“TRÀ DƯ TỬU HẬU”
VỀ TRIẾT HỌC
Quanh năm quay cuồng với
chuyện làm ăn, bàn chuyện kinh tế, chính trị, thời
sự; cuối năm có lẽ là dịp để mỗi
chúng ta chiêm nghiệm, suy ngẫm về cuộc đời…
Thử một lần không bàn về chuyện kinh tế, TBKTSG
đă “trà dư tửu hậu” với nhà nghiên cứu triết
học phương tây Bùi
Văn Nam Sơn.
TBKTSG: Hai cuốn Phê phán lư tính thuần tuư của
triết gia Immanuel Kant và Hiện
tượng học tinh thần của triết gia Wilhelm
Friedrich Hegel do anh dịch và chú giải được mọi
người đánh giá như thế nào? Nghe nói cuốn của
Kant in hồi năm ngoái, nay đă được in nối
bản hai lần?
Bùi Văn Nam Sơn: Ngoài một số bài điểm
sách đăng ở nước ngoài, tôi chưa rơ độc
giả trong nước đánh giá thế nào, thấy cũng
có người mua. Loại này th́ đâu thể bán đại
trà. Tôi đoán là giới chuyên môn trong đại học cũng
có mua để làm tư liệu, nhưng chắc cần có
th́ giờ để đọc dần dần. Đọc
mệt lắm cho dù Hegel và Kant rất gần gũi với
Marx. Đọc nhiều nhất về loại sách này có lẽ
là giới nhà báo, nhà văn. Ham vui mà!
Theo anh, hiện tượng
t́m đọc sách triết học hiện nay nói lên điều
ǵ?
Việt Nam trong lịch sử đă
có quá tŕnh giao lưu văn hoá lâu dài với các nước. Tuy
không có truyền thống lớn về suy tưởng triết
học (số nước có được truyền thống
này thật ra có thể đếm trên đầu ngón tay!), nhưng
bù lại, ta có truyền thống không kém phần hiền
minh: để cho các trào lưu ấy được “tịnh hành”, tức cùng tồn
tại và giao ḥa, phát triển. Chúng ta đă gặp gỡ đạo
Phật, đạo Nho từ hàng ngàn năm trước và cũng
đă tiếp cận với phương Tây khá sớm. Tuy
nhiên do nhiều lư do, sự giao lưu đó đă bị chựng
lại và truyền thống “tịnh hành” bị mai một.
Ngày hôm nay hiện tượng anh vừa nói theo cá nhân tôi đó
là sự đáng mừng. Không phải là mừng cho triết
học, v́ triết học đă có từ muôn đời rồi;
đáng mừng v́ điều này chứng tỏ đất
nước đang dần trở lại b́nh thường.
B́nh thường ở đây là biết nhiều thứ, biết
thiên hạ đang nói ǵ và ḿnh nên suy nghĩ ǵ.
Anh có bao giờ nghĩ
người ta t́m đọc triết học như bây giờ
cũng giống như đang theo “mốt”?
Tôi nghĩ triết học
quá “già” để trở thành thời trang. Một xă hội
b́nh thường cần có những sinh hoạt tinh thần
b́nh thường, có nhu cầu tiếp cận những cái mới.
Khi người ta t́m đến triết học điều
này chứng tỏ xă hội đó đă đến giai đoạn
cần nh́n lại bản thân ḿnh. Triết học gọi đó
là sự phản tư. Đó là dấu hiệu về sự
trưởng thành của một xă hội.
Những cuốn sách triết
học vừa mới xuất bản hay tái bản chỉ
mới là sự bắt đầu. Chúng ta vẫn chưa có
điều kiện tiếp cận nền học thuật
này một cách có hệ thống. So với các nước láng
giềng th́ chúng ta quá chậm trong việc phổ biến các
trào lưu tư tưởng và khoa học trên thế giới.
Khi một số người
t́m đọc những tư tưởng triết học mới
(đối với Việt Nam), liệu có thể hiểu
là họ đang đi t́m một lối thoát về mặt
tư tưởng?
Nếu cho rằng đến
với triết học để t́m một lối thoát riêng
cho ḿnh là đánh giá quá cao triết học, và sẽ rơi vào
ngộ nhận và thất vọng khi tưởng rằng có
thể t́m ra trong nó một phép lạ.
Ngày xưa chúng ta đến
với đạo Nho, đạo Lăo, đạo Phật,
hay ngay cả sau này đến với chủ nghĩa Marx cũng
là trong tâm thế đi t́m một lối thoát, một kim chỉ
nam cho tư tưởng và hành động. Thật ra, theo
tôi, triết học và khoa học có chỗ tương
đồng, cả hai chỉ là sự t́m ṭi mà thôi, dù ở
quy mô khác nhau. Triết học khác với tôn giáo và chính trị.
Chính trị là đi t́m những giải pháp cho một t́nh
thế, tôn giáo là đi t́m những sự xác tín để
giải thoát. C̣n ngược lại, đến với triết
học là để t́m sự nghi vấn, để làm lay
chuyển những định kiến và kiểm chứng lại
niềm tin sẵn có. Nó làm ta mất ngủ hơn là an tâm.
Tất cả phải được
đặt lên bàn bằng sự nghị luận, phải tỉnh
táo và lắng nghe người khác nói, đó là tinh thần của
triết học và khoa học. Khi một xă hội phát triển
đến mức có nhu cầu tự vấn, phản tư
về việc ḿnh đang làm, đang nghĩ, th́ nảy sinh
nhu cầu triết học, và đó là sức sống muôn đời
của nó. Nếu giả sử “nghị luận” rằng triết
học đă chết rồi th́ cũng tức là đang làm
cho nó sống măi. Tôi cho rằng không phải v́ sự khủng
hoảng tư tưởng mà cần đi t́m một lối
thoát khác bằng triết học, đặt vấn đề
như vậy là tai hại và giao cho triết học những
nhiệm vụ không phải của nó. Đă qua rồi giấc
mơ của Platon: vua phải là triết gia và triết gia…
phải làm vua! Vị trí của triết học vốn
khiêm tốn và chông chênh. Chẳng thế mà ngày xưa ở
Châu Âu nó không chỉ đứng sau pháp gia [nhà cai trị] mà
c̣n bị bắt làm “con sen” cho thần học [hệ tư
tưởng chính thống] nữa. Chỉ có điều, như
Kant hóm hỉnh tự hỏi: “Không biết “con sen” này có nhiệm
vụ cầm đèn đi trước soi đường hay
“chịu lép một bề” lẽo đẽo đi sau nâng
váy cho bà chủ?”.
Thế c̣n chủ nghĩa Marx trong bối cảnh
hiện nay theo suy nghĩ của anh?
Triết học thể
hiện nguyện vọng của con người đi t́m cái
toàn thể. Triết học duy tâm cho rằng toàn thể là cái
ǵ siêu việt. Marx cũng bàn đến cái toàn thể và cũng
muốn vươn đến sự toàn thể bằng cách
giải quyết sự mâu thuẩn giữa cái hữu hạn
và cái vô hạn hay là “ḥa giải” theo từ mà Marx dùng lại
của Hegel. Ḥa giải giữa tự nhiên và văn hóa, giữa
tất yếu và tự do, giữa con người với
thế giới, giữa cá nhân và xă hội. Tham vọng của
Marx là tham vọng triết học, và là một tham vọng
thật sự chính đáng. Nhưng muốn “ḥa giải” th́
phải hiểu biết thấu đáo cả hai phía, gọi
là “sự trong suốt” của nhận thức trước
khi bắt tay vào hành động. Liệu một nhận thức
như thế có thể có được không và sự ḥa
giải đó có thể diễn ra một cách hiện thực?
Và bao giờ th́ sự ḥa giải đó diễn ra và diễn
ra như thế nào? Ḥa giải với
thế giới hay chỉ lo ḥa giải với nhau ở trong thế giới mà c̣n chưa
xong?
Kant nói rằng ước
vọng vươn đến cái toàn thể là nhu cầu tự
nhiên của con người. Con người bao giờ cũng
muốn đi đến sự tối hậu: trong mọi
nguyên nhân luôn t́m đến nguyên nhân cuối cùng, trong mọi
giải pháp vẫn muốn t́m đến giải pháp triệt
để. Tuy nhiên con người lại thường không
hiểu rằng không thể đạt tới cái toàn thể
v́ ḿnh là hữu hạn. V́ thế, ông khiêm tốn khuyên rằng
chỉ nên xem khát vọng về cái toàn thể hay về sự
“ḥa giải” là lư tưởng, là một chân trời để
vươn tới, nhưng là điều không bao giờ đạt
được trong thực tế, v́ nó là… chân trời!
Nếu chúng ta điều
chỉnh cách nh́n của chúng ta về chủ nghĩa Marx
theo hướng nghĩ rằng đó là một lư tưởng
để vươn tới, mà thế hệ chúng ta chưa
thực hiện được, biết đâu các thế hệ
sau, sau nữa sẽ tiến dần tới đó, nghĩ được
như thế th́ ta sẽ thanh thản và sẽ không trách Marx
nữa. Có lẽ cần có cách hiểu khác về thâm ư câu
nói nổi tiếng của Marx: “Triệt để là nắm
sự việc tận gốc rễ của nó. Mà gốc rễ
của con người chính là con người”.
Hiện nay trên thế giới có những trào lưu triết
học nào lớn?
Trào lưu th́ quá nhiều
nhưng tựu trung có hai xu hướng lớn. Một xu hướng
cho rằng triết học không c̣n vai tṛ ǵ nữa, tất
cả đều là tương đối, khả năng
con người là hữu hạn, không thể thấy được
cái toàn thể. Tất cả các tôn giáo lớn, các hệ tư
tưởng bao trùm và cuối cùng là chủ nghĩa Marx được
người ta gọi là các “đại tự sự”, nghĩa
là các câu chuyện kể hư cấu khổng lồ, có đầu
có đuôi… vẽ ra một chân trời viễn mộng. Những
người theo xu hướng này cho rằng không thể
tin vào các đại tự sự được nữa, ta
chỉ có những câu chuyện nhỏ và chỉ có thể biết
chúng mà thôi. Và đó là công việc của những ngành khoa học
riêng lẻ với sự đa tạp về nội dung và
sự đa dạng đến vô cùng về phương
pháp.
Xu hướng thứ hai
th́ đặt vấn đề nếu không có cái toàn thể
th́ con người làm sao có thể gặp được
nhau. Dù muốn hay không th́ con người vẫn có một điểm
chung với nhau, đó là lư tính. Song, triết học không c̣n
nhiệm vụ chỉ định “chỗ ngồi” cho
mỗi ngành khoa học nữa. Bây giờ nó chỉ làm
nhiệm vụ “giữ chỗ”, giữ một chỗ
tối thiểu để các ngành khoa học có thể gặp
nhau, và như đă nói, đó là miếng đất của
lư tính.
Gần đây nhiều tác
giả lại cho rằng nên đặt vấn đề một
cách dung ḥa hơn. Không ảo tưởng nữa đă đành,
nhưng cũng không nên cắt cụt đôi cánh của tư
duy! Triết học không làm nhiệm vụ giữ chỗ, càng
không chỉ chỗ, cũng không phải là tiểu sự hay
đại sự mà tất cả trở lại với bản
chất cố hữu của triết học, là nghị luận, hay, dùng chữ
thời thượng hơn, là diễn
ngôn (discourse), nhưng trong t́nh h́nh mới. Bối
cảnh thế giới bây giờ đă khác hẳn, tất
cả phải ngồi lại nói chuyện, bằng lư
luận, lập luận trong một sự tỉnh táo,
tương nhượng nhau để t́m một sự
đồng thuận nào đó để làm việc,
để sống và để hy vọng. “Bàn luận
với nhau để mà sống” đó là khẩu hiệu
hiện nay của triết học. Sống, để cho
người khác sống, và cùng nuôi một chân trời hy
vọng, đó là điểm gặp nhau của xă hội
loài người.
Vậy thành quả của triết học trong thế
kỷ 20 là ǵ?
Trước đây
người ta chỉ nói chuyện với nhau bằng súng
đạn, c̣n bây giờ triết học đă vạch ra
cho người ta thấy phải ngồi lại
để bàn luận. Thành tựu lớn nhất của
triết học trong thế kỷ 20, qua bao khúc khuỷu, là
giúp cho người ta b́nh tĩnh hơn, bớt nóng nảy,
độc đoán để nói chuyện cùng nhau. Công lao này
của triết học về lề lối suy tư và phương
pháp luận là rất lớn, từ đó, trong chính trị
hiện thực người ta đă sử dụng chính sách
đối thoại, không đối đầu, chính sách
giảm căng thẳng, chính sách đa phương hoá quan
hệ, để cùng nhau “thắng-thắng”… Tất cả
những ǵ đang diễn ra trong hiện thực của
chính trị, kinh tế, xă hội ngày nay là sự tích lũy
của một quá tŕnh khủng hoảng và tỉnh ngộ của
triết học từ cuối thế kỷ 19 và suốt thế
kỷ 20.
Theo anh, quan niệm
đa cực hiện nay là do triết học làm nền
tảng hay tự nhiên nó có?
Triết học chỉ
soi sáng thôi, chỉ giải thích việc đó là do sự
phát triển kinh tế xă hội toàn cầu nên chỉ có thể
là đa cực. Phải có sự đa dạng trong tư
tưởng, sự thừa nhận các nền văn hoá
khác nhau, th́ nhân loại mới đi đến
được giai đoạn toàn cầu hóa như ngày hôm
nay.
Trước đây không
ai thừa nhận giá trị tự tại và phổ quát của
nhiều nền văn hóa, thậm chí, người ta nói
chỉ có nền văn hoá Âu châu. Người Âu châu ít khi thừa
nhận nền văn hoá Á châu. Văn hóa Phi châu và Mỹ
châu th́ lại càng không có. Nhờ những thành tựu nghiên
cứu khoa học và triết học tổng quát, người
ta đă đi đến chỗ cho rằng tất cả
các nền văn hoá đều có giá trị riêng của nó, đều
đồng đẳng, chúng chỉ có khác nhau thôi. Khác
biệt chứ không hẳn là hơn kém. Thừa nhận có
nhiều nền văn hoá khác nhau có nghĩa là tôn trọng nhiều
giá trị khác nhau, nhiều lối suy tư khác nhau. Và v́
thế không có sự độc quyền về văn hoá
nữa. Nhưng, điều này không đồng nghĩa với
sự tự tôn, co cụm, phủ nhận cái phổ quát,
giương ngọn cờ “toàn thủ” (integrism). V́ lẽ
nền văn hóa hiện đại và công cuộc hiện đại
hóa văn hóa cần có cả hai đặc điểm: một
là, thừa nhận các nền văn hóa khác và trong bản
thân một nền văn hóa cũng không c̣n một trung tâm
duy nhất “ban phát”; thứ hai, nền văn hóa ấy phải
có năng lực tự phản tư, tự phê phán nữa.
Kant có công rất lớn trong đặc điểm thứ
hai này nên được gọi là nhà đại khai sáng của
thời hiện đại. Ngay “lư tính” cũng không được
hiểu đơn giản, “nhất phiến”. Ta có cả
lư tính lư thuyết, lư tính thực hành, năng lực phán đoán
thẩm mỹ, năng lực tương giao và năng lực
định hướng v.v… Xă hội nào chưa đạt
được hai điều này th́ chỉ mới ở
thời tiền hiện đại dù đă sử dụng công
nghệ cao. Ví dụ một số nước Trung Đông
dù có công nghệ cao, vẫn là một xă hội tiền
hiện đại v́ chưa thừa nhận các nền
văn hoá khác và chưa hề đặt vấn đề
phản tư.
Việt Nam là một xă hội
hiện đại hay là tiền hiện đại?
Việt Nam bây giờ đang
hiện đại hoá từng phần và do thời thế
thúc đẩy hơn là chủ động. Tiến tŕnh thức
tỉnh về hai điều kiện song đôi nói trên đây
đă bắt đầu từ đầu thế kỷ XX
khi các Cụ nhận ra rằng ánh sáng không chỉ đến
từ phương Bắc, rằng “Thái Tây” không chỉ có bọn
thực dân xâm lược mà cũng có “thánh hiền”, nào là
Bá Lạp Đồ (Platon), Khang Đức (Kant), Lư Thoa
(Rousseau), Mạnh Đức Tư Cưu (Montesquieu)… và đồng
thời biết tự phê phán về cái học hủ nho và
các khuyết tật hủ bại của nền văn hóa
nước ḿnh. Tiếp tục một quá tŕnh c̣n dang dở
là gánh nặng trên vai các thế hệ ngày nay.
Vậy làm sao
để hiện đại hoá xă hội?
Hiện đại hoá
không phải chỉ là đưa máy móc, sách vở về là
được. Hiện đại hoá trước hết là
thay đổi đầu óc, và muốn thế, cần xây
dựng một tầng lớp trí thức độc lập.
Độc lập chứ không phải đặc quyền
hay được ưu đăi. Trí thức là nội lực
tinh thần, là nguyên khí quốc gia, là tiết tháo (nghĩa đen:
sự giữ ǵn trinh tiết) của một dân tộc. Nhà
cầm quyền yêu nước – và biết “cái đạo
yêu nước” nói như nhà khai sáng Phan Châu Trinh – nên làm “bà đỡ”
để xây dựng cho được tầng lớp này,
chấp nhận cho tầng lớp này lớn lên. Phải tạo
điều kiện cho tầng lớp trí thức có căn
bản học thức và phẩm hạnh đàng hoàng. Có
tầng lớp này, chúng ta mới có phản tư, mới
có khoa học, mới hiểu được thế
giới, mới bàn được các vấn đề
với thế giới…
Nói như thế th́
trách nhiệm của một người trí thức là quá
nặng nề?
Theo tôi, muôn đời vẫn
vậy. “Cổ kim thức tự đa ưu hoạn” (Nguyễn
Trăi). Chỉ có điều: trước đây là lời
than thở, nay nên hiểu là nghĩa vụ. Trách nhiệm của
một người trí thức là nh́n xa, thấy rộng, tự
trọng và dấn thân. Xin lấy một ví dụ: nước
Anh được như ngày hôm nay là nhờ những đại
trí thức như John Stuart Mill. Ông ta dự báo rằng sớm
muộn ǵ cũng có phổ thông đầu phiếu ở nước
Anh thời chuyên chế Victoria.
Cái lo của ông ấy không phải là bao giờ có phổ thông
đầu phiếu mà là làm thế nào để việc đó
có thực chất. V́ thế, ông bảo: phổ thông giáo dục
phải đi trước phổ thông đầu phiếu.
Nghĩa là, phải chuẩn bị cho ngày ấy, như câu
tục ngữ: “ai muốn đi xa, phải chuẩn bị
yên cương”. Hồi đó John Stuart Mill đă rất trăn
trở chuyện làm sao giáo dục cho tầng lớp công nhân,
lao động c̣n rất tăm tối của nước ông
để họ hưởng được ngày bầu cử
tự do đó. Ông cũng là người chủ trương
chủ nghĩa xă hội. Có một điều buồn cười
là hai ông Marx và Mill cùng sống một chỗ, ở London, suốt
20 năm trời mà không biết nhau và cùng giương ngọn
cờ chủ nghĩa xă hội. Marx cho rằng phải vô sản
hoá, c̣n Mill th́ lại cho rằng phải hữu sản hóa,
phải làm cho mọi người giàu lên… công nhân mạnh lên
th́ mới ăn nói ngang ngửa với nhà tư bản…
Kể câu chuyện như
vậy để thấy rằng vai tṛ của trí thức
là rất lớn.
Anh nói bây giờ
phải xây dựng tầng lớp trí thức, nhưng chúng
ta cũng cần phải xây dựng tầng lớp doanh
nhân, kỹ thuật viên, tầng lớp công chức có
năng lực. Vậy th́ phải bắt đầu từ
đâu?
Có quá nhiều chuyện
phải làm, nhưng việc này sẽ thúc đẩy việc
kia và tôi nghĩ tất cả phải bắt đầu từ
giáo dục.
Báo Xuân Thời báo Kinh tế Sài G̣n,
Vơ Trần B́nh Phương thực hiện, tháng
01.2007