy đúng thật của
thế giới, do đó, vấn đề cốt lơi là
về chân lư sơ thủy hay nguồn suối nguyên
thủy của chân lư trong Toàn bộ; về việc ra
đời của Tất cả từ Cái Một giống như sự đi vào
và khai mở ra của cái Một ở trong tinh thần
[sự nhận thức] nhập định, tư biện.
Chân lư Vệ đà – nói về thế giới của
Tất cả “mọc lên” từ sự tập hợp
nội tại bên trong Cái Một - thể hiện trong
từ Brahma. Brahma là một Nguyên-ngữ
(Urwort) mà ư nghĩa của nó không thể nào tiếp cận
được bằng bất kỳ định nghĩa
lô-gíc nào, bằng bất kỳ cấu tạo khái niệm
để quy định một đối tượng
nào. Cho nên tám ư nghĩa của từ “Brahma” do P. Derssen nêu ra (16) cũng như việc tập
hợp những quy định ư nghĩa của nhiều
tác giả khác nhau nơi G. Misch (17) đều vừa đúng
vừa không đúng. Là đúng, trong chừng mực chúng
được đ̣i hỏi như là những
phương hướng, hay có thể nói, như là những
véc-tơ lôgíc, như là một vận động của
tư duy hướng tới một sự lấp
đầy ư nghĩa siêu-lôgíc. C̣n không đúng, trong chừng
mực qua đó lại tưởng như là những
trị số có tính đối tượng khách quan
nhất định (những sự vật hay nguyên nhân) ở bên trong một hệ
thống tư duy lôgíc chặt chẽ, khép kín. Thao tác hay
động thái của tư duy này tạo nên những khó
khăn lớn cho những ai được đào tạo
trong tính lôgíc Tây phương.
Vậy, Brahma là ǵ? Brahma là từ Vệ đà linh thiêng, là “Logos”
Vệ đà, là Ngôi lời (das Wort) giải thể hết
mọi mối quan hệ đối tượng khách quan
của thế giới ở bên trong nó để cho cái
Tuyệt đối “được lên tiếng nói”. Đó
không phải là một từ khái niệm, không phải là
một từ của tư kiến đơn thuần mà là
một từ tác động,
trước hết là từ tác động cho bản thân kẻ suy tưởng với tư
cách là cái Tự ngă đang suy tưởng. Đó là một
từ [có năng lực] sáng tạo; từ ấy không
cấu tạo nên thế giới đối tượng
khách quan theo kiểu tư kiến (meinend) mà hiện thực hóa bản thân người đang
có tư kiến, người đang chiêm nghiệm và
người đang nói. Cho nên đây không phải là ma
lực lôgíc của ngôn từ như chúng ta từng biết
ở phương Tây, tức ở chỗ ngôn từ nâng
đối tượng ra khỏi khối lượng
[đa tạp] của những hiện tượng
để thực hiện chức năng biểu thị
mà là ma lực c̣n sơ nguyên hơn nữa; ma lực ấy
hiện thực hóa tinh thần [của kẻ] đang có
tư kiến và biểu thị, nghĩa là, “cho ra
đời” một cách hiện thực những ǵ vốn
là điều kiện tiên quyết cho mọi hành vi tư
kiến và biểu thị trừu tượng, như là
mối quan hệ cụ thể tận nền tảng.
Bởi lẽ quyền năng của Lời Vệ đà
linh thiêng – đă tạo ra phép tắc nghi lễ (rtam)
của thế giới từ cái Tuyệt đối trong
bối cảnh thờ cúng một cách sơ thủy – bây
giờ tự thử thách trên cấp độ của
sự chiêm nghiệm nhập định, trên cấp
độ của việc tự
ch́m sâu vào việc thám sát những văn bản tôn giáo
ở chỗ: quyền năng ấy tạo ra sự Tri
kiến (Veda có nghĩa là Tri kiến) về những văn
bản tôn giáo ở trong cái
Tự ngă cụ thể, nghĩa là không phải tạo
ra sự Tri kiến trong sự trừu tượng khách
quan hóa mà ở trong tính cụ thể tối cao như là Chủ thể tri kiến (Prăjnă
àtmà). Brahma là Lời
Vệ đà, trong đó bản thân cái Tuyệt đối
(brahma) trở thành cái
Tự ngă tuyệt đối (àtmà) bên trong người tri
kiến, bên trong kẻ thông tuệ, bên trong [người]
Brahma. Cho nên mới bảo rằng: “Brahma àtmà asmi” (Ta là
Brahma). Tính khổng lồ này của việc đồng
nhất hóa cái Tuyệt đối với Tự ngă hẳn
nhiên không liên quan đến cái Tôi riêng biệt khác với những cái Tôi khác trong
sự chật hẹp và tính bị giới hạn của
nó, không liên quan đến cái Tự ngă cá biệt vừa là tôi vừa chẳng phải là
tôi trong căn để. Đúng hơn, nó liên quan
đến cái Tự ngă chân
thật của tôi, cái Tự ngă là tôi một cách thực
sự trong sự đồng nhất với mọi Tự
ngă khác (tat tvam asi) trong
căn để tối hậu; tức cái Tự ngă
tuyệt đối (àtmà) mà nhờ đó là một với cái Tuyệt đối – tất
nhiên không phải “là một” một cách đối
tượng (khách quan) (gegenständlich) mà là một cách “nguyên
tượng” (“urständ-lich”) (như Schelling nói). Trong trường
hợp ấy, cái Tôi là đột phá khẩu, là sự
tự-khai mở của cái Tuyệt đối, là sự
trở thành hiển thị của cái Tuyệt đối
ở trong ư thức suy niệm nhập định. Ư
thức này tự làm dày lên
cho ḿnh một cách tất yếu ở trong sự
đột phá này để đi đến sự
thống nhất tối hậu mang tính bản thể,
đi đến sự tập trung cực độ ở
trong cái Tự ngă đang tri kiến. Sự thống
nhất sâu dày nhất này, sự thống nhất siêu
việt lên trên mọi tính đối tượng khách quan
này của ư thức – mà so với nó th́ sự thống
nhất siêu nghiệm của ư thức nơi I.Kant chỉ
đơn thuần là một ánh hồi quang yếu ớt
và chỉ là sự trừu tượng nhận thức
luận – chính là cái Àtmà của
tư biện Vệ đà.
Hành
vi hay tác vụ của Tự ngă tri kiến là sự
trầm tư nhập định, là sự thấy
thuần túy, là lư thuyết (Theorie) suy niệm về Cái
Căn cơ, đi ra khỏi mọi cái ǵ có tính đối
tượng mang h́nh danh sắc tướng (nàma-rùpam), [mà
như thế] nghĩa là làm công việc trung giới (vermittelt), bởi đúng là cái
Tuyệt đối (Brahma) đi đến ư thức
về chính ḿnh ở trong Tự
ngă (Àtmà) và “mọc lên” ở
trong Tự ngă. Cái “meditatio”
(sự suy niệm) tự chứng tỏ là cái “mediatio”
(sự trung giới): việc trầm tư chiêm
nghiệm như là việc trung
giới trực tiếp của cái Tuyệt đối
ở trong Tự ngă nội tại.
“Chính cái Àtma của
tôi ở bên trong nội tâm đó là Brahma. Trong đó [trong
Àtmà] và từ đó, tôi sẽ liễu ngộ sáng tỏ.
Sự xác tín này ở với ai, kẻ đó không c̣n nghi
hoặc nữa. Sàndilya, Sàndilya đă nói như thế”(18) (?).
Ở nhiều
chỗ [trong kinh hệ Vệ đà], Tự ngă
được “xưng hô” như là Con đường,
như là kẻ đă t́m ra con đường của cái
Àtmà phổ hiện [allgegenwärtig: không đâu không có, vô sở
bất tại]. “Àtmà này là con đường đi
đến tất cả. V́ qua Àtmà, ta nhận biết cái
Tất cả, giống như nhờ một dấu chân mà
ta t́m được một con người” (19). Đó là con đường,
trên đó Brahma đến
với chính ḿnh, nghĩa là, đến với Tự ngă
của ḿnh, và như thế, cái “Tự-ḿnh” (das “An-sich”)
trở thành cho ḿnh (für sich), tức trở thành Àtmà.
Con đường này là Tiến-Tŕnh (Be-wegung) nguyên thủy
đi từ Brahma đến Àtmà. Tiến-Tŕnh hay vận
động này tạo ra sự
đồng nhất giữa cả hai một cách cụ
thể và năng động; - tiến tŕnh cụ thể
hóa cả hai, làm cho cả hai gắn liền với nhau
trong sự vận động; vận động ấy
hoàn tất trong Tự-ư thức suy niệm-nhập
định và thể hiện ra trong Lời Vệ đà
linh thiêng: Brahma – Àtmà. Như thế, chữ Brahma có nghĩa là sự khai thị (Offenbarung)
hiện thực của cái Tuyệt đối ở bên
trong ư thức đang suy niệm-nhập định như
là tiến tŕnh hiện thực hóa cái Tự ngă suy
niệm-nhập định (Àtmà). Đỉnh cao của
tư biện Vệ đà là bàn về tiến tŕnh này
của lư thuyết tuyệt đối ở trong nhận
thức về Cái Căn cơ. Cấu trúc vô-đối
tượng của việc Tự-nhận thức, hay
của việc Nhận thức-Tự ngă (Selbst-Erkennen)
bằng suy niệm-nhập định này, tức của
một việc Nhận thức đồng thời là có
tính trung giới, là cấu
trúc dành cho [loại] nhận thức về Cơ
sở-tối hậu, về Cái Căn cơ. Cấu trúc này
mang đặc điểm nổi bật là tính cách Chủ thể tuyệt
đối của Căn cơ: “Ngươi không thể
nh́n thấy Kẻ nh́n của việc nh́n; ngươi không
thể nhận thức Kẻ nhận thức của
việc nhận thức” (20). Và rồi cái
trung giới cũng được nhấn mạnh
như là phương thức đặc hữu của việc trung giới ở trong
tính trực tiếp của Tự ngă này: “Kẻ, nhờ qua đó, ta nhận thức
được tất cả, th́ cũng qua đó, ta ắt nhận thức được
Người”.
Nhưng, cái Chủ
thể không thể đối tượng hóa, không thể
nắm bắt được theo kiểu đối
tượng khách quan này, tức cái Chủ thể tuyệt
đối này tuyệt nhiên không thể được thiết định (gesetzt)
như là tự ngă, như là chủ thể, như là cái Tôi
một cách tuyệt đối và trừu tượng;
chẳng hạn không được phép thiết
định như là Nguyên tắc cho sự diễn dịch
(Deduktion) của một hệ thống triết học
như nơi Descartes và trong
thuyết duy tâm cận đại từ Kant đến Hegel.
Trong các hệ thống này, sự vận động
của cái Tuyệt đối được cố
định hóa từ một đối cực, đó là
đối cực của cái Tôi và được
đưa vào tiến tŕnh vận hành theo kiểu biện
chứng-cấu tạo như là sự thiết
định tự triển khai chính ḿnh, chẳng hạn
như nơi Fichte: “Cái Tôi thiết định chính ḿnh,
rồi thiết định
chính ḿnh đối lập lại với một cái
không-Tôi; tự thiết
định như là gắn liền và bị hạn
định bởi cái không-Tôi”.
Phép biện chứng-thiết định này rơ ràng là
một hành vi phản tư có tính cấu tạo-trừu
tượng, và tuy là một phản
ánh thuần lư của suy niệm-nhập định
Vệ đà, nhưng không thể nào có được
sức mạnh nguyên thủy để tiến hành sự
trung giới vốn đă được mang lại cho ư
thức suy niệm-nhập định. Sự phản
tư suy niệm-nhập định khác với sự
phản tư biện chứng chính là ở chỗ liên quan
đến sức mạnh hay quyền năng tác
động sống động và cụ thể hóa, và do
đó, khác nhau ở độ sâu của việc khám phá
hiện thực ở trong nội dung của chúng. Cái
Chủ thể phê phán-nhận thức luận của
thuyết duy tâm cận đại Âu Châu quan hệ một cách mô thức (formal)
đối với đối tượng của nhận
thức chứ không phải đối với hiện
thực hay thực tại, do đó, tuyệt nhiên không
phải là cái Àtmà của tư biện Ấn Độ.
Chủ thể ấy - với tư cách là chủ thể
nhận thức luận – có nhiệm vụ bảo
đảm sự xác tín của nhận thức từ sự nhận thức,
nghĩa là từ khái niệm tuyệt đối về
nhận thức; và, trong chức năng ấy, với
tư cách là Chủ thể nhận thức, tất yếu
phải hướng đến đối tượng có
thể nhận thức được trong một tính
lệ thuộc về chức
năng, - và v́ thế, ở yên bên trong sự phân
liệt Chủ thể-Khách thể; điều mà ta không
thể và không được phép nói đến ở trong
tiến tŕnh [nhất thể hóa] giữa Brahma-Àtmà. Tính chủ thể phê phán-nhận
thức luận của thuyết duy tâm cận đại
càng phải gắn chặt và khai diễn (ansetzen) nơi
sự đối lập Chủ thể-Khách thể như
là cấu trúc biện chứng của tiến tŕnh tư duy
và nhận thức mang tính “cấu tạo” (konstitutiv)
bao nhiêu, th́ tính Chủ thể bị phân liệt và có tính phê
phán này càng khó đ̣i hỏi là được trở thành
cái Tự-ngă-Àtmà. Và điều này hẳn không chỉ là do
thuyết nhất nguyên nghiêm ngặt của học
thuyết Nhất thể-toàn thể [của kinh hệ
Vệ đà] vốn, với tư cách ấy, tất
yếu phải loại trừ tính nhị thể của Chủ
thể-Khách thể, mà là do căn nguyên từ lập trường (Position)
hay thế đứng siêu h́nh học. Xét như là “lập
trường” siêu h́nh học, học thuyết này kỳ
cùng bao giờ cũng đ̣i hỏi dũng khí và sự cam
kết của việc thể
nhập (Selbsteinsatz) ở trong tư duy, do đó, không
phải là việc đặt cơ sở cho Tri thức
“v́” Tri thức một cách tách rời, trừu tượng,
mà lấy Tự ngă đang tri kiến làm tiền đề đầu tiên, vô-đối
tượng và không thể vượt qua một cách cụ
thể, căn nguyên. Chính đó là ư nghĩa của học
thuyết của Yajnavalkya
về tính không thể nắm bắt được
của Àtmà (21): “Cái Àtmà
là không phải thế này và không phải thế này
(neti-neti); nó là không thể nắm bắt được, bởi
nó không được nắm bắt”. Bây giờ, từ
đó nh́n trở lại, Lời của “Tụng ca sáng
tạo” (22) trở
thành sáng tỏ: “Cho nên, bằng sự trầm tư thám sát,
các bậc thánh hiền đă t́m thấy bên trong nội tâm của chính ḿnh sợi dây
nối liền Hữu và Vô”. Lập trường
siêu-biện chứng của sự Tồn tại ở bên
trong Tự ngă-nội tại như là “Căn cơ của
thế giới ở trong nội tâm”, đó là Àtmà: Lời của Brahma đă được nói
lên một cách nguyên sơ ở bên trong tính nội tại
của Tự ngă. Trong đáy sâu thâm để nhất
của trái tim, của nội tâm, Lời được nói
lên một cách tuyệt đối; Lời nói ra điều
thực sự đúng thật như là “verbum cordis”, tức như là Chân lư tuyệt
đối cư lưu trong nội tâm: “In interiori hominis habitat veritas” (Chân lư cư lưu
trong nội tâm con người) (Augustinus). “Verbum cordis” này
không phải là cái Logos vũ trụ của triết học
Hy Lạp, mà cũng không phải là cái Logos con
người-thần linh, tức không phải cái verbum caro factum (Ngôi Lời
đă trở thành Xác Thịt) của đạo Cơ
đốc, bởi v́ Lời Brahma
tuy đi sâu hơn Logos Hy Lạp vào tận trong Tự ngă nội
tại như là Căn cơ, nhưng lại không đi
đến tận Vật chất, đến sự
trở thành xác thịt của cái Tự ngă tuyệt
đối, của việc Nhập
thể (Inkarnation) (23), mà chỉ đi đến chỗ Trở
thành-Tinh thần của Tự ngă, của việc Cảm hứng (Inspiration),
kiên tŕ ở trong một thuyết duy tâm tuyệt
đối tối hậu, ở trong một thuyết duy
linh, đối lập lại với Thân xác và với
thế giới vật chất như đối lập
lại một tính xa lạ tối hậu.
Bây giờ c̣n một
câu hỏi sau cùng nữa. Nếu Brahma ở trong Àtmà tự
lánh ḿnh khỏi việc tự nắm bắt chính ḿnh và do
đó, khỏi mọi tính có thể nhận thức
được, vậy làm thế nào phát biểu về nó
được, hoặc, chỉ có thể phát biểu
chẳng hạn bằng sự phủ định, bằng
cách nói “neti-neti” [không phải thế này – không phải
thế này] (24)? Ở
trong sự phủ định ấy phải chăng đă
có sẵn khả thể khẳng định nhất
của sự phát biểu về Brahma? Và phát biểu này có
thể thuộc loại ǵ? Chắc chắn không thuộc
loại mang h́nh thức lô-gíc, trong đó một thuộc
tính nhất định được khẳng
định hay phủ định đối với
một chủ thể, bởi lẽ tính nhị thể này
của chủ thể/thuộc tính – như là mối quan
hệ đối tượng khách quan – mâu thuẫn lại
với tính nhất thể tuyệt đối của Cái
Căn cơ. Àtmà không
phải là một chủ thể hay Chủ ngữ lô-gíc,
càng không phải là một chủ thể tâm lư học hay
nhận thức luận. Đúng hơn, nó có giá trị
như là nghịch lư:
Chủ thể tuyệt đối không c̣n phải là
một Chủ thể nữa. Điều này có nghĩa là:
Đó không phải là một Chủ thể, xét như
Chủ thể, một cách mô
thức (formal). Nó không thể được lư giải,
suy tưởng hay xuất phát như là chủ thể, v́ bản thân nó là nền móng và
điều kiện tiên quyết cho mọi tính có thể
phát biểu ra được, tức cũng cho việc
phát biểu thành chủ thể, cho việc lư giải
như là chủ thể. Bất kỳ sự quy
định nào, - kể cả sự quy định [như
là] chủ thể - đều chịu thất bại do
tính tuyệt đối làm
nền móng cho mọi sự quy định của nó; do
đó, bất kỳ sự phát biểu nhất định nào cũng đều sẽ
thất bại. Nhưng dù vậy, phải chăng trong phát
biểu hay mệnh đề về “cái Tôi” (Ichaussage)
lại chẳng tạo ra được một mối
quan hệ đặc thù với cái Tuyệt đối; quan
hệ ấy có thể phá vỡ h́nh thức của
mệnh đề từ bên trong nội dung của nó và
dẫn đến chỗ giải thể nó? Ta hăy nghe
về điều này (25): “Thoạt kỳ thủy, ở đây
vốn chỉ tồn tại một ḿnh cái Àtmà...; nh́n chung
quanh, Àtmà đă không thấy có ǵ hết ngoài chính ḿnh.
Lời đầu tiên của Àtmà là “Ta là vậy”, do đó
đă ra đời chữ “Tôi”... Như thế, rơ ràng
chữ “Tôi” đă ra đời từ sự phản tư
đầu tiên, nguyên thủy, sơ đầu, trong đó
cái Tuyệt đối, - đang phản tư về chính
ḿnh -, đi đến với chính ḿnh, nghĩa là, trở thành ư thức, thành
sự phản ánh và h́nh ảnh của chính ḿnh lần
đầu tiên và sơ thủy. Vậy, nguồn suối
nguyên thủy của Ư thức
hợp nhất với nguồn suối nguyên thủy
của cái Tôi ở trong
sự phản tư đầu tiên; cái Tôi này đi
đến chỗ tự diễn tả chính ḿnh ở trong
kết quả của việc Tự-thiết định có
tính phản tư này, của việc Tự-phản
chiếu đầu tiên này, tức của cái speculatio prima [tư biện
đầu tiên]. Theo đó, mệnh đề hay phát
biểu về cái Tôi là sự tự thiết định
chính ḿnh một cách phản chiếu được
thực hiện ở trong speculatio
prima nói trên của ư thức nguyên thủy, trong chừng
mực mệnh đề ấy t́m thấy sự thể
hiện đầu tiên và trực tiếp ở trong ngôn
ngữ. Sự thể hiện hay diễn đạt
đầu tiên, trực tiếp này của sự phản
tư đầu tiên – như là của speculario prima -
trải nghiệm sự triển khai đầu tiên trong
Lời như là Lời-nguyên thủy (Urwort) ngay ở trong
tiến tŕnh trở thành Ngôn ngữ và Âm thanh sáng tạo mà
cơ sở của nó là sự phản tư (Reflektion). Cái
Tôi và mệnh đề phát biểu của nó tạo ra
một cách nguyên thủy sự vận động sơ
nguyên của sự phản tư sáng tạo; đó là sự
phản tư bao hàm cả
tính nội tại lẫn
tính diễn đạt [ra bên ngoài]. Như thế, phát
biểu hay mệnh đề về cái Tôi hiện nguyên h́nh
là cái actus purus [hành vi hay tác
vụ thuần túy]
của sự phản tư đầu tiên trong việc lấp đầy
(thỏa ứng) và kiến
tạo h́nh thức đầu tiên về ngôn ngữ.
Trong hành vi hay tác vụ phản tư ở trong tính sơ
nguyên hoạt dụng của nó, tức trong cái Tự ngă
đang phản tư – và cả ở trong kết quả
của việc phản tư - nảy sinh ra một h́nh
ảnh đầu tiên, và qua đó, nảy sinh sự
diễn đạt đầu tiên về nguyên tắc, nảy sinh cái khởi
đầu của mệnh đề phát biểu; trong
mệnh đề ấy, việc Nói ở trong H́nh ảnh
trở thành việc kiến tạo h́nh ảnh ở trong
việc Nói. V́
thế, ta đọc (26): “Thoạt kỳ thủy, ở đây
vốn chỉ đă tồn tại một ḿnh Brahma. Brahma chỉ biết có
chính ḿnh: “Ta là Brahma”. Chính v́
thế, Brahma đă trở thành Tất cả. Ai luôn
nhận thức được điều ấy về
những vị thần linh, th́ trở
thành những ǵ ḿnh đă nhận thức. Nơi
những Rsis [những thiên nhân] cũng thế, mà nơi con
người cũng thế”.
Ở đây cái Nói vẫn c̣n là một
với cái Tồn tại. Một cách sơ thủy,
nghĩa là ở trong vận động căn nguyên
đầu tiên của tư duy, trong sự vận
động từ nền
móng, trong nhận thức về Cái Căn cơ, Nói và
Tồn tại, Tư duy và Tồn tại là ở trong tính
nhất thể và tính đồng nhất hoàn hảo, là
“quyện chặt vào nhau”, tức, là một một cách cụ
thể. Cho nên, sự đồng nhất tuyệt
đối của Tư duy và Tồn tại nằm ở
trong cái Tuyệt đối, c̣n chân lư tuyệt đối –
trong đó có sự tham dự cụ thể của Tư
duy nơi cái Tồn tại
và của cái Tồn tại ở nơi Tư duy - nằm ở trong Căn cơ.
Căn cơ (Urgrund) này tuy không tách biệt Tư duy và
tồn tại, nhưng lại quyết định sự
thống nhất và sự trùng hợp khả hữu
của chúng như là Chân lư của Tư duy (Chân lư lô-gíc) hay
là Chân lư của Tồn tại (Chân lư bản thể
học) ở trong tính nhất thể của nó.
Rơ ràng là [lối]
tư duy gắn liền với Tồn tại một cách
nguyên thủy này không thể làm cho trùng khớp
được với h́nh thức lô-gíc tuyến tính,
cũng như với một h́nh thức biện
chứng-cấu tạo. Do đó, ta đọc(27): “Với [các từ như]
“Là”, “không phải Là”; “Cái không-phải Là mới Là” hay
cả “cái không-phải Là [cũng] không Là”; tức với
cái cố định (Khẳng định), cái Vận
động (Phủ định), cả hai trong một
(tức Đề - Phản đề - Hợp đề)
hay sự phủ định gấp đôi (sự
vượt bỏ/Aufhebung (28)) th́ chỉ che lấp cửa vào”. Tuy thế,
trong mệnh đề hay phát biểu về cái Tuyệt
đối th́ chữ “Là” vẫn được gán cho
một ư nghĩa cơ bản, quyết định. Ta
đọc (29): “Cái Àtmà
không thể được nắm bắt bằng những
ngôn từ, bằng lư trí (Verstand), bằng con mắt, mà
chỉ có thể bằng chữ “Là” (asti) [Àtmà là hay tồn tại], và
chỉ qua đó bản chất chân thực của Àtmà
mới hiển lộ ra”. Chữ “Là” (asti) này không
được hiểu như là hệ từ (Copula) của
một câu nào đó mà như là sự diễn đạt
của mệnh đề tập trung nhất, như là
một Lời, trong đó nói lên tất cả những ǵ có
thể nói được. Cái “Là” này là mọi cái “Là”, làm
nền tảng cho mỗi cái “Là”. Cho nên, đúng hơn,
phải lănh hội nó như một sự tán thán, như
tiếng kêu lên của một kẻ đang ngây ngất.
“(Đó) là”: đó là sự
biểu lộ t́nh trạng ngây ngất xuất thần,
trong đó sự phong phú ngập tràn của điều
được thể nghiệm, với mănh lực
cuốn hút, sẽ t́m lấy h́nh
thức biểu hiện trọn vẹn, bao trùm cho nội dung của ḿnh, không
phải từ bên ngoài ở trong một chữ có sẵn mà
từ bên trong, một cách nguyên thủy và sơ đầu,
tự chuyển hóa ḿnh thành h́nh thức và h́nh thái ngôn
ngữ tương thích của ḿnh. H́nh thức nguyên
thủy này của việc nói ra - việc nói ra [ở
đây] là cái ǵ nhiều hơn việc đẩy một
thanh âm ra khỏi miệng, song vẫn đă là một
sự phát ngôn thô sơ đầu tiên -, mang Lời nguyên
thủy hay nguyên ngôn “Là” (asti) ra đời như là cách
diễn đạt “nói lên được nhiều nhất”
về sự tập trung nguyên thủy của Tư duy và
Nhận thức, tức của việc Nhận thức suy
niệm-nhập định, trong đó Tồn tại
“mọc lên” một cách trung
giới từ tận Cái Căn cơ. Sự tập
trung suy niệm-nhập định này, việc quán
chiếu trầm tư,
trong đó Tự ngă lặn sâu xuống vào trong sự
tự-trầm tư,
hạ xuống tới tận đáy để làm cho cái
Toàn bộ lớn dậy từ đó, chính là Học
thuyết tuyệt đối, là Học thuyết duy
nhất dẫn đến Siêu việt và có khả năng
nắm lấy Toàn bộ-tồn tại từ nền móng
tối hậu, từ Cái Căn cơ. V́ thế, ta
đọc (30): “Ai nh́n
Ngài, kẻ đó đang nh́n tất cả. Ai đă
đạt tới cái Tồn tại viên măn – [của]
người nhận thức-Tất cả (das völlig
All-Erkenner-Sein), đă đạt tới trú xứ-Brahma vô
thời gian, là nơi không có đầu, giữa và cuối,
kẻ ấy c̣n có thể đạt tới cái ǵ bên ngoài
đó nữa?”. Và, câu hỏi là phải chăng sự
hiện thực hóa việc quán chiếu ở trong Tự
ngă; - sự quán chiếu hiến ḿnh cho cái Tuyệt
đối - sẽ không cho thấy rằng không hề có
một sự quán chiếu bị
giữ khoảng cách một cách khách quan và không hề có
một sự quán chiếu giữ
khoảng cách về mặt chủ quan? Đúng thế,
ở trong Học thuyết tuyệt đối không thể
có sự phân biệt giữa chủ thể và khách thể. Ở đây, Tồn
tại sẽ trở thành sự khai thị trong nhất
thể toàn vẹn và tuyệt đối của nó, thành chân
lư tuyệt đối của cái Toàn bộ.
Chính với quan
niệm nguyên thủy lần đầu tiên đạt
được ở Ấn Độ này về Học
thuyết hay lư thuyết (Theorie) và về Chân lư tuyệt
đối của nó, tư tưởng Ấn Độ
tự gắn ḿnh chặt chẽ với nỗ lực chung
của Triết học trên phạm vi lịch sử toàn
thế giới, tức với nỗ lực của
Triết học về chân lư tuyệt đối ở trong
lư thuyết. V́ lư do ấy, minh triết của các kinh
Vệ đà là thuộc về Triết học; và bất
kỳ môn lịch sử triết học nào không xem xét
đến nó sẽ nhất định vẫn tiếp
tục ở trong t́nh trạng không hoàn chỉnh.
[III]
Tất nhiên đúng
rằng tư tưởng Ấn Độ đă đi ra
khỏi sự tư biện của các Upanisaden [Áo nghĩa thư], và bấy giờ
tự chứng tỏ như là h́nh thức sa đọa hay
suy đồi của tư biện đầu tiên này. Cho
nên, hệ thống Số
luận (Sàmkhya) và Phật
giáo – với tư cách là các hệ thống đối
lập mang màu sắc lô-gíc [Số luận] và đạo
đức [Phật giáo] đối với học
thuyết Brahma-Àtmà của Upanisaden
– đă làm cho ư nghĩa và nội dung của học
thuyết này xuất hiện ra một cách mềm dẻo
hơn nhiều. Hệ thống Số luận và Phật
giáo khác biệt rơ rệt với học thuyết nhất
thể-toàn thể về lư thuyết [của tư biện
Upanisaden] như là các mô h́nh đối lập mang tính lôgíc-phê
phán và đạo đức-thực hành. Do đó, có thể
nói rằng các học thuyết này là các phản đề
biện chứng của tư tưởng nhất thể
nghiêm ngặt của kinh hệ Vệ đà.
[ 1 ]: Hệ thống
Số luận (Sàmkhya) phủ định cái Tuyệt
đối, từ bỏ lập trường Căn cơ.
Tư duy Căn cơ được thay thế bằng
một tư duy về thế giới đối
tượng [khách quan]. Qua đó, nhất thể tuyệt
đối của thế giới đổ vỡ. Phái
Số luận đi từ thuyết phiếm thần
[của Vệ đà] sang thuyết vô thần; và với
sự kiện ấy, - giống như cũng sẽ
xảy ra với Phật giáo sau này - thuyết đa
thần dung tục lại tỏ ra ḥa hợp
được với nó. Ở đây diễn ra
bước đi từ thuyết nhất nguyên thần học
sang thuyết nhị nguyên vũ trụ học. Thế
chỗ cho Cái Một-Căn cơ giống như một
hố thẳm nuốt chửng hết mọi sự
đối lập là tính nhị thể được
khẳng định một cách tiên nghiệm, đó là
sự đối lập không thể bắt
được nhịp cầu tương giao giữa Tự nhiên (prakrtih) và Tinh thần (purusah), - một
sự đối lập giống một cách đáng
ngạc nhiên với thuyết nhị nguyên của Descartes khi phân biệt
giữa ens cogitans (bản
thể tư duy) và ens extensum
(bản thể có quảng tính). Cũng thế, trong Số
luận, phương pháp phân tích được mang ra
đối lập lại với lối tư duy nhắm
đến nhất thể nghiêm ngặt; tức,
đối lập lại với thể cách trực quan
nhắm đến nội dung về chất là một lề lối tư duy định lượng, mô
thức, “more mathematico” [theo mô h́nh toán học]. Ở
điểm này, ta lại liên tưởng đến Descartes. Và cũng v́ thế,
Số luận được mệnh danh là “hệ
thống đo đếm”. Tự nhiên và Tinh thần như
là các bản chất nguyên thủy tối hậu; mỗi
bên là một sự hiện hữu độc lập, cho
riêng ḿnh, là các sự quy định về tồn tại
khách quan không c̣n có thể quy về đâu được
nữa, là các yếu tố không c̣n tự gắn kết
với nhau nữa, và hiện thực hay thực tại tan
vỡ thành hai yếu tố ấy. Thế giới ngưng
không c̣n là một cái Toàn bộ, một cái ǵ Linh thánh, v́ nó
đă gây tổn hại cho cái Tuyệt đối, cái Linh
thiêng. Sự đồng nhất giữa Brahma và Àtmà bị
thay thế bằng sự dị biệt tuyệt
đối giữa prakrtih [Tự nhiên, vật chất] và
purusah [tinh thần]; hệ thống của tính đồng
nhất bị thay thế bởi hệ thống của
sự dị biệt.
Ở đây,
những ǵ bị dị biệt hóa ra (xem: Sơ đồ
ở cuối bài) thực chất là những ǵ đă
được nối kết và quyện chặt một
cách cụ thể ở trong nhất thể tuyệt
đối của Cái Một trước đây. Rơ ràng Brahma của Vệ đà là
h́nh thức nối kết của prakrtih, tức của Tự nhiên; c̣n Àtmà là h́nh thức nối
kết của purusah,
tức của Tinh thần và Ư thức (vả chăng, danh
hiệu purusah dành cho Àtmà cũng đă từng xuất
hiện nhiều chỗ ngay trong Yăjnaralkhya). Những ǵ đă được ḥa
trộn vào nhau ở trong nhất thể của Căn
cơ thế giới (giới Tự nhiên, prakrtih, là nữ,
c̣n Tinh thần, purusah, là nam; sự ḥa quyện mật
thiết của chúng diễn tả hành vi sinh nở, tuy
nhiên, là hành vi sinh nở, hóa dục tối cao, tạo
dựng thế gian) th́ bây giờ xuất hiện ra như
là tính nhị thể đối lập nhau của các
sự hiện hữu khách quan đă trở nên độc
lập, tách rời nhau một cách nghiêm ngặt, và v́
thế, không thể được ḥa quyện với nhau
thành bất kỳ một nhất thể nào sâu xa hơn
(bởi nếu thế, chúng phải từ bỏ tính
độc lập tự chủ khách quan của ḿnh) mà
chỉ có thể nối kết lại với nhau bằng
“con số hai”, tức một sự nối kết minh
chứng ad oculos [rơ rệt] sự phân đôi không thể nào
khắc phục được nữa giữa chúng. Do
đó, trong thực tế, khả thể tư duy duy
nhất về sự tổng
hợp chỉ c̣n là sự đo đếm về
số lượng, tức sự tổng hợp “more
mathematico” [theo mô h́nh và phương pháp toán học].
Tuy nhiên, bản thân
một “hệ thống” như thế, một hệ
thống lấy phương pháp phân tích làm nguyên tắc của ḿnh, rút cục cũng nhân danh
hệ thống để phải nỗ lực
hướng đến một sự tổng hợp,
một cái nh́n toàn bộ, thống nhất, cho dù tạo ra
phương cách chống lại chính [nguyên tắc của]
ḿnh, điều này đủ chứng minh rằng: Tư
duy, trong chức năng lư luận, càng phải nghĩ
tới sự thống nhất hay nhất thể nghiêm
ngặt của mối liên kết chặt chẽ, nói
ngắn, tới việc xây dựng cái Toàn bộ
đến như thế nào. Song, trên b́nh diện
đối tượng khách quan, như đă thấy, cái
Toàn bộ ấy không thể nào đạt được
về mặt nội dung mà
chỉ về mặt mô
thức trong h́nh thức của việc đo
đếm, như là sự cộng dồn lại, như
là sự chồng chất lên mà thôi. Hậu quả là,
một tư duy như thế nhất định sẽ
đi đến chỗ kết thúc ở trong thuyết
nguyên tử luận. [Nhưng] tư tưởng Ấn
Độ c̣n được quy định quá mạnh
bởi tư tưởng về sự thống nhất hay
nhất thể về chất
của thế giới để có thể chịu kết
liễu trong sự trừu tượng về lượng đối
với thực tại như được tŕnh bày trong
thuyết nguyên tử luận. Cho nên, trong hiện thực
cụ thể, đan quyện với nhau, sự
đối lập giữa vật chất và tinh thần có
nghĩa là một chuỗi nối kết và pha trộn
giữa các yếu tố thù địch nhau ở trong
hiện thực. Và do đó, nhiệm vụ của tư
duy phân tích là tách biệt chúng ra. Sự pha trộn làm
nảy sinh một số lượng lớn những h́nh
thức pha trộn hay trung gian giữa vật chất và
tinh thần: một dải rất rộng những
loại h́nh vật chất hầu như có thể phân
biệt được theo kiểu phân tích quang phổ
với sự bổ sung của yếu tố tinh thần khác nhau về
mức độ, chẳng hạn như 18 lời dạy
của Lïngam (Edukte des Lingam) (?), tạo nên sự nối
kết giữa thân xác và linh hồn. Thông qua những sự
nối kết này, Tinh thần bị phân liệt thành
một số lượng lớn những chủ thể
con người. Trong khi Tinh thần tự cá thể hóa thành
số lượng lớn những chủ thể hữu
t́nh, hữu thức về mặt tinh thần, th́, cho
tất cả những chủ thể này, chỉ có một giới Tự nhiên làm
đối tượng của ư thức và của cảm
giác.
Giới tự nhiên
tự phản chiếu ở trong ư thức. Chức
năng phản chiếu này (diese spiegelnde Funktion)
được xem như là bản chất của tinh
thần. H́nh ảnh phản chiếu thường
được đặt ngang hàng với bản thân purusah
(tinh thần), với con người hay với
người đàn ông. Như thế, cũng trong sự
nối kết này, việc phản chiếu thuần túy
(Speculario/tư biện) được đề cập
đến như là thành tích của tinh thần trong quan
hệ với giới tự nhiên. Song, cảm giác về
sự đau khổ (Leiden)
và đau đớn (Schmerze) thiết yếu gắn
liền với sự phản chiếu thuần túy “thụ động”. Nếu
ta muốn loại bỏ sự đau đớn ra
khỏi thế giới, th́ tất yếu phải loại
bỏ cảm giác hữu thức; nhưng điều
ấy có nghĩa là: tháo bỏ sự nối kết
giữa tự nhiên và tinh thần, giải thoát tinh thần
ra khỏi tự nhiên. Sự tách rời này tác động
ngay trong thân xác riêng của ta, làm cho thân xác trở thành
vô-cảm giác và hoàn toàn không đau đớn; dành hoàn toàn
cho tự nhiên sự tác động vô-ư thức của nó,
trong khi tinh thần, - tách rời khỏi tự nhiên -, có
thể phát huy những sức mạnh riêng, độc
lập và những khả năng tác động của
ḿnh; tức phát huy những ǵ vốn đă bị ḱm hăm
trong việc gắn kết với thân xác. Phái Yoga đă phát triển con
đường dẫn đến mục tiêu này thành Phương pháp. Phái Số luận (Sàmkhya) vẫn
c̣n suy tưởng về sự tách rời được
đ̣i hỏi này của tinh thần ra khỏi tự nhiên
như là một sự
giải thoát của Tự nhiên ra khỏi tinh thần, v́
tinh thần, thông qua ư thức, mang cảm giác và đau
đớn thêm vào cho tự nhiên. Nhờ sự giải thoát
này, giới tự nhiên trở thành hiện thực
độc lập, vô-ư thức, tự tồn theo quy luật
riêng của ḿnh, đối lập lại với tinh
thần, - tức một
bước ngoặt tự nhiên chủ nghĩa. Đàng
sau quan niệm này về sự nối kết bất
tất và có thể tách rời được giữa
thể xác và linh hồn cũng như về khả thể
của sự nối kết và tách rời luân phiên giữa chúng
là cái bối cảnh dẫn đến học thuyết
nổi tiếng về sự
luân hồi của linh hồn, một quan niệm về
mối quan hệ hồn-xác nhấn mạnh thuyết duy
linh của tư tưởng Ấn Độ.
[ 2 ]:
Có sự đối lập nhất định nhưng
cũng có mối liên hệ về nội dung với
học thuyết Số
luận cổ xưa hơn ấy, ta thấy học
thuyết về sự giải thoát trải qua bước
ngoặt nhân loại học
và đạo đức
học ở trong Phật
giáo. Không phải là sự giải thoát của giới
tự nhiên mà là của Tự ngă, của tinh thần cư
ngụ ngay trong con người, tức sự tự-giải thoát ra khỏi
triền phược thế gian là điều cần
phải đạt tới theo một con đường
của lối sống đạo hạnh mà đức
Phật Gautama, đấng Giác ngộ, đă chỉ ra.
Sự giải thoát này chỉ có thể đạt
được bằng việc phủ nhận triệt
để sự hiện hữu (Dasein), như là việc
phủ nhận sự tồn tại ở trong thế gian.
Thật thế, hiện hữu, ngay khi sinh ra, là sự
đi đến-thế gian, và, trong kiếp sống, là
sự tồn tại-trong-thế gian của con
người. Ngay
từ khi sinh ra, sự hiện hữu đă bám rễ vào
thế gian, v́ thế, tự ngă con người, tinh
thần con người, nếu muốn đi đến
với chính ḿnh, phải làm cho bị bật rễ ra
khỏi thế gian, tức ra khỏi sự hiện
hữu. Ở đây, nơi đức Phật, tuy cũng
phiến diện và với ngữ điệu tuyệt
đối, đă nói lên được khả thể
lẫn sự tất yếu của sự tồn tại
đạo đức của con người, trong chừng
mực con người, chính với tư cách là hữu
thể đạo đức, phải triệt để
đặt sự hiện hữu của riêng ḿnh ở nơi
chính ḿnh, ở nơi sự quyết định của chính
ḿnh, phải kiến lập sự tự trị
đứng lên trên tự nhiên và thế gian để
trở thành người
một cách chân thật trong cái tồn tại-tự ngă. Cho
nên, đối lập với học thuyết về
nhất thể-toàn thể giữa tự nhiên và tinh
thần đang ngự trị như ta đă biết trong
thuyết nhất nguyên phiếm thần của Vệ
đà, để “giải thoát” cái tự ngă chân thật ra
khỏi sự đan quyện của tự nhiên mang màu
sắc tôn giáo-phiếm thần này, tất yếu phải
đi đến chỗ phủ nhận triệt để
thế giới. C̣n để đối lập với
việc hiện thực hóa về lư thuyết ở trong cái
Tự ngă tri kiến (prăjnă àtmà) [của tư biện
Vệ đà] phải ra đời một sự hiện
thực hóa chính ḿnh mang tính thực hành-đạo
đức. Cũng thế, để tương ứng
với thuyết lạc quan và thuyết thực chứng
của học thuyết nhất thể-toàn thể [Vệ
đà] cùng với nền huyền học về tự nhiên
của nó, trong bước ngoặt nhân loại
học-đạo đức cũng phải có một
thuyết bi quan phủ nhận thế gian và thuyết
phủ định cũng triệt để không kém. Phái
Sàmkhya (Số luận) đă tạo ra bước đi
sơ khởi cho thái độ này. Như thế, Niết
bàn (Nirvàna) Phật giáo là mục tiêu của một sự
vượt bỏ từng bước sự hiện
hữu của con người trong sự nối kết
của thế giới; con người đạt
được khả thể của việc tồn
tại-tự ngă của con người chính ở trong
sự không-tồn tại hơn là trong sự tồn
tại, v́ đó là cái phải bị “hư vô hóa” đi (“genichtet”) (để dùng
một thuật ngữ thịnh hành của triết
học hiện đại, v́ cách diễn đạt này
cũng ngụ ư về một mối liên hệ lịch
sử lư thú).
[ 3 ] Vấn
đề của chúng ta ở đây là làm rơ vị trí ngự trị
của học thuyết nhất thể-toàn thể của
Vệ đà ngay trong ư nghĩa của nó đối với
các hệ thống lư thuyết và thực hành muộn hơn
và phụ thuộc vào nó. Vả lại cần nói ngay
rằng lịch sử tư tưởng Ấn Độ
đă cho thấy rằng thuyết
duy vật – trong triết học Hy Lạp và nhất là
trong triết học cận đại đă đạt
được chỗ đứng đầy ảnh
hưởng ở Tây phương – đă chỉ có khả
năng gây được những làn sóng yếu ớt
trong tư tưởng Ấn Độ, mặc dù trong
học phái Càrvàka, thuyết
duy vật đă tạo ra được một khái
niệm nhận thức duy cảm và khái niệm về
thực tại giới hạn trong phạm vi thế
giới vật thể.
Với sự canh tân
của tư biện Vệ đà trong học phái Vedànta, học thuyết
Brahma-Àtmà đă được xây dựng thành một
hệ thống kinh viện truyền thống, trở thành
mẫu mực cho mọi thời sau. Trong hệ thống này,
thuyết nhất nguyên được tăng cường
theo phương cách cấu
tạo-duy lư: giới Tự nhiên có thể tri giác
được một cách cảm tính, xét như toàn bộ
những hiện tượng – mà vị trí đặc
biệt của nó đă được đẩy lên quá
căng trong phái Số luận (Sàmkhya) cũng như phái
Càrvàkas (phái duy vật) trước đó – nay lại bị
hạ thấp xuống trở thành ảo tượng
(Schein) và bị xem như là lớp màn đầy màu sắc
của sự lừa phỉnh, tức như là Màyà (màn vô minh).
Nếu ta xem xét
trở lại “sự khai diễn của tư
tưởng Ấn Độ ở nơi chủ thể”
(G. Misch), th́ có vẻ thật cần thiết phải làm rơ
một cách tóm lược ư nghĩa của “sự khai
diễn” này.
Đặc
điểm của sự khai diễn này là mối quan
hệ của chủ thể với cái Tuyệt
đối. Quan hệ này không phải là quan hệ với
một đối tượng mà với nền móng tối
hậu, hay với Căn cơ (Urgrund) của thế
giới. Từ “Căn cơ” hay “lư do” này, chủ thể
không phải là một đối tượng nhất
định, có thể nắm bắt được
bằng khái niệm, mà, xét như là chủ thể, đi
xuống “tận-đáy”, [tức] tự giải thể hay
tiêu vong đi thành cái hư vô khách quan của nền móng cho
mọi đối tượng. Như thế, cái hư vô
này đồng thời là sự phong phú, sung măn của
tồn tại được làm dày lên ở trong mầm mống,
là sự tồn tại của cái khởi nguyên hay nguồn
suối nguyên thủy như là Căn cơ tối hậu
của tất cả. Đó là “tồn tại”, song là
“tồn tại” của một tiến tŕnh thuần túy, qua
đó tất cả xuất hiện ra từ nhất
thể tối hậu bất phân như từ một
mầm mống (“hạt mầm vàng”), nhưng lại đi
xuống-tận-đáy, không phải trong nghĩa của
một sự tiêu hủy, mà của một sự khép
lại trong nếp gấp và sự bảo tồn trong
nhất thể của Căn cơ. Điều này có giá
trị cho tất cả những ǵ cấu tạo nên thế
giới trong sự khai triển thành tính đa tạp
của cái hiện thực. Song, bước chuyển,
bước quá độ từ trạng thái nguyên thủy
của sự tồn tại-được-khép
lại-trong nếp gấp sang trạng thái tiếp sau
của sự tồn tại-được-khai triển
của tất cả là một bước nhảy (ein Sprung),
rơ hơn, là “bước nhảy” hay “nguồn suối”
nguyên thủy (Ursprung). Tuy
nhiên, vận động của bước nhảy hay
nguồn suối nguyên thủy ngay trong sự triển khai
ra th́ bao giờ cũng là một sự vận động
trở ngược về lại với cái Căn cơ mà
từ đó nó thường trực được tạo
ra, bao giờ cũng ở trong một sự quy
hướng (Rückbeugung) liên lĩ về cái nền móng, trong
một sự phản tư, mà v́ lẽ nói trên, trở thành
đồng nhất với tiến tŕnh triển khai, phát
triển sáng tạo của thế giới. [Nhờ] như
thế mà ṿng tuần hoàn của tự nhiên, của sự
sinh diệt, của sự trở thành miên viễn
được cắt
đứt, được giữ chặt lại trong
nguồn suối nguyên thủy như trong trung tâm của nó,
và, như vậy, cái toàn bộ của tồn tại,
với tư cách là thế giới khả niệm [có thể suy tưởng
được] thoát khỏi sự diệt vong. Toàn bộ
thế giới thường nghiệm của tính đa
tạp chỉ có được sự tự tồn chân
thực và hiện thực, bởi đó là sự tự
tồn tuyệt đối là ở trong mối quan hệ
với nhất thể tuyệt đối thông qua sự
khép lại trong nếp gấp (Einfaltung) ở trong cái
Căn cơ. Do đó, thực tại hay hiện thực
chân thực tự quy giảm vào hạt nhân trung tâm của
cái Tuyệt đối phản tư đơn độc
về chính ḿnh, vào cái Căn cơ khả niệm của thế giới.
Điều này có nghĩa rằng, thế giới, xét
như cái toàn bộ, được quan niệm một cách
thần học, được suy tưởng từ cái
Tuyệt đối. Điều này có nghĩa là một ư
niệm thần học, nhưng trong đó, ư niệm
về giới tự nhiên sinh nở-sáng tạo với ṿng
tuần hoàn của sự sinh diệt đă được
xử lư bằng tư
tưởng. Ta thấy một sự nối kết
giữa ư niệm thần
học với ư niệm vũ
trụ học, song trong đó ư niệm thần học
giữ vai tṛ chủ đạo và quyết định.
Vậy, đối với ư niệm nhân loại học th́ như thế nào?
Chúng ta đă
đề cập đến cả ba ư niệm mà trong
thực tế tạo nên các chủ đề cơ bản
cho mọi môn Siêu h́nh học có tính hệ thống, đó là
các chủ đề: Thượng đế, con người
và giới tự nhiên nhằm minh chứng rằng ngay
cả trong tư tưởng siêu h́nh học cổ xưa
nhất, tính “tam vị nhất thể” này vẫn
được giữ vững. Cách thức kết hợp
(Kombination) các ư niệm này – có lẽ đúng hơn nếu
dùng chữ “hợp thành” (Komposition) – xác định cấu
trúc nội dung của bất kỳ hệ thống siêu h́nh
học nào, tức xác định tính chất thần
học, nhân loại học và vũ trụ học của
nó.
Đối với
câu hỏi về sự xem xét ư
niệm nhân loại học (anthropologische Idee) trong siêu
h́nh học Ấn Độ, ta đă lưu ư đến
vị trí riêng biệt của chủ
thể trong nền siêu h́nh học ấy. Đâu là ư
nghĩa của vị trí chủ thể ngay ở trong
mối quan hệ với cái Căn cơ, trong quan hệ
với sự vận động-căn cơ của
nguồn suối nguyên thủy, trong mối quan hệ
với diễn tŕnh tuyệt đối của thế
giới. Diễn tŕnh tuyệt đối của thế
giới đạt tới sự khai thị của nó
ở trong chủ thể về mặt nhân loại học;
và điều này diễn ra trong tri kiến, trong tri kiến
tuyệt đối và trung giới trong tính trực tiếp
của tri kiến này ở trong Tự-ư thức. H́nh
thức trực tiếp, bao trùm toàn thể này của tri
kiến đi từ sự tập hợp tối hậu
của tự ngă vào cái Căn cơ dẫn đến
việc tự-trầm tư
của sự phản tư nguyên thủy chính là sự suy
niệm-nhập định (Meditation) được
tiến hành, v́ thế, sự suy niệm-nhập
định cũng đồng thời là sự trung
giới (Mediation) của cái Căn cơ. Trong việc suy
niệm-nhập định, ta có h́nh thức đầu
tiên và sơ thủy nhất, tức là có h́nh thức nguyên
thủy (Urform) của lư luận. Tính nguyên thủy nằm
ở chỗ trong đó chưa có sự phân biệt
giữa chủ thể và khách thể, v́ việc tự-trầm tư có tính suy
niệm-nhập định có nghĩa là, trong tự ngă
đang tri kiến, cái Toàn bộ của tồn tại
từ Căn cơ tối hậu, tức Brahma
được khai mở ở trong Àtmà, và như thế,
cái Tuyệt đối có thể được khai
triển ở trong trực
quan. Cho nên, sự suy niệm-nhập định này
diễn tả nguồn suối nguyên thủy của ư
niệm thuần túy như là cái nh́n (Schau) trực quan, bao
trùm, chưa được triển khai, đứng ở
khởi nguyên như là hạt
mầm của một hệ thống tư tưởng
sẽ được triển khai ra từ đó.
Chân lư tuyệt
đối không thể có được nếu không có
mối quan hệ với cái Tuyệt đối và Lư
luận (Theoria) không thể có được nếu không có
mối quan hệ với Thần [luận] (Theos),
điều này được minh chứng hết sức
rơ ràng ở trong tiến tŕnh nhận thức suy
niệm-nhập định đă mở màn vào lúc khởi
nguyên của triết học trong tư tưởng Ấn
Độ. Tiến tŕnh vận động tư duy của
sự suy niệm-nhập định thoát thai từ
mối quan hệ với cái Tuyệt đối này
đồng thời là một tiến tŕnh “sinh tồn”
(existentielle) [nhân loại học], bởi trong đó, tự
ngă – trong hành vi tri kiến - được hiện thực
hóa như là cái tồn tại đang “nắm bắt hay quán
thông” (“begreifende”) tất cả ở trong chính ḿnh. Nói khác
đi, ở trong tri kiến nguyên thủy này, không chỉ
sự phân liệt chủ thể-khách thể
được vượt bỏ mà cả sự phân
biệt muộn hơn giữa bản chất (Sosein) và
hiện hữu (Dasein) (distinctio inter essentiam et
existentiam/latinh: sự phân biệt giữa bản chất và
hiện hữu) cũng được vượt bỏ.
Song, cũng không
thể nói tới hệ thống Sàmkhya (Số luận) và
đạo đức học Phật giáo mà không có sự
suy niệm-nhập định. Trong Sàmkhya, chủ thể
tuyệt đối trở thành chủ thể tuyệt
đối được thoát ly, nghĩa là
được tách rời khỏi giới tự nhiên,
để cho nó, như là tấm gương tinh thần hay
tinh thần phản chiếu, không c̣n mang ư thức và
cảm giác khổ đau thêm vào cho giới Tự nhiên
nữa, trái lại, đạt được tính
độc lập-tự chủ của ḿnh trong việc
phát huy những sức mạnh tâm lư của riêng ḿnh. Và phái Yoga vươn tới
việc tự-nhận thức bao điều chưa
biết cũng như sự tự quyết tự do có ǵ
khác hơn là sự tu tập có phương pháp về sự
suy niệm-nhập định này. Đó là thái độ và
sự tu tập suy niệm-nhập định mà cả
đức Phật và những môn đồ của Ngài
cũng thực hành để, từng cấp từng
cấp một, thoát ly khỏi hiện hữu, rơi vào
bề sâu của hố thẳm của chính ḿnh, rơi vào
cảnh cô tịch tuyệt đối, hoàn toàn của
tự ngă cô độc; tự ngă ấy, trên con đường
của ư thức sáng suốt, phá hủy mọi ràng buộc
của dục vọng (samskàràh), và, do đó, vượt ra
khỏi sự hiện hữu bị cầm tù trong dục
vọng để đạt đến một trạng
thái siêu thức của việc thoát ly, đến một
trạng thái diễn tả mục tiêu rốt ráo của
một sự tự-thực hiện siêu cá nhân. Nếu phái
Sàmkhya (Số luận) đă chỉ ra rằng cái tự ngă
tự-cá-thể hóa như thế nào thông qua việc dính
mắc vào giới tự nhiên vật thể, th́ đức
Phật chỉ ra con đường để vượt
bỏ sự cá thể hóa này bằng cách phủ nhận
triệt để sự hiện hữu trần gian và
tự nhiên v́ một sự tồn tại-tự ngă
tuyệt đối. Mục tiêu đích thực của
đạo đức học Phật giáo là sự
Tự-thoát ly này. Và phải chăng đó chẳng phải
là nỗ lực của Àtmà cố quay trở về lại
với trú sở Brahma của ḿnh, trở thành nhất
thể trọn vẹn với cái Tuyệt đối
như đă thể hiện trong các kinh Upanisaden; đó
cũng là một bước đạt tới một
sự hiện hữu được thoát ly, tới
với sự “xuất thần nhập hóa của hiện
hữu”? Đó là sự xuất thần thần bí, như
là h́nh thức sống vừa tôn giáo vừa đạo
đức; h́nh thức sống của việc “tập hợp”
tâm hồn trong khấn nguyện và hiến tế, tức
trong hành vi tôn giáo của sự thờ cúng. H́nh thức
sống này đă dẫn sự nhận thức ở trong
suy niệm-nhập định đến đỉnh cao
một cách căn nguyên, để từ đỉnh cao
ấy, sự nhận thức có năng lực trở thành
lư luận tuyệt đối, tức cái lư luận
vượt lên trên b́nh diện thường nghiệm,
đưa được cái phổ biến, sự
thống nhất hay nhất thể của tất cả,
vũ trụ chân thực và cái Toàn bộ của tồn
tại vào trong tầm mắt. Đó cũng là sự
xuất thần tương tự mà bây giờ, nơi
đức Phật, khi theo đuổi một lối
sống thực hành đạo hạnh, nghĩa là, theo
một phương pháp luận đạo hạnh có ư
thức, sẽ dẫn đến mục tiêu là sự
tự-đắm ḿnh vào trong Căn cơ tối hậu,
vào trong hố thẳm của Niết bàn. Việc
tự-đắm ḿnh trở thành hành vi tự-đắm
ḿnh. Trong các
kinh Vệ đà, điều này tạo ra lư thuyết
tuyệt đối, c̣n nơi đức Phật mang
lại sự hiện hữu tuyệt đối như là
h́nh thức cuộc sống đạo hạnh.
Bức tranh toàn
cảnh về thực tại theo nghĩa triết học
cũng như tư duy hướng đến nhất
thể nghiêm ngặt của khoa học quay trở về với
nguồn suối nguyên thủy của lư thuyết tuyệt
đối [như vừa tŕnh bày ở trên] là một h́nh thức của lư
luận. Bất kỳ nền Đạo đức
học nào xứng đáng với tên gọi ấy cũng
phải vượt ra khỏi những điều kiện
thường nghiệm của hành động và nỗ
lực t́m ra những nguyên tắc phổ biến, nhưng
qua đó, cũng không hiếm khi tạo ra một sự mâu
thuẫn giữa lư tưởng đạo đức
được nhận thức cùng với yêu sách về
tính phổ quát tuyệt đối của nó với
những điều kiện thường nghiệm của
hành động: đó là sự mâu thuẫn quen thuộc
giữa Lư tưởng và Hiện thực. Cũng hiếm
có một nền đạo đức học nào thử
giải quyết mâu thuẫn này bằng cách phủ nhận
tuyệt đối hiện thực thường nghiệm
như là đạo đức học Phật giáo; tuy nhiên,
một sự phủ nhận tương
đối bằng nguyên tắc cao hơn của cái
“Phải là” (Sollen) của sự cam kết đạo
đức là điều không thể tránh khỏi. Song, chính
do tính triệt để của tiền đề của
nền đạo đức học này [đạo
đức học Phật giáo] mà hiện tượng
đặc thù riêng có của Đạo đức
đạt tới sự diễn tả đặc biệt
ấn tượng ngay trong đạo Phật, tức
hiện tượng mà Kierkegaard
đă nêu rơ đặc điểm như là cái
Vô-điều kiện và cái Phổ quát qua sự xác
định thế nào là “đạo đức”.
Cái Phổ quát-phổ biến trong lư luận và thực hành
cùng với toàn bộ tính triệt để của yêu sách
của nó về tính độc lập-tự chủ và
về ư nghĩa riêng biệt được diễn
đạt đầu tiên và căn nguyên ở trong triết
học của Ấn Độ cổ đại. Chúng ta
đă nói rằng trong nền tư tưởng này, lư
luận đă có được khởi nguyên đầu
tiên của ḿnh, và, rơ hơn, ở trong h́nh thái nguyên
thủy, chưa bị phân biệt; h́nh thái ấy tập
hợp cái Toàn bộ và cái Căn cơ, chủ thể và
khách thể, bản chất và hiện hữu, Nội
tại và Siêu việt vào một điểm, tức vào
một điểm Archimède, vào điểm “nối kết
thế giới trong chỗ căn để nhất
của nó”, vào cái Tuyệt đối. Không hệ thống
nào có thể thiếu được cái Tuyệt
đối, nhưng cái Tuyệt đối cũng không
thể được đưa vào một lần cho
tất cả [nhất thành bất biến] ở trong
bất kỳ hệ thống nhận thức khách quan có
phạm vi quá rộng nào cả, v́ lẽ cái Tuyệt
đối là nền móng và tiền đề làm cơ
sở cho mọi hệ thống và mọi ngành khoa học
không chỉ về mặt lịch sử như ta đă
thấy trong triết học Ấn Độ, mà c̣n về
mặt nguyên tắc
nữa. Do đó, mọi hệ thống đều có mối liên quan (relativ) với
cái Tuyệt đối, song, chính ngay ở trong mối liên
quan này với cái Tuyệt đối mà mọi hệ
thống đều có phần tham dự vào chân lư tuyệt
đối. Việc phát hiện ra mối liên quan với cái
Tuyệt đối như là nền tảng cho tư duy
triết học và khoa học là thành tích bất hủ và là
cống hiến của tư tưởng Ấn
Độ.
[
IV ]
Bên cạnh mối
liên kết chung trong việc đặt nền tảng cho
h́nh thức nguyên thủy của lư luận, tư
tưởng Ấn Độ c̣n có một mối gắn
kết đặc biệt với sự phát triển
[triết học] của Châu Âu cận đại. Sau khi Descartes (với các
đường dây nối kết rơ rệt với tư
tưởng của Augustinus)
đă phát hiện điểm Archimède trong tự-ư thức
của cái Tôi tư duy (trong cái “cogito ergo sum”/“tôi tư duy
vậy tôi tồn tại”), việc tiếp tục đào
sâu hơn về tiền đề tư tưởng này
của Descartes trong “Phê phán Lư tính thuần túy”
của I. Kant đă mở
ra cả một cao trào các hệ thống triết học
dưới tên gọi là “thuyết duy tâm Đức” với
Fichte, Schelling và Hegel
thuộc về lịch sử của triết học tây
phương. Schopenhauer
bản thân cũng đứng trong cao trào này, đầy
ḷng thán phục đối với “các quan niệm hầu
như vượt khỏi sức người và sau đó
được lưu lại trong các kinh Upanisade của kinh
hệ Vệ đà” (31), đă nhận ra mối liên kết nội
tại trong phương hướng cơ bản giữa
hai phong trào tư tưởng duy tâm chủ nghĩa này
[triết học Ấn Độ cổ đại và
triết học duy tâm Đức]. F. Nietzsche cũng đă nói về “tính tương
đồng như trong gia đ́nh thật diệu kỳ
của mọi triết lư Ấn Độ, Hy Lạp và
Đức” (32). Tiếp
theo Schopenhauer, P. Deussen đă t́m cách gắn
kết tư biện Ấn Độ vào trong lịch
sử phổ quát của triết học bằng cách lư
giải các kinh Upanisade từ quan điểm của Kant (33). Chính những ư kiến
của Schopenhauer và Nietzsche xuất phát từ
lập trường tư tưởng của họ và
nỗ lực lư giải ít nhiều phiến diện
của Deussen đặt
chúng ta trước nhiệm vụ t́m hiểu hiện
tượng quan hệ chặt chẽ này một cách tỷ
mỷ và có phân biệt hơn so với trước đây.
Trong thuyết duy tâm
Đức, ta thấy một cấu trúc tư tưởng
duy tâm có một điểm độc đáo tiêu biểu
khác biệt với tư tưởng Ấn Độ.
“Điểm Archimède (Descartes) là điểm của sự
xác tín nguyên thủy, trong đó một việc đặt
cơ sở có tính phê phán và thoát khỏi mọi nghi ngờ
cho nhận thức có thể được khai diễn
ngay trong cùng một chủ
thể. Tư tưởng của Schopenhauer và Nietzsche
đă có tác dụng giống như một chất thuốc
thử và làm cho căn tính của cái chủ thể tư
duy này, tức cái “thực chất”
của chủ thể lắng xuống và kết tủa
lại. Chủ thể này đă tự cho thấy không phải
là tự ngă-tri kiến (prăjnă àtmà) của Upanisaden, mà là một tự ngă có ư chí, hành
động và hoạt động, mặc dù nó
được giả định là có nhiệm vụ
đặt nền tảng cho nhận thức, tức cho lư
luận (cái Cogito hiện nguyên h́nh như một cái co-agito
[tôi-hành động])(34). Tự ngă con người tự phát
triển thành Chủ thể ở trong tính “tự khởi”
(“Spontaneität”) của việc thực thi ư chí tự do, có
chủ quyền; chủ thể ấy “cấu tạo”
thế giới như là một đối tượng.
Việc “kiến tạo” và “cải tạo” đầy sáng
tạo đối với thế giới khách quan có giá
trị như là vận động Căn cơ của
tư duy. Khởi thủy đă là hành động. Cái Logos
(Ngôi Lời) được dịch thành “hành động”
(Tat) theo kiểu Faust.
Hành động tự do, sáng tạo là năng lượng
của cái “Cogito” [“Tôi tư duy”]; hành động này không
chỉ khởi động thế giới đạo
đức (Fichte) mà cả
tự nhiên (Schelling) và
lịch sử (Hegel).
Việc cho ra đời thế giới này từ tinh
thần hành động là cái ǵ hoàn toàn khác với một
tiến tŕnh lư thuyết [thuần túy] của suy
niệm-nhập định về cái Căn cơ, hoàn toàn
khác với sự quán chiếu nội tâm trong sự tĩnh
lặng tuyệt đối của tính chiêm nghiệm
thuần túy, hoàn toàn khác với “mặt biển nội tâm
tĩnh lặng” của đức Phật. Tinh thần Tây
phương dường như xa lạ và không ưa tính
nội tâm này của Đông phương. Cho nên, chỉ là điều
hoàn toàn tự nhiên khi tinh thần hành động, cái Eros
thực tiễn ngự trị ở phương tây và
đặt dấu ấn lên tư tưởng của nó –
dù là trên thuyết duy tâm –, trong khi tinh thần của
việc chiêm nghiệm thuần túy, của Lư luận
tuyệt đối ngự trị tư tưởng
Ấn Độ. Tinh thần Hy Lạp giữ
được cái trung ḥa là cái phoinois,
tức kiến tạo và mang lại h́nh thể một cách
chiêm nghiệm, v́ thế đă đạt được
sự phát huy cao nhất trong sáng tạo nghệ thuật.
Ngay cả thuyết
duy tâm Đức cũng là một thuyết thực hành. Schopenhauer phát hiện trong cái
Cogito [Tôi-tư duy] siêu nghiệm của Kant cái volo, tức
trong cái “Tôi-tư duy” có cái “tôi-muốn” và v́ thế ông đă
tách rời cả hai thành “Thế giới như là ư chí và
biểu tượng”.
Cái Tôi như là cơ sở thống nhất tối hậu
làm nền tảng cho mọi đối tượng,
nghĩa là, cho toàn bộ sự nối kết có trật
tự bằng phạm trù của những biểu
tượng, chính là Ư chí (Wille);
và, do đó, Ư chí là nguyên tắc phổ biến của
hiện thực, tức là Căn cơ của thế
giới. Việc phổ quát hóa cái
Tôi, về nguyên tắc, thành nền móng tối hậu
hay Căn cơ của thế giới đối tượng khách quan, trong khái niệm
về tính siêu nghiệm của nó [siêu nghiệm:
điều kiện khả thể cho kinh nghiệm],
tạo ra mối quan hệ chính xác và hiệu lực
của thuyết duy tâm Đức với học thuyết
về Căn cơ và nhất thể-toàn thể của
tư biện Brahma-Àtmà của Upanisaden (34). Có điểm chung với tư
duy Căn cơ trong việc khai triển chủ thể,
nhưng có sự dị biệt quyết định từ
việc chuyển dịch chủ thể thành h́nh thức
hoạt động của cái subjectio [chủ thể], thành
sự phát huy ư chí để thống trị thế
giới bằng cách thực hiện tri thức có
phương pháp trong khoa học và kỹ thuật –
cương lĩnh nova atlantis của F. Bacon –, mà công thức găy gọn nhất cho nó là
“ư chí vươn đến quyền lực” (“der Wille zur
Macht) (Nietzsche); công thức này cũng soi sáng việc cấu
tạo-tiên nghiệm của thuyết duy tâm
đối với thế giới có giá trị [nhận
thức] ở trong ư thức. Cũng trong công thức
ấy, mối quan hệ với thế giới bằng
khoa học và kỹ thuật của thời đại
chúng ta bộc lộ ư nghĩa của nó đối với
sự hiện hữu mang tính lịch sử và số
phận của con người: như là h́nh thức sinh
tồn của thời đại, con người -
bằng ư chí để
cấu tạo thế giới theo tư tưởng
của ḿnh (thuyết duy tâm) và thống trị nó một
cách hiện thực (thuyết duy vật) – không c̣n đi
đến với chính ḿnh được nữa, theo
đó, đánh mất sự tồn tại-tự ngă
của ḿnh bởi một tính chủ thể thủ tiêu
bản thân chủ thể khi nó c̣n ở trong mối quan
hệ tiền-thống trị. Để khắc phục
và vượt qua chủ nghĩa hư vô của con
người – do cái chủ thể của ư chí này, do năng
lượng của tinh thần chủ thể hóa [chủ
nhân hóa] gây ra –, Schopenhauer
đề ra con đường đào thoát lẩn quẩn
theo kiểu lăng mạn vào trong tinh thần chiêm nghiệm
của phương đông. Ông dạy rằng, con
người chỉ có thể rút ḿnh ra khỏi sự
săn đuổi điên cuồng “của ư chí
được sống”, ra khỏi sự xô đẩy vô
nghĩa của thế gian và tự cứu ḿnh trước
những thất vọng đau đớn của sự
hiện hữu đầy ảo tưởng này, nghĩa
là tự giải thoát chính ḿnh bằng cách thoát ly vào trong các
kiểu sống chiêm nghiệm của người nghệ
sĩ, của triết gia và các bậc thánh hiền.
Điều này có nghĩa là một sự tiếp cận với
việc tự-hiện thực hóa bản thân bằng con
đường suy niệm-nhập định của
người Ấn Độ. Với Schopenhauer, tinh thần sẽ vươn tới
khả thể của sự tự phát huy bản thân
một cách tuyệt đối là ở trong nếp sống
khổ hạnh mà đức Phật Gautama đă vạch ra
như một mục tiêu đạo đức. Ở
đây, tinh thần Ấn Độ quả đă trở
nên sống động, tuy nhiên lại khởi đi từ
động cơ lăng mạn của việc khao khát một
nếp sống có khả năng cứu văn cho con
người như một sự điều chỉnh và
phản đề chống lại chủ nghĩa duy hành
động trong thế gian một cách quá độ của
phương Tây bằng cách t́m đến một h́nh
thức hiện hữu có tính lịch sử [đă
thuộc về quá khứ] của phương đông; h́nh
thức lịch sử ấy vốn đă không hề hay
biết đến “chủ nghĩa duy hành động” này
hoặc đă không hề biết phải làm thế nào
để khắc phục nó. “Lăng mạn” là sự hoài
vọng hăo huyền, ngắm nh́n tương lai có thể có
bằng những h́nh ảnh của quá khứ, qua đó,
tất nhiên đạt tới được sự
cảm nhận và thấu hiểu về lẽ tồn vong
lịch sử, đồng thời có sự cởi mở
đối với cái ǵ đă được mang lại
một cách căn nguyên, nhưng lại không đạt
được sức mạnh để thực sự
kiến tạo nên hiện thực; vâng, thậm chí không
đạt tới được bản thân hiện
thực, trừ khi đó là một hiện thực
được cảm nhận một cách muộn màng
về mặt lịch sử hoặc một hiện
thực được cấu tạo bằng tư
tưởng đơn thuần. Chính v́ thế, trào lưu
duy vật và thực chứng sau đó đă chẳng khó
khăn ǵ để quét sạch sự cấu tạo
thế giới theo kiểu duy tâm này bằng ư chí trần
thế đầy tính hiện thực và tính bạo lực
của chúng.
Việc hóa giải
và làm cho hiện thực được “mềm mại”
hơn trong một cơn mơ của ḷng hoài vọng, khao
khát có lẽ đă khả thi phần nào trong phạm vi
nghệ thuật nhưng không phải ở lănh vực chính
trị. Chính nhận định này đă thôi thúc Nietzsche ngoảnh lưng
lại với tinh thần bất lực của việc
ung dung trốn đời nơi Schopenhauer và ông kỳ vọng vào việc dẫn
đến một kỷ nguyên mới mẻ về chính
trị cho toàn thế giới dựa chính trên sự tăng
cường một cách tuyệt đối ư chí vươn
tới quyền lực nói trên. Động lực lăng
mạn cộng với ảnh hưởng ngày càng lớn
của các cấu trúc tư duy phương đông – ngay
cả trong nghịch đề của Nietzsche với lư tưởng của ông về
việc thực hiện quyền lực toàn trị, trong
một “định chế siêu nhân” theo kiểu của
một Thành cát tư hăn về tinh thần – đă gây
ảnh hưởng quyết định đến sự
phát triển của Châu Âu tận cho đến ngày nay.
Bằng chứng cho sự tác động của
động lực này là bước ngoặt chuyển sang
lối tư duy cụ thể mang tính trực quan toàn
thể của “triết học sự sống”
(Lebensphilosophie) và Hiện tượng học [Husserl];
trước tiên là trở lại với tư duy Căn
cơ trong triết học Schelling
và trong thuyết hiện sinh, rồi xa hơn là các khuynh
hướng nghiên cứu tâm lư học miền sâu và
cận-tâm lư học hướng về nền móng vô
thức của tâm hồn.
C̣n liên quan
đến triết học hiện sinh th́, theo Kierkegaard, “hiện sinh”
(Existenz) là “sự biến” (Ereignis) của nguồn suối
nguyên thủy từ quyết định đạo
đức của con người. Việc tự-hiện
thực hóa của con người trong hành vi quyết
định đạo đức là “kết cấu” có tính ư chí, chứ không phải là
hành vi của lư tính lư thuyết - điều Kierkegaard kiên
quyết không quan tâm đến – mà là của lư tính thực
hành; quan niệm này nằm trên đường dây của
tư tưởng duy tâm khởi đầu từ Kant và được K. Jaspers dẫn đến
tận cùng. Từ Kierkegaard
bắt đầu có một sự hạ thấp “lư tính và
khoa học”, bắt đầu một sự đối
lập mới giữa Tin và Biết; sự đối
lập này trở thành đặc điểm của tư
tưởng hiện sinh. [Nhưng] ngay trong điểm này,
chứa đựng vấn
đề lớn của tư tưởng hiện sinh
cho đến ngày nay, đó là: tư tưởng ấy
vẫn là nạn nhân của quan niệm về “ư chí”
của triết học cận đại, - tất nhiên,
đây là ư chí quay vào bên trong để tự-hiện
thực hóa chính ḿnh chứ không phải quay ra bên ngoài
để thống trị tự nhiên. Chính ở giác
độ này, Martin Heidegger
nỗ lực vượt qua thuyết hiện sinh bằng
một định hướng mới mẻ, triệt
để hướng đến lư thuyết tuyệt
đối như là “Chân lư của tồn tại” hay “Chân lư
của hữu thể” (die Wahrheit des Seins). Với ông, chân lư
là A-letheia (Hy Lạp), là
sự hiện tiền phơi mở, không bị ẩn
giấu của cái đang tồn tại từ mối quan hệ với
Hữu thể (35),
song, nơi Heidegger, sự
hiện tiền phơi mở ấy không thể
được đáp ứng trong h́nh thức tư duy
của khái nịêm trừu tượng (khái niệm
“tồn tại” của Parmenide)
mà ở trong một tư duy nguyên thủy, đưa
Hữu thể đến Ngôn
ngữ, v́ “ngôn ngữ là ngôi nhà của Hữu thể” (36). Ư ông muốn nói ở đây
là: đó là một phương thức nguyên thủy
của tư duy, trong đó thi
ca và tư tưởng chưa
được phân biệt với nhau (khi bản thân tư
duy cũng c̣n là một hành vi của ngôn ngữ) như ta
đă biết ở khởi nguyên của triết học
trong thi ca tôn giáo của Vệ đà và trong nền thi ca
đạo lư tiền-Socrate [vd: triết học Parmenide trong
h́nh thức thi ca]. Heidegger
muốn đổi mới mối quan hệ nguyên thủy
này với Hữu thể ở trong ngôn ngữ nguyên
thủy, ở trong Lời c̣n bất-suy tư, cũng
như nói chung, quay trở về lại với cái cổ
sơ nguyên khởi của tư duy. Tuy nhiên, thử nghiệm
tư duy này ẩn chứa sự cám dỗ của tư
tưởng đi đến việc kiến tạo
cưỡng bức khi xây dựng khái niệm và thuật
ngữ.
[
V ]
Ngày nay, một
mối liên kết thế giới trong một sự
gặp gỡ mới mẻ giữa Đông và Tây h́nh như
đă mở màn về mặt tinh thần như chưa
từng bao giờ xảy ra trong lịch sử để
cùng nhau kiến tạo một sự thống nhất
về tinh thần cho thế giới; sự thống
nhất ấy tất yếu phải đi trước
sự thống nhất về chính trị. Để có
sự thống nhất về tinh thần này th́ nhất
thiết phải có sự
xử lư một yếu tố cấu thành của tư
tưởng phương Đông ở trong cấu trúc tinh
thần của phương Tây; tất nhiên là một
sự xử lư chứ không
phải một sự khuất phục cái này bằng cái kia
được.
Sự phát triển
của các bộ môn khoa học tự nhiên, cùng với
việc đi lệch khỏi lối tư duy duy lư-cơ
giới vốn đă thống trị từ lâu trong
việc nghiên cứu tự nhiên, cho thấy có xu
hướng vươn tới cách nhận thức toàn
thể về h́nh thái và cấu trúc, ngay cả trong chỗ
đứng mới mẻ về lư thuyết như là
việc khám phá có phương pháp về những sự
kiện riêng lẻ lẫn các quy luật phổ biến
xuất phát từ cái nh́n về những sự nối
kết toàn thể, bao trùm. Thời gian gần đây,
nỗ lực tư duy về lư luận và triết học
đă nổi lên hàng đầu ngay trong các ngành khoa học
tự nhiên, không chỉ để giải quyết
những vấn đề ranh giới thuộc khoa học
riêng lẻ, tức những vấn đề nảy sinh
từ một sự phân thù quá chi ly đối với
giới Tự nhiên-toàn bộ thành những tầng và
những lănh vực độc lập, mà c̣n ở trong
sự ngự trị của những tổng hợp tư
duy theo nghĩa thế giới quan. Tất cả những
điều ấy biểu thị một nỗ lực
tư duy hướng đến sự hội nhập bao
quát, tức hướng đến một tư duy toàn
thể hiện đang được phát huy.
F.C.Northrop của đại học Yale
đă viết quyển “Meeting
of East and West” (“Gặp gỡ Đông Tây”) (37) đúc kết thành quả
đạt được sau chuyến đi du khảo dài
ngày của ông đến Ấn Độ và Trung Quốc,
khẳng định sự phát triển phiến diện
của “thành tố trí tuệ” trong lịch sử phát
triển của tinh thần Tây phương đă dẫn
đến một sự kiến tạo hiện hữu
theo kiểu kỹ thuật-cấu tạo và h́nh thức
chủ nghĩa thuần túy trừu tượng, đă
đề nghị bổ sung – theo nghĩa của sự
hội nhập đích thực – thành tố mà ông gọi là
thành tố “thẩm mỹ”.
Ư ông muốn nói đến h́nh thái tư duy trực quan,
thuần lư thuyết, song không phải là h́nh thái thi
ca-nghệ thuật (Heidegger) mà là tri kiến suy
niệm-nhập định tôn giáo và h́nh thức hiện
hữu như đă được thực hiện ở
trong “tự ngă tri kiến” của học thuyết Brahma
cổ Ấn Độ. Nước Ấn Độ của
việc hiện thực hóa này xuất phát từ mối
quan hệ Căn Cơ của trực quan tinh thần ngày
nay đă đi vào trong đời sống chính trị
hiện thực. Đó là Mahatma
Gandhi, người đă tranh thủ được
sự tự do cho Ấn Độ trên cơ sở của
một sự tác động nhập định-tâm linh
xuất phát từ nguyên tắc bất bạo động (38) ở trong ḷng tin thuần túy
vào sức mạnh của tinh thần. Trong khi thế
giới Tây phương tuyên triệu tinh thần của
sức mạnh bạo lực ở trong tính chủ thể
cấu tạo-kỹ thuật phiến diện của ḿnh
với thái độ của cái subjectio [chủ nhân ông] nô
dịch thế giới; đó là tinh thần mà Tây
phương không rời bỏ được, một tinh
thần thật sự khủng khiếp như đă
chứng minh trong hai cuộc thế chiến vừa qua th́,
thông qua Ấn Độ, sức mạnh [thực sự]
của tinh thần đă trở nên hiển hiện cho
thế giới này từ gốc rễ của tư duy
nội tâm-bất bạo động như R.Tagore đă tuyên ngôn mới đây, tức từ
một tính chủ thể có nền móng tôn giáo. Sức
mạnh ấy của tinh thần tỏ lộ ra như là
sự tồn tại được cai quản một cách
phi bạo lực ở trong số phận của nhân
loại và của con người.
----------------------------------
Chú
thích (của tác giả):
(1)
Theo “Biện chứng pháp siêu nghiệm” của Kant [xem: Kant,
Phê phán Lư tính thuần túy, B350 và tiếp], “cái Toàn bộ không
bao giờ đă được mang lại, mà măi măi chỉ
được đặt ra như một nhiệm vụ
phải giải quyết”, tức không phải là
đối tượng mà là mục tiêu, nghĩa là
được xếp vào trong ư chí nỗ lực. Tư duy
trở thành “hành động của giác tính”, lư thuyết
trở thành thực tiễn của lư tính thuần túy, thành
thành tích, thành việc làm của nó. J.Pipers nói về “khái niệm lao động”
của việc nhận thức nơi Kant. Bi kịch
của tư duy này là: tư duy th́ “bị làm” c̣n việc làm
th́ “bị tư duy” - định mệnh Đức!
(2)
“Chân lư của cái Toàn bộ” của Hegel.
(3)
Rgveda, 10, 119.
(4)
Rg. 9, 91.
(5)
Cái Tuyệt đối (Absolutio), việc “thoát-ly” khỏi
tính đa tạp thường nghiệm, do đó,
đồng thời là một cái Abstractio (cái trừu
tượng). Con đường của tư duy này
đến cái Tuyệt đối là sự trừu
tượng. Và đó là tư duy triết học. [Chữ
“tuyệt đối” nghĩa gốc là “thoát ly” khỏi cái
có điều kiện].
(6)
Rg. 1, 164.
(7)
Sđd, câu 46.
(8)
Rg. 8, 58.
(9)
Brhad – Àranyaka Upanisad, 4, 5, 1-15.
(10)
Rg. 10, 129.
(11)
Kranz: “Các đoản văn
rời của các triết gia trước Socrate”,
đoạn 88: “Sống và chết, thức và ngủ,
trẻ và già đều là một, v́ cái này trở thành cái
kia khi nó chuyển hóa”. Xem thêm đoạn 67.
(12)
nt, đoạn 53.
(13)
nt, đoạn 10: “... và một từ tất cả và
tất cả từ một”.
(14)
Rg. 10, 129, 7.
(15)
Rg. 10, 121, 10.
(16)
P. Deussen, Lịch sử khái quát về triết học, 1.1.
(1897), tr. 286.
(17)
G. Misch, Đường vào triết học, 1. (1950) tr. 113.
1. (1897), tr. 286.
(18)
Chàndogya 3,14
(19)
Brhad Àranyaka Up. I, 4, 7.
(20)
Brhad Àranyaka Up. 3, 4, 2
(21)
Brh Àrany Up, 4, 5, 15.
(22)
Rg. 10, 129, 10.
(23)
Đối lập với triết học Vệ đà, ta
có thể nêu ra cùng một khẳng định mà Augustinus
đă nêu để bác triết học Hy Lạp và
Platon-mới: “Omnia ibi legi, sed quod verbum caro factum est, ibi non
legi” (Tất cả đều có thể được đặt
ra, ngoại trừ việc Ngôi Lời trở thành xác
thịt là không được phép đặt ra). Việc
“nhập thể thành người” thuộc về bản
chất của tư tưởng Cơ đốc giáo
đến như thế nào có thể chứng minh bằng
việc công tŕnh kinh điển hóa sau này đă tiếp
nhận đức Mẹ Maria bằng xương thịt
vào Thiên đường.
(24)
Xem: chú thích (21).
(25)
Bghad – Àranyaka 1, 4, 1.
(26)
Như chú thích (25).
(27)
Màndùkya – Kàrikà 4, tr. 83 và tiếp.
(28)
Tôi đặt trong ṿng ngoặc. Đây là câu thơ làm
dấu (Kànikà) của Upanisade muộn hơn.
(29)
Katha 3, 11-13.
(30)
Màndùkya – Kàrikà, 4, 85.
(31)
A-Schopenhauer, “Thế giới như là ư chí và biểu
tượng”, tập 2, quyển 1, chương 17.
(32)
F.Nietzsche, “Bên ngoài Thiện và Ác” (1885), cách ngôn 20.
(33)
Trong quyển “Lịch sử khái quát về triết
học” của ông: triết học của Upanishade 1, 2
(1899).
(34)
Xem: viễn tượng lớn về việc lư giải
cái Cogito (Tôi-tư duy) của Descartes và “ư chí vươn
tới quyền lực” của Nietzsche để soi sáng
cấu trúc bản chất của siêu h́nh học tây
phương trong: M. Heidegger:
“Holzwegen”/“Những con đường rừng”.
(35)
“Sự dị biệt hữu thể học” của
Heidegger giữa cái tồn tại (Seiende) và Hữu thể
(Sein) như là sự giải thể tích cực cái tồn
tại ở trong Hữu thể cho thấy có chỗ
giống với vận động Căn Cơ của
việc hư vô hóa trong phản tư Brahma-Àtma của
Vệ đà.
(36)
Xem: M.Heidegger: “Bức
thư nhân bản thuyết”. Về điều này và
điều sau đây, tôi [tác giả Leo Gabriel] xin phép lưu
ư: Các con đường của tư duy và của thi ca
đă chẻ đôi như hai nhánh cây rời nhau. Ta không
thể cưỡng bức buộc chúng quay về với
nhất thể nguyên thủy của cái cây mà không làm găy
cả hai nhánh. Đúng hơn nên cố thử làm bằng
cách: giữa hai đầu đối cực của hai
nhánh, như ta đang có, căng một sợi dây hợp
nhất chúng lại như căng một dây cung đủ
sức mang trên đó mũi tên của tư duy hướng
đến mục tiêu mới. Kết cấu như thế
về cái nhất thể mới mẻ được tôi
gọi là “tư duy toàn thể” (integrales Denken).
(37)
F.C. Northrop: The Meeting of East and West: An Inquiry Concerning World
Understanding, Macmillan 1946.
(38) Xem tiểu sử của Mahatma Gandhi
của Romain Rolland.