TRẢ LỜI
PHỎNG VẤN
TẠP CHÍ VĂN
HÓA PHẬT GIÁO
VHPG: Là người sống và nghiên cứu
triết học lâu năm ở nước Đức, nơi
được xem là cái nôi của triết học thế
giới, ông có thể nói vắn tắt về t́nh h́nh
triết học hiện nay ở Âu Mỹ?
Bùi
Văn Nam Sơn: Thật ra,
“cái nôi” đúng nghĩa của triết học Tây phương
chính là Hy Lạp cổ đại. Nhưng, nước
Đức quả là miếng đất màu mỡ cho sự lớn
mạnh của triết học suốt mấy thế kỷ,
nếu thử tính từ Leibniz (1646-1716) cho đến M.
Heidegger (1889-1976). Tuy nhiên, nói như Hegel, “Tinh thần
thế giới” đă không chịu ở yên một chỗ!
Từ thập niên 80 của thế kỷ XX, dường
như nó đă “dọn” sang nước Pháp (“nơi xuất
phát nhiều gợi ư sáng tạo nhất”/Habermas, 1985), rồi
sang Mỹ (nơi hàng năm có hàng ngàn sách triết học
ra đời) và từ đó, nhờ phương tiện
truyền thông hiện đại trong điều kiện toàn
cầu hóa, nhanh chóng lan truyền khắp thế giới. V́
thế, ngày nay hầu như không c̣n có thể nói về một
“cái nôi”, một “trung tâm” của triết học như trước
đây nữa. Ngoài ra, theo chỗ tôi thấy, ngày nay người
ta không c̣n làm triết học để bảo vệ các hệ
thống về thế giới quan mà hợp tác trên những
đề án nghiên cứu hỗn hợp, vượt ra khỏi
ranh giới trường phái và chuyên ngành, thu hút và tập hợp
nhiều triết gia đến từ các chân trời và các
quốc gia khác nhau. Tuy chưa phải là một “nền ḥa
b́nh vĩnh cửu”, nhưng, nh́n chung, việc
phân liệt và đấu tranh “một mất một c̣n” giữa
các trường phái và các truyền thống tư tưởng
mang đậm màu sắc dân tộc đă trở nên lỗi
thời.
VHPG: Có thể có một “tổng kết”
ngắn gọn về triết học Tây phương
thế kỷ XX?
BVNS: Câu
hỏi quá rộng cho một tuần trà! Trong
bài giới thiệu mới đây cho công tŕnh “Toàn cảnh triết học Âu
Mỹ thế kỷ XX” của soạn giả Phan Quang Định
(NXB Văn học, 2008), tôi có dịp tŕnh bày khá dài về nhận
định của ḿnh, ở đây chỉ xin nhắc lại
ngắn gọn. Kiểm điểm một cách nghiêm
khắc, dường như triết học Âu Mỹ thế
kỷ XX đă hứa hẹn nhiều, khi đưa ra các yêu
sách khá triệt để: con người đích thực, cộng đồng (xă hội, nhà
nước) đích thực
và khoa học đích thực,
nhưng chẳng mang lại được bao nhiêu. Nó cũng
đă thắp lên nhiều hy vọng (với ba trọng điểm
nghiên cứu: định hướng về hiện sinh và
siêu việt hay về truyền thống và thông diễn học,
về thực tiễn hay xă hội và về khoa học) nhưng
mang lại nhiều thất vọng. Thật thế, cái “Tồn
tại” (Sein) bí hiểm và thơ mộng của Heidegger
đă chẳng tự “khai mở”, và việc “chuẩn bị”
để “lắng nghe tiếng nói” của nó c̣n phải tiếp
tục đến bao giờ? Sự “tái sinh” của con người
bằng việc “suy niệm hiện sinh” trong cuộc “khủng
hoảng tối hậu” (Jaspers) đă không xảy ra, thay vào
đó chỉ có sự ồn ào đinh tai nhức óc của
mạng lưới truyền thông phản-suy niệm! “Ḍng
nước ấm” vẫn chưa thấy chảy vào trong
chủ nghĩa Marx (Bloch); sự thức nhận về hiện
tượng tha hóa phổ biến chỉ là công việc đặc
tuyển và bí truyền (Adorno) trong khi bộ máy quan liêu hiện
đại thừa sức nhấn ch́m mọi nỗ lực
“phê phán ư hệ”. Và sau cùng, triết học không trở thành
khoa học, cũng không trở thành “khoa học luận” đơn
thuần và… càng không tiêu biến (như dự kiến của
Nhóm Vienna), mà ngược lại, những vấn đề
cố hữu vẫn c̣n đó, trong khi bản thân khoa học
trở nên “khả nghi” hơn lúc nào hết (Wittgenstein,
Popper, Feyerabend, Derrida…). Nói ngắn, việc
“khoa học hóa triết học” cũng đă thất bại
không khác ǵ sự “thức tỉnh hiện sinh” của con người.
Triết học Âu Mỹ thế kỷ XX hầu như chẳng
giải quyết rốt ráo được vấn đề
ǵ, và, bản “kết toán” là… tiêu cực!
Thế nhưng,
một thế kỷ suy tư ắt không phải là vô bổ.
Vậy, đâu là chỗ “tích cực” của nó?
Trước hết, những ai thật sự quan tâm sẽ
t́m được những hướng dẫn về mặt
khái niệm để suy ngẫm về “hiện sinh” của
chính ḿnh, về thực tiễn xă hội và làm sáng tỏ sự
hiểu biết về khoa học. Họ sẽ tỉnh thức
hơn về “sử tính” của tư duy, sẽ nhạy cảm
hơn trước những chiều kích xă hội của toàn
bộ sự tồn tại, về sự không chính xác của
ngôn ngữ và lời nói. Ít ra, triết học
thế kỷ XX đă mở rộng chân trời của chúng
ta, và ngay những lầm lạc có khi cũng có mặt hữu
ích của chúng.
VHPG: Kể cả những thất bại?
BVNS: Vâng,
đúng vậy. Mọi triết học, so với các yêu sách
của chúng, không ít th́ nhiều đều đă “thất bại”,
hay thậm chí đều nhất định phải thất
bại, v́ chân lư không bao giờ ở trong tầm tay của con người. Tuy nhiên, thất bại
cũng có năm bảy đường! Mang niềm hy vọng
rằng ḿnh đang đi đúng hướng để rồi
rút cục thú nhận rằng không đạt được
mục tiêu khác xa với việc nhân danh một chân lư “đă
được nhận thức” hay “đă được
thấu thị” bằng cách nào đó để khơi dậy
niềm hy vọng nơi chính ḿnh và nơi những người
khác và rút cục rơi vào ảo tưởng.
VHPG: Vậy triết học sẽ đi
về đâu? Nhất là trước sự
cảm nhận của giới trẻ?
BVNS: Câu
hỏi định mệnh ngày càng được nhiều
triết gia Tây phương tự đặt ra cho chính ḿnh:
triết học c̣n có một tương lai không? Triết học sẽ ra sao và c̣n để làm ǵ nữa?
Triết học đă đến hồi kết thúc hay… sẽ
không bao giờ có sự kết thúc của triết học?
Các câu hỏi ấy không phải là một cách nói cường
điệu mà rất cấp thiết và chính đáng trước
thắng lợi ngoạn mục của một bên là tư
duy kỹ thuật, tính toán, và bên kia là của mọi thế
lực kiềm chế và ngăn cấm tư duy. Nhiều
người lo ngại rằng việc “điều kiện
hóa” công khai hay dấu mặt đối với tư duy sẽ
bóp chết tư duy tự do về cái toàn bộ thực tại.
Ngày nay, thay chỗ cho bạo lực trắng trợn sẽ
là sức mạnh huyễn mị tinh vi,
chẳng hạn, của công nghệ giải trí và quảng
cáo. Phải chăng một ngày không xa nào đó,
con người không cần phải “suy tưởng” nữa
mà chỉ cần… truy cập? Và, triết học thậm
chí sẽ thừa khi các ngành khoa học riêng lẻ lần lượt
chiếm hết mọi lĩnh vực của trí tuệ con
người, nhất là với giả định rằng
khi một “công thức về
toàn bộ vũ trụ” đă được t́m ra th́
triết học sẽ hết lư do tồn tại (trong trường
hợp đó, thật không có ǵ đáng tiếc cho triết
học cả!). Nhưng, bao lâu điều này chưa trở
thành sự thật, và bao lâu “công
thức vũ trụ” không bao hàm ư nghĩa của vũ trụ và nhân sinh th́ vẫn
c̣n cần đến một loại h́nh tư duy khác, gọi
là tư duy triết học (nếu không, chỉ c̣n hai lựa
chọn: đức tin tôn giáo và sự vô-tư tưởng!).
Chưa ai có thể dự đoán
được triết học thế kỷ XXI sẽ ra
sao, v́ lẽ giản dị: triết học là tư duy tự
do, và, với tư cách ấy, là không thể lường trước
được. Điều duy nhất có thể dự đoán,
- và thế hệ trẻ đang cần chuẩn bị một
“tâm thế” để đón nhận -, đó là: triết học
sẽ trở nên thận trọng hơn, khiêm tốn hơn
và nhất là bao dung hơn khi sẵn sàng mở rộng ṿng
tay hợp tác, kể cả với những kẻ “cựu
thù”.
VHPG: Trở lại với VN, ta thấy
giới trẻ ngày nay học triết học rất
hời hợt và thụ động. Vậy,
triết học có ư nghĩa như thế nào đối
với giới trẻ VN ngày nay? Nhất
là đối với sự đóng góp cho việc phát
triển xă hội?
BVNS: Về
thời lượng, có lẽ chưa bao giờ người
sinh viên VN thuộc mọi chuyên ngành có điều kiện
nhiều hơn thế để làm quen với triết học
và các vấn đề chính trị-xă hội. Nhưng, kết
quả không được như ư, thật là lăng phí và đáng
tiếc! Lỗi không phải là do triết học, càng không
phải là do người học mà chắc là do phương
pháp giảng dạy và học tập. Tôi đang viết Lời
giới thiệu cho bản dịch quyển “Emile hay về giáo dục” nổi
tiếng của J. J. Rousseau (NXB Tri thức sắp xuất bản)
và tôi thấm thía về tệ nạn đă được
Rousseau nêu lên từ thế kỷ XVIII: “thay v́ giúp ta t́m ra các
chứng minh, người ta đọc cho ta viết các chứng
minh ấy; thay v́ dạy ta lập luận, ông thầy lập
luận hộ ta và chỉ rèn luyện trí nhớ của ta mà
thôi”. Rousseau nói thêm: “Vấn đề không phải là dạy
các môn khoa học, mà là đem lại cho người học
hứng thú để yêu khoa
học và đem lại phương
pháp để học những môn đó, khi hứng thú này
phát triển hơn lên. Chắc chắn đó
là một nguyên lư cơ bản của bất kỳ nền
giáo dục tốt nào”. Triết học càng
như thế v́ nó không phải là loại “kiến thức”
có thể mang ra sử dụng ngay được. Đóng góp của nó cho việc phát triển xă hội
là gián tiếp, qua rất nhiều khâu trung gian. Nó chủ
yếu rèn luyện năng lực tư duy trừu tượng
và tinh thần sẵn sàng đối thoại. Không có năng lực và tinh thần này, xă hội sẽ
khó phát triển.
VHPG: Phải chăng đó cũng là lư do
khiến ông dành nhiều tâm sức để làm công
việc “khó hiểu” trong thời buổi hiện nay:
dịch và chú giải nhiều tác phẩm triết học
kinh điển thật đồ sộ? Ông
có thấy “hối tiếc” v́ đă mất quá nhiều
thời gian không?
BVNS: Rousseau,
trong sách nói trên, cũng có một câu rất hay: “học tập
và giáo dục là một nghề, ở đó cần biết
mất thời gian để dành được thời
gian”. Thật ra, tôi chỉ tiếp tục làm
công việc mà những người đi trước đă
làm v́ thấy cấn thiết, và tiếc rằng c̣n quá ít ỏi.
Bên cạnh giá trị bất hủ của các
tác phẩm kinh điển, việc dịch và chú giải, với
tôi, trước hết là để tự học tiếng
Việt. Ngay từ 1921, cụ Phạm Quỳnh đă
sớm có nhận xét xác đáng: “việc dịch sách là việc
có ích lắm, v́ có đem tiếng nói của ḿnh chọi với
tiếng người ta th́ mới biết rằng ḿnh thiếu
những ǵ, ḿnh có những ǵ, thiếu đâu bổ cứu
đấy, và khi phát biểu ra, tư tưởng của ḿnh,
văn từ của ḿnh nhờ đó được phong
phú thêm lên”. Năm 1924, Cụ lại viết: “phàm tư tưởng
ǵ mà không nói ra được tiếng ta th́ chưa phải
tư tưởng của ḿnh, c̣n là tư tưởng mượn
cả… Nay đem diễn ra tiếng ta, tức là biến
nhuyễn ra cho dễ dung ḥa vào khí huyết tinh túy của
ta, cho dễ cùng nhau điều ḥa trong óc ta vậy”. Đó quả
là một cách tiếp phát văn hóa thật sáng suốt và cụ
thể giống như Hegel đă từng muốn “bắt
triết học phải nói tiếng Đức”! Ngh́n năm trước,
Ngài Huyền Trang đă là một tấm gương rực
sáng.
VHPG: Trong bối cảnh toàn cầu hóa
rầm rộ hiện nay, ông có thể nói thêm về một
thái độ đúng trong việc tiếp nhận văn
hóa nước ngoài?
BVNS: Câu
hỏi cũng quá to tát, nhưng, nói ở một góc độ
hẹp, theo tôi, cần phân biệt và tuyệt
đối không nên đánh đồng giữa việc đối
kháng tính hạ cấp với việc đối kháng tính
ngoại lai. Tác hại của toàn cầu hóa đến
văn hóa bản địa, nếu có, không phải do nguồn
gốc ngoại lai (Nho, Lăo, Phật trước đây cũng
như khoa học hiện đại và cả chủ nghĩa
Marx ngày nay chẳng phải đều là ngoại lai sao?) mà
do tính đại chúng tầm thường của văn hóa
xâm nhập.
VHPG: Ông có theo đạo
Phật không? Và ông thích nh́n đạo Phật theo kiểu tín ngưỡng, triết học
hay là một sự giác ngộ tâm linh?
BVNS: Tôi
không phải là một Phật tử, hiểu theo nghĩa tín đồ. Nhưng, tôi sẵn
sàng “theo” mọi nền đạo lư hướng thượng
và nhân bản. Như mọi người dân Việt, tôi may
mắn lớn lên trong khung cảnh ḥa hợp của nhiều
giá trị văn hóa. Tôi ngưỡng mộ sự chính trực
trong đạo của người quân tử; tôi thích tinh
thần phóng dật của Lăo Trang; tôi hạnh phúc trong đức
từ bi và hạnh vô chấp của đạo Phật và
tôi yêu thái độ tự phê phán và sẵn sàng thú nhận
thất bại để tiếp tục đi tới của
triết học và khoa học Tây phương. Vốn liếng tinh thần ấy đủ cho tôi
lạc quan hướng về tương lai. C̣n ngay “ở
đây và bây giờ”, tôi đang được hưởng
hạnh phúc mà tạp chí Văn
hóa Phật giáo ban cho.
Bùi Xuân
Phượng thực hiện, tháng 05.2008