Dịch giả, nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn:
“Tự đóng cửa là
tự hại ḿnh”
Nhiều năm qua,
dịch giả Bùi Văn Nam Sơn dày công dịch và chú
giải ba quyển Phê phán nổi tiếng của I. Kant: “Phê phán lư tính thuần túy”
(2004, tái bản 2007), “Phê phán
năng lực phán đoán”, “Phê
phán lư tính thực hành” (2007) và “Hiện
tượng học Tinh thần” của G.W.F. Hegel (2006).
Ông sắp cho ra mắt “Khoa
học lô gíc” (Hegel), tác phẩm nền tảng về
phép biện chứng. Để có các bản dịch chính
xác, ông đă đối chiếu nhiều bản dịch
tiếng Anh, Pháp, Trung, và có công chú giải tác phẩm
một cách kỹ lưỡng, khoa học, một việc
lâu nay chưa ai làm được. Đặc biệt,
bản dịch “Phê phán lư tính
thuần túy” (dày 1.300 trang) đă được Quỹ
dịch thuật Phan Châu Trinh và Đại học Quốc
gia Hà Nội trao tặng giải thưởng Tinh hoa giáo
dục quốc tế 1.2007.
Việc dịch thuật
được nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn tiến
hành trong lặng lẽ, kiên tŕ, xuất phát từ quan
điểm: “Đối với nước ta, công cuộc
tu thư ngày càng bức thiết để nhanh chóng lấp
khoảng trống về học thuật, bù lại
những quăng thời gian và cơ hội đă bị
bỏ lỡ, nhằm tiếp cận một cách toàn
diện hơn, chính xác hơn các trào lưu tư
tưởng và thành tựu khoa học trên thế giới.
Việc dịch sách kinh điển là con đường
ngắn nhất trong việc tiếp phát văn hóa.”
- Sau giải thưởng Tinh hoa giáo dục quốc
tế, ông tiếp tục dịch tác phẩm của I. Kant và Hegel cho liên mạch, hay dịch
một tác giả nào khác? Ông nghĩ ǵ về t́nh h́nh
dịch thuật chung hiện nay?
- Hiện nay dịch
thuật có 3 mảng: văn học, thông tin giải trí và
khoa học. Tuy chất lượng dịch không
đều, nhưng phải nh́n nhận có những khởi
sắc đáng mừng. Có lẽ, do nhu cầu thị
trường mà mảng giải trí được dịch
khá nhiều, trong khi sách khoa học c̣n ít; thậm chí quá ít,
không tương xứng với một đất
nước 80 triệu dân, với hàng chục triệu sinh
viên học sinh. Ở nước ngoài, ngay học sinh
lớp 6 đă không thụ động nghe thầy
giảng, mà bắt đầu tự đọc các tác
phẩm do thấy chỉ dẫn. Nếu ta cũng thay
đổi theo cách đó th́ số lượng sách sẽ
không chỉ dừng ở 1.000 bản mà tăng gấp
trăm lần, với giá rẻ. Tuy nhiên, ở ta vẫn
chưa có thói quen tập cho sinh viên, nói ǵ đến học
sinh, làm việc khoa học, trên cơ sở tiếp cận
trực tiếp với văn bản như thế. Cách
học gián tiếp khiến người học VN không
tự tin. Đơn cử, một trong các cuốn sách quan
trọng vào bậc nhất về chính trị học
tại Mỹ hiện nay là “Một
lư thuyết về sự công bằng” (A Theory of Justice)
của John Rawls đă có hơn 3.000 bài nghiên cứu viết
về nó. Làm sau đọc hết, mà có đọc hết
cũng không biết đúng sai thế nào và nhất là không
thể tham gia thảo luận nếu không trực tiếp
biết ông Rawls nói ǵ. May mắn là tác phẩm ấy đang
được Tủ sách Tinh hoa của NXB Tri thức
tổ chức dịch và hy vọng sớm ra mắt.
Tóm lại, người
học cần tiếp xúc với tác phẩm đầu
nguồn của khoa học thế giới. Đây là
điểm yếu của nền học thuật VN, v́ ta
đang thiếu nhiều công cụ cơ sở cho
người học. Phần tôi, vẫn tiếp tục
cố gắng đóng góp một phần nhỏ vào tủ
sách cùng với nhiều người khác.
Với tư cách là một trong các nhà giáo dục
lớn của mọi thời đại, Kant c̣n đóng vai
tṛ “khai sáng” như thế nào trong đời sống xă
hội hiện nay, theo ông?
- Tôi xin phép đổi
chữ “Khai sáng” quen
thuộc thành chữ “Khai minh”
theo đúng ngữ pháp Hán Việt. Kant viết: “Khai minh là
việc con người đi ra khỏi sự không
trưởng thành do chính ḿnh tự chuốc lấy”. Không
trưởng thành là sự bất lực không biết dùng
đầu óc của ḿnh mà không có sự hướng
dẫn của người khác. V́ thế, ông bảo:
khẩu hiệu của sự Khai minh là: “sapere aude!” (latinh:
Hăy dám biết!), hăy có gan dùng đầu óc của ḿnh. Con
người rất thích ở yên trong t́nh trạng không
trưởng thành, v́ mọi việc đă có người
khác chỉ dẫn, sắp đặt, lo liệu. Thoát
khỏi “xiềng xích êm ái” ấy, con người thấy
bơ vơ, lúng túng, v́ không quen suy nghĩ và vận
động tự do. Một cuộc cách mạng có thể
lật đổ kẻ độc tài nhưng không phải
dễ dàng mang lại sự cải cách đích thực
về lề lối tư duy. Theo nghĩa đó, Khai minh là
một tiến tŕnh tất yếu, bất tận. Vận
dụng vào lĩnh vực giáo dục, nó măi măi có ư nghĩa
thiết thực: khuyến khích, bảo vệ quyền
tự do nghiên cứu của nhà khoa học, vun bồi tinh
thần phê phán và khả năng tự đề kháng
của người học.
C̣n xét như một phong trào lịch sử?
Phong trào Khai minh bắt
đầu ở Châu Âu từ giữa thế kỷ 17
(nếu tính từ năm 1667 với “Luận văn về
sự khoan dung” (Essay on Toleration của John Locke) cho đến
đỉnh cao là Đại cách mạng Pháp 1789. Sau hai
thế kỷ gian khổ, phương Tây đă tạo
được những tiền đề cơ bản cho
xă hội hiện đại: nền giáo dục phổ
cập, nền khoa học và đại học tự
trị, chế độ cộng ḥa trên cơ sở tam
quyền phân lập (Montesquieu) và sự tự do của các
nhân quyền và dân quyền (Rousseau) cùng với cơ sở
vật chất là nền kinh tế hàng hóa và đại công
nghiệp tư bản chủ nghĩa… V́ thế,
người Tây phương ngày nay vẫn tự nhận
ḿnh là con đẻ của thời Khai minh, dù từ thế
kỷ 19 đến nay, họ không ngừng t́m mọi cách
để điều chỉnh và khắc phục các
hạn chế và khuyết tật của nó. Các nước
Đông Á tiếp nhận dư ba, hồi quang của phong
trào này khá muộn màng. Nếu nước Nhật c̣n có ít
nhiều thời gian để canh tân, th́ Trung Quốc và
nhất là Việt Nam
gặp khó khăn hơn nhiều. Ta vừa mới làm quen
sơ bộ với tư tưởng Khai minh (qua các “tân
thư” với phong trào Duy Tân đầu thế kỷ 20),
chưa làm được ǵ nhiều và cũng khó có thể
làm được ǵ trong điều kiện đất
nước mất chủ quyền th́ đă kịp
tiếp thu tư tưởng của Cách mạng Tháng
mười Nga. Tất cả chỉ trong ṿng 20 năm! Sau
đó là cuộc đấu tranh giành độc lập kéo
dài. Như thế, nước ta đi vào thời hiện
đại với “lưng vốn” ít ỏi, lại có
cảm tưởng ḿnh đă vượt qua thời kỳ
Khai minh, thậm chí c̣n “tiên tiến” hơn nó. Vết chàm
của t́nh trạng “tiên thiên bất túc” ấy c̣n đè
nặng lên số phận của dân tộc trên bước
đường hiện đại hóa đất
nước hiện nay.
Ông từng nói dịch sớm và dịch cái đáng
dịch là cách nhanh nhất để bắt kịp thiên
hạ. Phải chăng cũng là một cách “đi tắt
đón đầu”?
Đúng và không. Theo tôi,
“đi tắt đón đầu” có thể đúng ở
một lĩnh vực công nghệ cục bộ hay mánh
lới làm ăn nào đó, hiểu như là sự nắm
bắt thời cơ và có cách làm thông minh, tiết kiệm,
c̣n học thuật và dân trí th́ phải theo một tuần
tự chứ không thể chờ có phép lạ. Muốn
tiếp thu những giá trị vĩnh cửu và tiên tiến
đích thực, phải có nền tảng, phải cần
thời gian, chỉ đừng để mất thời
gian v́ đi đường ṿng. Những giá trị ấy
độc lập với dân tộc, chính trị. Tự
ḿnh đóng cửa th́ hạn chế tầm nh́n, chỉ có
hại cho ḿnh thôi. Bởi lẽ, ḿnh không đọc sách th́
sách đâu có chết! Niềm tin được củng
cố thực sự khi được so sánh và thử
thách với các tư tưởng khác. Nói như Hegel, tin là
phải hiểu cái ḿnh tin.
Nước ta chưa có được một
truyền thống nghiên cứu khoa học lâu đời.
Việc tiếp thu từ bên ngoài cũng c̣n lỗ mỗ,
thiếu hệ thống. Thêm vào đó, lối giảng
dạy ở nhà trường, nhất là ngành triết và các
ngành khoa học xă hội-nhân văn c̣n nhiều lỗ
hổng và thiên lệch. Ông nghĩ sao về điều này?
Năm nay chúng ta kỷ
niệm 100 năm phong trào Duy tân và Đông kinh nghĩa
thục. Đă lần lượt có các buổi hội
thảo nhân dịp này ở Hà Nội, Hội An, và vào ngày
21.9. tại Đại học Khoa học Xă hội và Nhân
văn TP. HCM, kết hợp với lễ ra mắt ở
phía Nam
của Quỹ dịch thuật Phan Châu Trinh. Theo tôi nhận
xét, đó là các dịp rất tốt để anh chị
em tri thức tâm huyết cùng nhau suy nghĩ và cố
gắng làm những ǵ chưa làm được. Thật
ra, là phải làm nốt những ǵ các cụ chưa thể
làm do hoàn cảnh lịch sử khắc nghiệt và hăy làm
những ǵ lẽ ra chúng ta đă phải làm. Chúng ta đă
mất quá nhiều thời gian và thời cơ!
Nhất là trong bối cảnh hội nhập và giao
lưu quốc tế dồn dập với số
lượng kiến thức khổng lồ như ngày nay?
Vâng, trong thời hội
nhập, vẫn không thể giao lưu nếu không hiểu
nhau và không hiểu nhau ở cùng một tŕnh độ.
Việc hiểu quan trọng nhất phải thông qua
học thuật. Trước đây loài người
thấy thế giới tự nhiên rất khó hiểu. Sang
thế kỷ 21, do sự phát triển vượt bậc
của khoa học và kỹ thuật, việc t́m hiểu
tự nhiên có khi không khó khăn bằng hiểu cái thế
giới tự nhiên thứ hai do con người tạo ra
(tức khối lượng tri thức khổng lồ
của nhân loại). Không biết chọn lọc tinh hoa,
người học rất có thể lạc vào khu rừng
rậm, không tiếp cận nỗi. Đây là việc làm
rất quy mô và đ̣i hỏi sự kiên tŕ. Để làm
được công việc to lớn là đưa tri
thức thế giới vào Việt Nam một cách hệ
thống, lẽ ra phải có một đội ngũ hùng
hậu những dịch giả - học giả chuyên sâu
về một ngành, một lĩnh vực, một tác giả,
thậm chí một tác phẩm. Ḿnh đụng đâu làm
đó, chỉ dựa vào người biết ngoại
ngữ chứ chưa phải những người
chuẩn bị dày công cho việc dịch sách khoa học.
Đó là chưa nói thù lao không đủ sống!
Đội ngũ dịch giả, như ông nói, đă
thiếu lại yếu, giải quyết vấn đề
này thế nào, thưa ông?
Có lẽ chúng ta nên
học kinh nghiệm của Nhật bản và Hàn quốc.
Họ biết rằng công cuộc cải cách giáo dục
phải bắt rễ từ nền móng khoa học. Do
đó, bên cạnh việc đào tạo chuyên gia ở ngoài
nước, họ chủ yếu dựa vào lực
lượng hùng hậu tại chỗ là sinh viên, nếu
không, chẳng biết lấy đâu ra. Giáo sư
hướng dẫn sinh viên làm luận án thạc sĩ,
tiến sĩ, bằng cách cho họ dịch, chú giải,
b́nh luận những tác phẩm kinh điển trên thế
giới. Đây là nguồn lực vô tận, lại không
tốn kém nhiều mà dễ tổ chức có hệ
thống. Nh́n phương Tây mà xem. Trong thời gian
tương đối ngắn, họ đă có trong tay
hầu hết những bản dịch đáng tin cậy
về văn hóa và văn minh phương Đông. Họ
đă làm theo cách ấy, và c̣n có thuận lợi là dựa
vào nguồn du học sinh Châu Á ở nước họ
để dịch kinh điển phương Đông, có
sự thẩm định của ban giám khảo. Hai bên cùng
có lợi, và người tốt nghiệp thực sự có
được kiến thức vững vàng.
- Ông thường nói: “Học triết th́ nên
đến thẳng với “Phật” chứ không thông qua
“các nhà sư”. Để học và dịch những tác
phẩm đồ sộ, ông có phải đi
đường ṿng không?
- Đi đường
ṿng nhiều chứ. Mất th́ giờ vô cùng. Mất
sức nữa. Đơn giản v́ tôi không có
được các bản dịch giúp cho ḿnh tham khảo khi
c̣n trẻ. Ít được thụ hưởng công tŕnh của
đồng hương ḿnh. Những sinh viên đi du
học như tôi đều gặp những trở
ngại lớn như thế. Tôi có bạn học là
một sinh viên người Hàn cùng cặp t́nh nhân
người Nhật. Lúc sang Tây Đức, tôi đă có
bằng cử nhân, c̣n cặp t́nh nhân kia th́ chưa, và c̣n
rất trẻ. Thế nhưng, tôi và ông bạn
người Hàn hết sức ngạc nhiên trước
tŕnh độ của họ. Hỏi ra mới hay, họ có
trong tay cả hai bản dịch toàn tập bằng
tiếng Nhật, cùng sách tham khảo, từ điển.
Vào năm 1970, Hàn Quốc cũng như ḿnh. Nhưng gần
đây, ông bạn Hàn Quốc viết thư khoe với tôi,
sau khi về nước, thế hệ của ông và
trước ông một ít đă dịch những bộ toàn
tập các tác giả lớn nhất qua tiếng Hàn. Ông c̣n
nói đùa: “bảo đảm chất lượng
Đức quốc!”. Từ chỗ tay trắng, sau 30
năm, Hàn Quốc đă có một kho tàng kinh điển.
Tôi hết sức kinh ngạc v́ điều này.
- Nâng cấp đại học VN nên bắt
đầu từ việc trùng tu nền học thuật.
Liệu một thế hệ đă có thể lấp
đầy những lỗ hổng này?
- Chúng ta đă có một
nền học thuật b́nh thường như các
nước khác hay chưa mới là vấn đề.
Muốn cải cách giáo dục, xây dựng đại
học có đẳng cấp khu vực th́ trước
hết phải làm những công việc b́nh thường
như người ta đă. Nh́n vào thư viện sẽ
thấy ngay nền học thuật, dịch thuật
của một đất nước đến đâu.
Vậy phải làm ngay kẻo không kịp. Không có phép lạ
nào ngoài việc có biện pháp hợp lư, rồi làm việc
kiên tŕ và lâu dài. Không ai dám chắc, nhưng nếu làm
tận lực, một thế hệ vẫn có thể
khắc phục được lỗ hổng ấy. Quan
trọng là phải thấy việc tiếp cận tinh hoa
thế giới một cách có hệ thống là cần
thiết. Sau đó mới đến việc sử
dụng chất xám của sinh viên cao học.
- Xin cảm ơn ông.
Box: Nhà nghiên cứu,
dịch giả Bùi Văn Nam Sơn học triết
học tại Đại học Văn khoa Sài G̣n
trước đây (64-68), sang Đức du học từ
năm 1968, đă dịch và hiệu đính nhiều tác
phẩm triết học và khoa học xă hội.
(Báo Lao Động, Nhật Lệ thực hiện,
tháng 9.2007)