TÍNH LIÊN-VĂN
HÓA:
MỘT THÁI ĐỘ
GIÁO DỤC
Bùi Văn Nam Sơn
1. Sự
kiện và sự kiện văn hóa
Vào buổi bình
minh của thời Cận đại (thế kỷ 16-18),
có hai nhà tư tưởng lớn người
Pháp chủ trương hai con đường
khác nhau và đều gây ảnh hưởng
sâu đậm đến ngày nay. Một ông
là Michel de Montaigne. Với ông, con đường
có mục đích tự thân; đi để
mà đi, thế thôi. Ông viết: “Nếu
tôi lỡ bỏ qua một cảnh đẹp
đáng nhìn? Thì tôi cứ quay lại, đàng
nào cũng nằm trên con đường đi
của tôi thôi mà! Tôi chẳng việc
gì phải bám vào một con đường
có sẵn, dù đó là đường
thẳng hay đường cong”.
Ông không chờ đợi một sự
“tiến bộ” theo đường thẳng,
nếu phải vì thế mà bỏ qua bao cỏ
lạ hoa thơm. Tác giả của bộ Essais (1580) nổi tiếng chấp
nhận và thích thú với đường vòng.
Ông kia, René Descartes,
thì lại rất ghét những ai “không
bao giờ biết giữ vững một con
đường để đi thẳng đến
đích”.
Tác giả cũng lừng danh không kém của
Discours de la Methode / Luận
văn về Phương pháp (1637) chủ
trương: nếu bị lạc trong rừng rậm
thì phải chọn một con đường -
bất kể theo hướng nào - rồi cương
quyết đi thẳng cho tới khi thấy ánh
sáng. Ông tin vào “phương
pháp” có giá trị siêu-thời gian, siêu-kinh
nghiệm, hay nói ngắn, ông không thích đường vòng.
Với Descartes, “rừng rậm” là hình
ảnh của cái xa lạ, nguy hiểm, thù
địch; còn sự “vững chắc của
nhận thức” là kết quả của việc
loại trừ hết những thứ đó, nhờ
vào “Phương pháp”. Không lạ
gì khi quyển Essais có tính đối
thoại, “biện chứng” (dialogic), còn
quyển Discours có tính chặt chẽ, quy luật
(nomologic). Một bên chuộng việc “lý
giải” những cái mới mẻ, bất
ngờ, bên kia yên tâm “áp dụng”
thành tựu có sẵn của phương
pháp. Một bên quan tâm đến nhu cầu định hướng
của con người cụ thể, bên kia sẵn
sàng chấp nhận sự “cào bằng”,
hy sinh hiện hữu cá biệt cho tri thức có phương pháp.
Là môn đồ
của trường phái Descartes, Émile Durkheim,
một trong các ông tổ của xã hội
học hiện đại, xem những
sự kiện xã hội
(faits socials) như những
sự vật (comme des choses), vì, để bảo
đảm tính khách quan của nhận thức
khoa học xã hội, sự
kiện xã hội phải có một
đời sống riêng, độc lập với
những biểu hiện cá nhân, và
được tái hiện trên cơ sở
một tính thuần lý siêu cá nhân
(“une existence propre: indépendente de ses manifestations
individuelles”).
Thế nhưng, cách hiểu ấy lại hầu
như ngược hẳn với bản chất của sự kiện văn hóa.
Sự kiện, tự nó, là vô nghĩa, trong
khi sự kiện văn hóa là cái gì có ý nghĩa. Nhận
ra trong chuỗi âm thanh (“sự kiện”)
một giai điệu, đó là văn hóa. Bảy
trăm cảnh sát bảo vệ năm cây anh
đào ở Hà Nội mấy ngày vừa
qua, tuy thật mỉa mai, cũng là văn hóa:
năm cội anh đào không phải chỉ
là… năm cái cây! Giống như mọi
sự ẩn dụ, văn hóa chỉ có mặt
khi một cái gì đó vượt ra khỏi
chính nó, khi hình dung ra được cái
không phải là bản thân nó. Chính ý nghĩa hay tầm quan trọng mới
biến một sự kiện thành một sự kiện văn hóa (fait culturel) và khêu
gợi nhu cầu lý giải. Không có lý
giải, tức, không có cảm nhận, giải
lý, phê phán, ắt không có các
định chế giáo dục, không có văn
hóa. Nghiên cứu văn hóa là đến
với những “thành quả” như
đến với những hiện tượng mà
tầm quan trọng của chúng sẽ mất đi
nếu không xét đến phần tham dự
của con người. Nói cách khác, sự
kiện văn hóa khác với sự kiện
trần trụi chính là ở chỗ: văn
hóa là ẩn dụ, tức là đường vòng.
Thêm vào
đó, các thảm trạng của thế kỷ
XX (chiến tranh, bạo lực, độc tài,
nghèo đói, dốt nát…) càng
làm cho các câu hỏi trở nên trầm
trọng: tình trạng ấy còn kéo dài
đến bao giờ? Còn lún sâu đến
đâu nữa? Tri thức và hạnh phúc -
giấc mơ và khẩu hiệu từ Thế kỷ
Ánh sáng Âu Châu – kết hợp
với nhau như thế nào? Và trước
hết: đi về đâu một nền văn
hóa không chỉ cho phép mà còn
khuyến khích phân chia thế giới thành
“của ta” và “của họ”,
thành bạn và thù, thành ưu việt
và thấp kém?
Các câu hỏi
ấy là động lực cho sự hình
thành một bước
ngoặt văn hóa (cultural turn), xuất phát
từ một nhận thức thật đơn giản
mà kinh hoàng: nền văn hóa rất mong manh
và có thể tiêu
vong. Không chỉ những nền văn hóa
riêng lẻ đã và đang chết do hậu
quả của chủ nghĩa thực dân mà
nền văn hóa nói chung, như tổng thể
của thế giới do con người tạo ra và
ban cho nó ý nghĩa: “nếu trước kia
con người sợ mãnh lực tự nhiên
tiêu diệt thì bây giờ sợ trước
thế giới do chính mình kiến tạo
nên”.
(Adorno: “sau Ausschwitz, không thể làm thơ
được nữa và mọi “văn
hóa” trở thành rác rưởi!”. Ta
có thể thêm: sau “Cách mạng văn
hóa”, sau “chế độ Pol Pot”, sau,
sau…). Không hề cường điệu những
nguy cơ để rơi vào một thuyết bi quan
về văn hóa, các nhà tư tưởng
hàng đầu trên thế giới (mà
tiên phong là các nhà triết học văn
hóa) đang nỗ lực tìm lối thoát.
Thay vì tiếp tục nuôi dưỡng ảo
tưởng đi tìm một “vương
quốc” của cái trực tiếp; cái
nguyên thủy hay cái tuyệt đối ở
đàng sau hay phía bên kia thế giới
của những hình thức biểu trưng hay
những hiện tượng văn hóa như
trước đây, người ta đang hướng
mắt vào những hiện tượng, những
ý nghĩa, những giá trị, những hình
thái văn hóa hiện thực của bản
thân thế giới này. Thay vì phải
chọn lựa giữa con đường thong dong (nhưng
có thể lạc lối!) của Montaigne và
sự hiệu quả của con đường thẳng
(nhưng mang tính độc quyền và
độc tôn) của Descartes, có lẽ con
người hiện đại sẽ chọn những con đường
vòng để sống còn, vốn dành cho
những thân phận hữu hạn, không biết
nhưng không mất hy vọng ở tương lai. Văn
hóa - theo nghĩa từ nguyên của chữ cultura là vun trồng,
nuôi dưỡng – cho thấy: thực tại bao
giờ cũng có thể do con người kiến
tạo nên, và chính văn hóa sẽ cung
cấp những tiêu chuẩn cho việc con
người khai phá, bảo vệ và mạnh
bước tiến vào những con đường
vòng. Văn hóa chỉ ra đời khi không
có hay không còn những thúc ép
của cơm áo, thời thế, khi hận thù,
sợ hãi được gác lại; nói
ngắn, khi thực tại được nhìn
bằng một cách nào đó để cho
sự cởi mở, sự tò mò và lòng
khao khát cái mới có vị trí xứng
đáng của chúng. Khi bảo rằng con
người là một “sinh vật văn
hóa”, ta không suy tưởng theo giác
độ nhân học cho bằng theo giác
độ triết học văn hóa. Thật thế,
sự “ranh mãnh” của lý tính con
người được hiện thực hóa như
là văn hóa, chứ
không phải ở trong
lịch sử như cách nghĩ của Hegel! Sau
sự sụp đổ của mọi thứ
“biện thần luận” (mang màu sắc
tín ngưỡng hay thế tục) hứa hẹn
một sự hòa giải
toàn diện, con người còn một niềm an
ủi - nhỏ bé nhưng quý giá -
đó là: kỳ cùng, thông qua những
chủ đề và những luận điểm của
triết học văn hóa, ta sẽ đi tới
kết quả: ta có thể đi những con đường vòng. Một
trong những con đường vòng ấy là tính liên-văn hóa
trong một thế giới ngày càng nhỏ
bé và gần gũi.
2. Tính liên-văn hóa (Interculturality):
yêu cầu của thời đại
Đi liền với
tiến trình toàn cầu hóa,
“liên-văn hóa” đang trở thành
một chủ đề thời sự, và bắt
đầu được thiết lập như một
ngành học “hàn lâm” hẳn hoi.
Khuôn khổ một bài báo chỉ cho phép
giới thiệu thật ngắn gọn.
Liên-văn hóa,
như một môn học, được xét ở
bốn viễn tượng: triết học, tôn
giáo, chính trị và giáo dục.
-
trong viễn tượng triết
học, liên-văn hóa là một thái độ, một tinh thần và một
sự thức nhận
rằng mọi thành tựu của tư tưởng
nhân loại đều là những biến
thái của một philosophia
perennis (“triết học vĩnh cửu”), trong
đó sự tương đồng giữa các câu hỏi quan trọng
hơn sự dị biệt giữa các câu trả lời, từ
đó ngăn chặn việc biến một
truyền thống hay một hình thái triết
học nhất định thành hình thái tuyệt
đối như là định nghĩa duy nhất cho
chân lý triết học. Với nhận thức
ấy, có lẽ đã đến lúc cần
phải viết lại một bộ lịch sử tư
tưởng, - và nói riêng, một lịch
sử triết học - của nhân loại.
-
trong viễn tượng tôn
giáo, tính liên-tôn giáo là tên
gọi khác của tính liên-văn hóa,
bởi một religio perennis /
sanatara dharma (“tôn
giáo vĩnh cửu”) cũng mang nhiều tấm
áo tín ngưỡng khác nhau. Tất nhiên,
bản thân tính liên-tôn giáo không
phải là một tôn giáo để
người ta tin theo. Nhưng, đó là một thái độ khiến ta
cởi mở và khoan dung. Ngoài ra, nó cũng
giúp ta tránh được mọi cám dỗ
của óc cuồng tín tôn giáo và
thuyết “bảo căn” (fundamentalism).
-
trong viễn tượng chính
trị, tính liên-văn hóa cũng là
một tên gọi khác của tinh thần cộng
hòa-dân chủ, không chấp nhận bạo
lực và sự độc quyền thống trị.
-
trong viễn tượng giáo dục
- và đây là viễn tượng quan
trọng nhất -, thái
độ, tinh thần và sự thức nhận
liên-văn hóa về cả ba viễn tượng
trên cần được dạy và học trong
gia đình và xã hội, từ nhà
trẻ cho đến đại học, trong tư
tưởng lẫn hành động. Chỉ có
như thế mới hy vọng sớm ngăn chặn tư
tưởng cục bộ, toàn thủ (integrism),
vị chủng, bởi một khi chúng đã
chiếm lĩnh vũ đài thì mọi nỗ
lực giáo dục đều đã trở
nên quá muộn.
(Doanh nhân Sài Gòn
Cuối tháng, 04.2009)