“Luyện nội công song song với học
quyền cước”
1.
Thời gian theo
học và sinh sống tại Đức ắt hẳn có
nhiều thử thách, cũng như thú vị. Ông có thể
chia sẻ những kinh nghiệm cụ thể này với bạn
đọc được không?
Cảm ơn Anh đă
có ḷng quan tâm đến một lănh vực và một việc
làm “xa rời thực tế”. Về thời gian ở Đức
của tôi từ 1968 đến nay, “sinh sống” th́ có, c̣n
“theo học” th́ không mấy tí; “thú vị” th́ cũng chút ít,
c̣n “thử thách” th́ chẳng đáng là bao. Nếu “có thể
chia sẻ kinh nghiệm”, xin chỉ nói sơ về việc
học. Khi tôi sang Đức, nói riêng về khoa Triết mà
tôi được biết, đại học Đức
(và có lẽ ở Âu Mỹ nói chung) đă cải cách việc
dạy và học từ lâu. Với tấm bằng “Cử
nhân giáo khoa triết học Tây phương" (Đại
học Văn Khoa Sài G̣n) trong tay, với chút ít giáo tŕnh và đôi
quyển “Nhập môn” trong bụng, tôi bị bất ngờ
v́ không c̣n được hưởng sự êm ấm của
cảnh “thầy đọc tṛ chép” quen thuộc. Bên đó,
chỉ một số nhỏ các đại giáo sư, tầm
cỡ “triết gia” mới “dám” đọc giáo tŕnh (tiếng
Đức gọi là “Vorlesung”), nếu không, chẳng ai thèm
nghe. Hầu hết chương tŕnh là những “xêmine”, chia
làm hai loại: “xêmine dự bị” và “xêmine chính” chẳng
khác nhau là bao và ai dự cũng được, nên tŕnh độ
chênh lệch khiến “đàn em” thường phải dựa
cột mà nghe. Họ làm ǵ trong các xêmine ấy? Học tác giả
nào th́ lật sách của tác giả ấy ra mà đọc!
Không có nguyên bản th́ đọc bản dịch đáng tin
cậy. Đọc, chia phiên thuyết tŕnh, (hoặc soạn
“biên bản” thảo luận nếu không có gan thuyết
tŕnh!) và… căi nhau. Mà họ làm rất nhẫn nha, kỹ lưỡng.
Chẳng hạn, xêmine về quyển “Hiện tượng
học Tinh thần” của Hegel được cả thầy
lẫn tṛ quần nhau suốt một lục cá nguyệt,
nhưng vẫn chưa xong “Lời Tựa”!. C̣n cả ngàn
trang nữa th́ sao đây? Không sao hết! Cùng nhau đọc
kỹ “Lời Tựa” cái đă, v́ anh (hay chị) c̣n cả
đời để tự đọc Hegel cơ mà. Tôi
choáng váng với cách học ấy và suốt mấy năm
trời nghe như vịt nghe sấm. Ước ǵ được
như mấy ông bạn người Nhật, người Hàn
Quốc có sẵn bản dịch và từ điển của
tiếng nước họ, đỡ khổ hơn biết
mấy! Từ đó, tôi rút ra hai “kinh nghiệm”:
- học
Triết th́ nên đến thẳng với “Phật” chứ
không (hoặc chưa) nên thông qua các “nhà sư”!
- nếu
không có những bản dịch và chú giải thật tốt,
thật đầy đủ và kịp thời th́ chắc
là khoa Triết ở mọi đại học phương
Tây phải “đóng cửa” hết!
2.
Về môi
trường sống, cũng như học hành, làm
việc… ông nghĩ VN có những điểm nào thực
sự khác biệt với Đức?
Người ḿnh nên
học người Đức (và không chỉ người
Đức!) tính chăm chỉ và chu đáo.
3.
Trong thời gian ở
Việt Nam gần đây, tại sao ông lại chọn ngay I. Kant với bộ sách rất khó: “Phê phán lư tính thuần tuư”; và
Hegel với “Hiện
tượng học Tinh thần”, cũng khó không kém,
để dịch và chú giải?
V́ đây là hai quyển
“làm khổ” sinh viên ban Triết nhiều nhất, giống
như câu nói: “Làm săi th́ sợ Chú Lăng Nghiêm” vậy! Ai cũng
phải qua hai “cái cầu” này mới hy vọng hiểu được
tư tưởng Tây phương cận và hiện đại.
Tất nhiên, không chỉ có thế.
4.
Những cuốn
sách dày như thế này, ông đă làm việc trong bao lâu, và
cách làm của ông như thế nào?
Tôi cứ từ từ
mà làm, như học tṛ học thi hay như người đi
leo núi. Không nh́n cả quyển, cũng không nh́n cả chương
mà chỉ nh́n từng đoạn giữa hai chỗ chấm
câu sang hàng của tác giả. Ráng hiểu kỹ rồi mới
dịch. Chưa hiểu th́ t́m hiểu đă. Không hiểu
th́ thưa thật là không hiểu.
5.
Cuốn của
Kant gần 1300 trang với nhiều chú thích và chú giải; cuốn
của Hegel hơn 1600 trang với 1300 chú thích, lại có thêm
toát yếu và chú giải. Tại sao ông phải làm kĩ
lưỡng như vậy? Có khi nào nó làm cho cuốn sách
nặng nề hơn không?
Không có “phụ
tùng” ấy, e cuốn sách c̣n “nặng nề” hơn! Kant bảo
rằng: “tầm cỡ của một cuốn sách không ở
số trang của nó mà ở thời gian người ta cần
để hiểu nó” (xem: Lời Tựa lần xuất bản
thứ nhất, Phê phán Lư tính thuần túy). “Hiểu” Kant và
Hegel mà không cần sự trợ giúp của ai khác th́ chỉ
có hai trường hợp: là một bậc thiên tài tư tưởng
hoặc không… thành thật. Biết ḿnh không thuộc loại
trước và không muốn trở thành loại sau, phần
“rườm rà” này chỉ là cố gắng hỗ trợ lẫn
nhau giữa những người đồng cảnh ngộ.
Đối với những ai thành thật thấy ḿnh may mắn
thuộc loại trước, chúng quả thật rườm
rà!
6.
Hai cuốn sách
gần 3000 trang, tất nhiên có rất nhiều vấn
đề được đặt ra. Nhưng nếu
phải nói ngắn gọn trong một bài phỏng vấn,
ông nói sao về Chủ Đề của hai cuốn sách này?
Địa vị của nó trong lịch sử triết
học?
Kant khuyên ta nên biết
chỗ dừng lại; Hegel th́ khuyến khích ta mạnh dạn
tiến lên. Hegel muốn biến triết học thành khoa học;
tức để “biết
thêm” một điều ǵ đó; Kant bảo rằng khoa
học cần phải “biết” về chính ḿnh, tức nên “bớt đi” một ảo
tưởng, và ông gọi sự tỉnh ngộ ấy là
“Khai sáng”. “Vi Học nhật ích, vi Đạo nhật tổn!”.
Kant và Hegel là hai “mô h́nh” tư duy khác nhau và triết học
ngày nay vẫn nằm trong sự giằng co giữa “khoa học”
và “khai sáng”. Khoa học mà không khai sáng th́ thiếu chất lượng
triết học. Khai sáng mà không khoa học th́ có nguy cơ xa
rời thực tại. Tầm quan trọng của “vụ
việc” cho thấy rơ “địa vị” của cả hai
ông trong lịch sử triết học.
7.
Có quan điểm
cho rằng: với triết học, những cuốn
nhập môn làm trước, kinh điển th́ làm sau. Quan
điểm của ông như thế nào?
Tất nhiên cần
cả hai. “Nhập môn” là để chuẩn bị “đăng
đường”, rồi “nhập thất”. Không “nhập thất”
th́ cứ đứng vẩn vơ măi ngoài cổng, khó thấy
được “vẻ đẹp đẽ của nhà tông
miếu, cảnh giàu có của bá quan” (Luận ngữ). Người
Nhật, khi canh tân đất nước, đă thệ nguyện
với nhau: “Chỉ chịu làm học tṛ một thế hệ
mà thôi!”. Nhờ vậy, họ khá. Ḿnh cũng nên “thệ
nguyện” với nhau như vậy.
8.
Khó khăn lớn
nhất khi ông dịch và chú giải hai cuốn sách này là ǵ?
Ít có người
đi trước để học hỏi, ít có người
đi sau để tiếp tay.
9.
Kế hoạch
trong những năm tới của ông là ǵ?
Vái trời có sức
khỏe để học thêm được chút ít ǵ đó,
cũng như tiếp tục dịch và chú giải một
số tác phẩm “kinh điển”. Trong khả năng cho
phép, tiếp tay với “Tủ sách Tri thức” do anh Chu Hảo
chủ trương.
10.
Thông qua hai cuốn
sách, thông điệp hay ước vọng của ông
[với người đọc, giới nghiên cứu] trong
công việc vốn rất cô đơn này là ǵ?
Xây nhà từ móng;
luyện nội công song song với học quyền cước.
11.
Với
người ta, sách của ḿnh in trước, sách
“người” in sau, nghĩ sao mà ông làm ngược lại?
Phùng Hữu Lan, tác
giả nổi tiếng của bộ “Lịch sử triết
học Trung Quốc” từng than thở: “Làm triết gia th́
không được, làm triết học gia th́ không muốn.
Đó là nỗi khổ tâm của tôi mấy mươi năm
nay”. Tôi biết sức ḿnh, nên không đến nỗi “khổ
tâm” như cụ Phùng.
12.
Câu hỏi vui vui về
cá nhân ông: Hiện nay ông là tộc trưởng của
họ Bùi (Vĩnh Trinh, Quảng Nam), vai chú của cố thi sĩ Bùi Giáng, ông
nghĩ ǵ về chuyện này? Và nghĩ ǵ về Bùi Giáng?
Tôi lưu lạc
lâu năm ở quê người, nay thỉnh thoảng được
sống trong t́nh cảm thân thiết của bà con ruột thịt
trong gia tộc, đó là niềm an ủi và hạnh phúc. Về
Anh Giáng, ngoài chỗ bà con, chẳng biết nói ǵ hơn. Ảnh
là một v́ sao, tôi là con đom đóm; ảnh là một thiên
tài, c̣n ḿnh là một con mọt sách. Như ư vân hà?
(Talawas, Lư Đợi thực hiện, tháng
07.2006)