GẶP GỠ
ĐẦU XUÂN
HĂY DÁM BIẾT
Nhân lễ ra mắt Quỹ dịch thuật Phan Chu
Trinh do Liên hiệp các Hội KHKT VN chủ trương vào
ngày 09.01.2007 tại Hà Nội, dịch giả Bùi Văn Nam
Sơn, Việt kiều ở Đức, là người
đầu tiên giành được giải thưởng “Tinh
hoa giáo dục quốc tế” của Quỹ dịch
thuật Phan Chu Trinh và Khoa Quốc Tế, Đại
học quốc gia Hà Nội với bản dịch và chú
giải tác phẩm “Phê phán lư tính thuần túy” của I. Kant,
đại triết gia và đồng thời là nhà giáo
dục lớn ở thế kỷ 18. Trong diễn từ
nhận giải với nhan đề “Kant, nhà giáo dục”, ông
đă phát xuất từ triết luận của Kant
để soi rọi vào nền giáo dục nói chung và giáo
dục nước nhà trong thời kỳ hội nhập.
Ông mở đầu câu chuyện giáo dục với chúng tôi
bằng câu của Kant: “Hăy dám biết!”.
·
Thưa
ông, Hội đồng giám định về giải
thưởng đă nhận định như thế nào
về tác phẩm của I. Kant?
-
Tác phẩm trên của Kant được
Hội đồng đánh giá cao ở tính chất đào
luyện tâm hồn của nó và, nói chung, về tác giả I.
Kant như một nhà giáo dục.
·
Kant là
đại triết gia, giờ được xem như
một nhà giáo dục, điều đó có thể xem như
một phát hiện?
-
200 năm kể từ ngày Kant qua đời,
bao thế hệ c̣n tranh căi với nhau về nhiều vấn
đề trong triết học của ông, nhưng có lẽ
h́nh ảnh nguyên vẹn đọng lại trong ḷng người
đọc về Kant chính là: Kant, nhà giáo dục. Nói đến
nhà giáo dục, ta thường h́nh dung ba h́nh ảnh quen thuộc:
hoặc là một vị tôn sư, một bậc giáo chủ
chiếm trọn trí óc, con tim của ta khiến ta tự
nguyện làm người đệ tử trung thành. Hoặc
đó là một nhà sư phạm chuyên nghiệp, đề
ra cả một lư thuyết triết lư giáo dục có ảnh
hưởng lớn đến nền giáo dục của một
nước, một vùng văn hóa và kéo dài nhiều thế hệ.
Nhưng cũng có khi là một nhân cách điển h́nh, chỉ
thỉnh thoảng mới trực tiếp đề cập
tới vấn đề giáo dục, nhưng cuộc đời
và hành tŕnh tư tưởng của họ “bảo chứng”
cho những lời nói ấy và có sức mạnh gợi hứng
cho người đời sau. Theo cái nh́n hạn hẹp của
tôi, đức Khổng Tử và I. Kant thuộc loại thứ
ba này.
·
Ông có
thể nói rơ hơn?
-
Đức Khổng Tử được
tôn xưng là “mẫu người Thầy của muôn đời”
nhưng các phát biểu trực tiếp của Ngài về
giáo dục chỉ vỏn vẹn vài mươi câu, chẳng
hạn như “Học nhi bất tư tắc vơng, tư nhi
bất học tắc đăi”, nghĩa là, học mà không suy
nghĩ ắt sẽ sai lầm; suy nghĩ mà không học ắt
sẽ mệt mỏi, rối trí, không mang lại kết quả
ǵ. Ngài chủ trương sự cân đối giữa việc
học và việc độc lập suy nghĩ. Kant cũng
vậy, nếu tập hợp những câu nói trực tiếp
của ông về giáo dục, chúng cũng không nhiều lắm
nhưng ta có thể t́m thấy ư nghĩa cao thâm của chúng
trong quan niệm của ông về giáo dục như là “con đường
của sự khai sáng”. Nó cần cả hai điều kiện:
học vấn, tức khoa học v́ “khoa học là khung cửa
hẹp dẫn đến sự hiền minh” và tinh thần
dũng cảm của óc độc lập suy nghĩ.
·
Các quan
niệm ấy có thể được áp dụng như
thế nào vào nền giáo dục hiện nay ở
nước ta?
-
Kant định nghĩa sự khai sáng là
việc con người đi ra khỏi t́nh trạng không trưởng
thành của chính ḿnh. V́ thế, khẩu hiệu của nó là
“hăy dám biết!”. Điều này vừa có nghĩa là dám xông
vào những lĩnh vực mới mẻ để tăng
tiến sự hiểu biết, vừa có nghĩa là dám nh́n
thẳng vào sự thật để thấy rơ những yếu
kém, lạc hậu của ḿnh hầu nhanh chóng sửa chữa.
·
Đây
quả là thách thức lớn của chúng ta trên bước
đường hội nhập?
-
Tôi cũng nghĩ vậy.
·
Theo ông,
ta phải cải cách thế nào để rút ngắn
khoảng cách tụt hậu khi hội nhập với
nền giáo dục thế giới?
-
Tôi xin trở lại với một vài
nguyên lư của Kant để ta cùng suy ngẫm. Trước
hết, ông bảo: “người học tṛ không học những
tư tưởng mà học tư duy”… Vậy là, chúng ta phải
thay đổi phương pháp dạy và học để
làm sao cho học sinh phải “học tư duy” chứ đừng
“thầy đọc tṛ chép”, nhất là ở cấp đại
học. Không đổi mới phương pháp giảng dạy
th́ chẳng bao giờ mở rộng được năng
lực suy nghĩ và sáng tạo của người học.
Họ cứ tưởng rằng đă có sẵn cái kho kiến
thức đă hoàn tất, v́ thế ngộ nhận về
khoa học. Kant gọi đó là sự “lạm dụng chức
trách sư phạm” của người dạy. Thứ hai,
ông phân biệt giữa triết học (hay khoa học) “trường
ốc” và triết học “toàn hoàn vũ”. Triết học
trường ốc chỉ nhằm đưa ra các quy tắc
sử dụng lư tính cho bất kỳ mục đích nào nhằm
mang lại kỹ năng, tài khéo chứ không cần biết
kiến thức ấy đóng góp ǵ vào lư tính con người
và hạnh phúc của nhân loại. C̣n triết học “toàn
hoàn vũ” là khoa học về cứu cánh chung, duy nhất của
con người. Vậy, ta cần làm cho người học
có kiến thức liên ngành thật tốt, mở rộng
chân trời suy nghĩ và cảm thụ để xứng đáng
là người “công dân của thế giới” v́ những mục
tiêu cao cả chứ không chỉ v́ lợi ích nhỏ hẹp
của bản thân. Nói cách khác, đó là xây dựng một mẫu
người trí thức chân chính.
Để
hội nhập sâu với thế giới, nền giáo dục
của nước ta c̣n rất nhiều việc phải
làm. Nhưng trên hết và trước hết, cần có phương
châm triết lư giáo dục nhân bản và khai phóng làm nền
móng cho những cải cách quyết liệt. Bên cạnh đó,
cần khẩn trương du nhập những kiến thức
và thành tựu mới mẻ của thế giới, mà một
trong các phương cách hiệu nghiệm nhất là nỗ
lực dịch thuật, giới thiệu có hệ thống
kho tàng “tinh hoa tri thức thế giới” nhằm nhanh chóng
rút ngắn khoảng cách về tri thức giữa nước
ta và thế giới. Đó cũng là mục đích của
“Quỹ dịch thuật Phan Chu Trinh”, đang được
đông đảo trí thức Việt Nam trong và ngoài nước
quan tâm và ủng hộ.
·
Xin
cảm ơn ông.
Báo Đại Đoàn Kết, Đăng Ngọc
thực hiện, tháng 01.2007