Nói chuyện
với nhà triết học Bùi Văn Nam Sơn
về “HEGEL VÀ KHOA HỌC LÔ GÍC”
TTVH: Sau ba quyển Phê phán của I. Kant và Hiện tượng học Tinh
thần của Hegel, nay ông lại vừa cho ra mắt
bản dịch và chú giải quyển Khoa học Lô gíc
của Hegel (NXB Tri thức, 2008). Xin ông
giới thiệu sơ qua và cho biết tác phẩm này
giữ vai tṛ thế nào trong sự nghiệp của
đại triết gia này?
BVNS: Tuy
cũng mang tên là Khoa học Lô
gíc, nhưng tác phẩm này thường được gọi
là Tiểu Lô gíc học v́ tương
đối ngắn và có tính chất tóm lược, như là
phần thứ nhất trong ba phần của bộ Bách khoa thư các khoa học
triết học (1830), tức ba bộ phận hợp thành
của hệ thống triết học Hegel. Hai
phần c̣n lại là Triết
học về Tự nhiên và Triết
học về Tinh thần. C̣n bộ Đại Khoa học Lô gíc th́ đồ
sộ và chi tiết hơn nhiều, được hoàn thành
15 năm trước đó (1816), và cần có thêm thời
gian mới dịch và chú giải hết được.
Cả hai quyển Lô gíc học này là nền tảng
của triết học Hegel và cũng là của phép biện
chứng nổi tiếng trước nay.
TTVH: Nội dung và mục đích của
quyển sách là ǵ, nói một cách thật dễ hiểu? Và nó có quan hệ như thế nào với triết
học duy vật biện chứng?
BVNS: Mọi
ngành khoa học đều bắt đầu với một
cái ǵ được mang lại từ giới tự nhiên,
xă hội, lịch sử hay con người, rồi nhà khoa
học dùng tư duy để t́m ra những nguyên tắc hầu
giải thích những sự việc ấy. Tất
cả chúng đều tiền-giả định tư duy
là cái ǵ hiển nhiên, không cần bàn căi. Trong khi đó,
chỉ có triết học và Lô gíc học là môn học duy nhất
khảo sát xem bản thân tư duy vận hành như thế
nào: làm sao đi từ khái niệm này sang khái niệm khác, làm
sao nhận diện cái ǵ là bản chất trong sự việc
và làm sao tháo rời những khái niệm ra thành những bộ
phận cấu thành của chúng. Như thế, nó làm công việc
mà ít ai nghĩ tới, hay nói như Hegel, đó là công việc:
tư duy tự suy tưởng về chính ḿnh, và v́ thế,
nó là phần thứ nhất của triết học, trước
khi bàn về Tự nhiên và Tinh thần (văn hóa, xă hội,
lịch sử…). Với việc nhận diện hơn 81 h́nh
thức của tư duy (Hegel gọi là những phạm trù)
và cách thức quan hệ giữa chúng với nhau, ta không những
hiểu rơ hơn về chính ḿnh mà c̣n nhờ đó nhận
ra rằng thế giới và lịch sử nói chung là cũng
có thể thấu hiểu được bởi chúng cũng
có cùng một cấu trúc như thế. Sự vận hành này
của tư duy không hiểu theo nghĩa
ngẫu nhiên, bất tất của tâm lư cá nhân mà có tính tất
yếu, phổ quát. Nó độc lập với những dị
biệt về văn hóa, lịch sử, nhưng đồng
thời cũng không phải từ trên trời rơi xuống
mà là sản phẩm tinh thần được chắc lọc
từ kinh nghiệm văn hóa, lịch sử hàng ngh́n năm
của loài người (như Hegel đă bàn trong Hiện tượng học Tinh
thần). Chủ nghĩa duy vật biện chứng tiếp
thu rất nhiều từ thành quả này
của Hegel.
TTVH: Ở nhiều tiểu
đoạn trong sách, nguyên tác viết có mấy gịng, ông chú
giải cả một trang, thậm chí dài hơn. Phải chăng những chú giải này là cầu
nối giữa Hegel và độc giả VN hiện nay và
cũng v́ chúng quá khó hiểu?
BVNS:
Hegel vốn nổi tiếng là một trong những triết
gia khó hiểu và khó đọc nhất. Quyển sách này lại
càng khó hiểu v́ đối tượng của nó là “tư
duy thuần túy” và bản thân nó chỉ là “một chuỗi
những luận điểm” rất cô đọng, đúng
với tính chất “cương yếu” của một bộ
Bách khoa thư. V́ thế, để tránh biến tư tưởng
thâm sâu của Hegel thành những… “câu sấm”,
bản dịch sang tiếng Việt, theo tôi, nên đi kèm với
phần chú giải tương đối tỉ mỉ.
TTVH: Triết học, trong thói quen suy
nghĩ của người đọc VN, gần như
đồng nghĩa với “quá khó”, nhất là những sách
kinh điển như ông đă dịch và chú giải.
Vậy, mảng sách triết học nhập môn cần quan
tâm như thế nào, thưa ông?
BVNS: Mảng
sách triết học nhập môn là hết sức cần thiết
và bổ ích để phổ thông hóa và dẫn nhập vào
những công tŕnh chuyên sâu, nhưng tiếc rằng ở ta
vẫn c̣n quá ít và chưa có hệ thống. Thực
ra, phần Chú giải của tôi cho các sách kinh điển cũng
là một loại nhập môn, nhưng đi kèm với nguyên
tác. Người đọc vừa có dịp
làm quen sơ bộ với các tác giả lớn qua phần
Chú giải, vừa có thể tiếp cận họ một
cách trực tiếp qua văn bản. Vào cửa (nhập
môn), vào sân (thăng đường) rồi vào nhà (nhập
thất) là ba bước đi tự nhiên của nghiên cứu
khoa học và hy vọng cũng là giải pháp “ba trong một”
khi đọc các dịch phẩm này.
TTVH: Tạo thói quen để
người đọc chịu đọc các loại sách
“hóc búa” này là rất khó; ông nghĩ ngoài giáo dục ra, các
cơ quan truyền thông nên góp tay vào
như thế nào?
BVNS: Đó
là góp phần tạo nên bầu không khí hào hứng đối
với sinh hoạt học thuật và khoa học nói chung. Ngày nay, triết học không
c̣n là đặc sản của những “thiên tài” cô độc
hay đặc quyền của những triết gia chuyên
nghiệp. Triết học sẽ dần dần trở
thành món ăn tinh thần quen thuộc cho
mọi người (tất nhiên người ta vẫn có thể
sống mà không cần triết học cũng như có thể
hô hấp và tiêu hóa mà không cần biết đến môn sinh
lư học!). Nó gắn liền với sự phát
triển của khoa học và với lối sống hiện
đại, tức với lối sống có suy nghĩ và có
cái nh́n toàn diện. Lư thuyết khoa học
là sự trừu tượng cấp một; triết học
là sự trừu tượng cấp hai, thế thôi. Càng có năng lực tư duy trừu tượng,
càng dễ tự định hướng trong mớ ḅng
bong của cuộc đời muôn mặt.
TTVH: Xin cảm ơn ông.
(Báo
Thể thao Văn hóa, Lư Đợi thực hiện, 09.2008)