CÂU CHUYỆN
DỊCH THUẬT
BAO GIỜ CÓ NHỮNG “DỊCH
TRƯỜNG”?
Bùi Văn Nam Sơn
Là người
yêu danh thắng, đại ca Nguyễn Chấn Hùng lặn
lội đi thăm khắp chốn Đông Tây. Riêng về
Trung Quốc, đại ca tổng kết lại: “Tôi được
thăm đất Trường An, Tây An
xưa và nay. Quá khứ Trung Quốc chồng chất tại
đây: đế đô Phong, Hạo của nhà Chu, kinh đô
Hàm dương của vua Tần, đế đô Trường
An của Hán Cao Tổ nằm hai bên bờ sông Vị Thủy.
Tôi được thăm bảo tàng Binh Mă Dũng trong lăng mộ Tần Thủy Hoàng, được
cùng nhà thơ Bạch Cư Dị ngậm ngùi cho mối
t́nh của Đường Minh Hoàng và Dương Quư Phi tại
Thanh Hoa Tŕ nơi mỹ nhân thường tắm gội.
Và tháp Đại
Nhạn với tượng Đường Tam Tạng lại
đậm nét nhất trong tôi” (DNSGCT, số 23 tháng 2.2009).
Chữ “Và” nhẹ như không mở đầu câu cuối,
song tôi muốn đọc thành chữ “Nhưng”! Lạ nhĩ mà cũng
hay thật: tên tuổi bao anh hùng, mỹ nhân lừng lẫy
một thời khiến ta kinh hăi và xót thương, mà rồi
cũng phôi pha. Đọng lại “đậm nét nhất”
trong tâm khảm lại là h́nh ảnh một lăo thư sinh áo
vải, cặm cụi một ḿnh sang phía Tây, dăi gió dầm
sương cầu học, lầm lũi trở về cố
quốc, lại cặm cụi với quyển sách và cây bút
cho đến phút cuối đời, với lời trăn
trối: “Các ngươi hăy b́nh tĩnh và hoan hỉ từ
giả cái thân giả tạm này sau khi nó đă làm xong nhiệm
vụ”. Tức là xem tấm thân ḿnh cũng như tờ giấy,
cây bút! Chỉ để “làm xong nhiệm vụ”.
Nhiệm vụ ǵ vậy? Đường
Thái Tông nói hộ Ngài:
“Chân giáo khó tin, được mấy
kẻ nhất tâm quy ngưỡng
Tạp học dễ tập, nào
ai hay phân biệt chính tà
… Nghĩ muốn
chia điều chẻ lư, mở rộng chỗ học xưa
Bỏ ngụy thêm chân, khai thông
kẻ hậu tấn”
(Lời đề
từ cho “Tân phiên kinh luận”)
Thế thôi.
Bao nhiêu vinh quang dành cho Ngài khi c̣n sống (đón rước
linh đ́nh, xây chùa dựng tháp cho Ngài làm “dịch trường”)
và sau khi nhắm mắt (vua băi triều ba ngày, than thở:
“Trẫm nay mất một quốc bảo!”; một triệu
người tham dự đám tang, ba vạn người làm
lều ở cạnh mộ…) đều chỉ là những
chuyện phù vân. Người học tṛ ấy ra đi
năm 33 tuổi (năm 628), lặn lội 17 năm, mang về
nước 657 bộ kinh, dành 19 năm để dịch được
75 bộ, gồm 1335 quyển. Bước vào tuổi 69 (cuối
tháng 1, 664), c̣n bắt tay dịch bộ Đại
Bảo Tích, dịch được ít gịng, bỏ bút, than thở:
“Bộ này dài bằng bộ Đại Bát Nhă, Huyền Trang
này tự lượng sức không c̣n dịch nỗi nữa”.
Đệ tử khóc, đề nghị dịch tóm tắt,
Ngài không đồng ư. Mấy đêm sau, Ngài gát bút ngh́n thu (5.2.664).
Hăy nghe đệ tử của
Ngài là Huệ Lập kể lại: “Ngài ở chùa Từ Ân,
chuyên lo phiên dịch, ngày nào gặp việc, dịch chưa
xong, th́ đêm đến, dịch thế lại, dịch
cho đến chỗ làm dấu trước trong nguyên bản
mới dừng lại, cho tới canh ba. Sang canh năm, Ngài
đă trở dậy, đọc to bản Kinh chữ Phạn,
lấy điểm son làm dấu thứ tự, dịch trước
những đoạn sẽ dịch trong ngày… Đau
th́ Ngài dùng thuốc chứ không bao giờ nghỉ việc
phiên dịch và dạy học”. (Vơ Đ́nh Cường, Đường Tam Tạng
thỉnh kinh).
|
Gió bụi biệt trung nguyên
Đường xa như đạo
thiền
Cực tấm ḷng bồ tát
Râu tóc cứ dài thêm
Bùi Văn Nam Sơn kính
đề
|
Tam
Tạng Pháp sư Huyền Trang;
Thạch thất Đôn Hoàng, thế kỷ 9
|
|
Vua Đường Cao
Tông quư Ngài, muốn đến thăm, nhưng thỉnh thoảng
thôi v́ cũng không dám quấy rầy! Đó là
sức làm việc. C̣n đây là cách làm việc: “Ngài lấy
ba bộ Đại Bát Nhă không cùng một mẫu đem từ
Ấn Độ về, hễ đến đoạn nào ngờ,
th́ đem ra so sánh, hiệu duyệt cẩn thận đến
hai, ba lần mới dám hạ bút”.
Ngài không làm việc một
ḿnh, mà tổ chức cả một dịch trường gồm hàng trăm người,
phân công thành một hệ thống hoàn bị: - dịch chủ, là người
chỉ huy, tinh thông Hán-Phạn, nghĩa lư phán đoán xác thực,
do Ngài đảm nhận; - bút
thụ: dịch nghĩa Phạn → Hán; - độ ngữ: thạo tiếng
Phạn, phiên âm ra tiếng Hán (vd: “Ba la mật”…) đọc
lên nghe âm vận, thấy không ổn th́ phiên âm lại; - chứng Phạn: so lại với
Phạn văn xem có đúng không; - nhuận văn: chuốt lại cho hợp với
văn pháp Hán; - chứng
nghĩa: đem bản dịch so lại với nghĩa
lư nguyên bản, nếu sai th́ sửa lại; - tổng khám: xét chung lại một
lần cuối cùng trước khi hoàn thành bản dịch.
Là một dịch
giả tinh thông, nghiêm cẩn, Ngài đặc biệt quan tâm
đến vấn đề phương
pháp luận dịch thuật để tạo cơ sở
vững chắc cho việc phiên dịch sách kinh điển.
Huyền Trang là người khai sáng thời đại tân dịch (phương pháp mới
về phiên dịch kinh điển), kế thừa và phát
triển hai truyền thống trước đó là trực dịch (dịch sát,
thời Hán) và ư dịch (dịch
thoát, thời Lục Triều). Sở dĩ gọi là tân dịch, theo
Lương Khải Siêu, là v́: “Dịch sát và dịch thoát, phối
hợp hài ḥa, đó chính là phương pháp phiên dịch tốt
nhất” (Trực dịch ư dịch, viên măn điều ḥa, tư
đạo chi cực quư dă).
Tiền bối của
Ngài là Đạo An, ngay từ năm 382,
đă đi rất xa trong lư thuyết phiên dịch, đúc kết
lại trong nguyên tắc ngũ
thất bản (năm điều mất mát) và tam bất dị (ba điều
khó), c̣n có giá trị tham khảo quư báu cho ngày nay. Năm điều
mất mát:
-
cú pháp ngược nhau
(vd: Hán, Việt, Anh, Pháp có cú pháp thuận; Phạn, Đức
có cú pháp ngược), dịch không khéo sẽ sai với
nguyên bản.
-
kinh điển Phạn
chú trọng nội dung cần truyền đạt (thượng chất), c̣n văn
phong Trung Quốc (và cả Việt Nam?) thích nói văn vẻ (hiếu văn): dịch hoa mỹ
th́ không đúng nguyên tác; dịch trung thực th́ không được
ưa chuộng.
-
kinh điển dài ḍng,
bản dịch muốn ngắn gọn, là không đúng nguyên
tác.
-
kinh điển có phần
bổ túc, chú thích rất dài, bản dịch cắt bỏ đi
mất.
-
kinh điển bàn sâu
tán rộng, bản dịch lại cho là trùng lắp, tùy tiện
lược bỏ.
C̣n ba điều khó là:
-
văn hóa, phong tục
khác nhau, rất khó làm cho hai bên hiểu nhau.
-
kinh điển uyên
thâm, người thường không dễ lĩnh hội.
-
không dễ nắm bắt
ư nghĩa đích thực của nguyên bản.
Đi vào kỹ thuật
dịch, Ngài Huyền Trang có đóng góp độc đáo và
sáng tạo với nguyên tắc Ngũ
bất phiên (năm điều không thể / không nên dịch):
- những danh từ riêng không thể dịch; - những
danh từ mật giáo có uy lực gia tŕ, không nên dịch; -
những từ đa nghĩa, dịch một th́ mất mấy
nghĩa kia; - những chữ đă quen thuộc, không nên dịch
lại, làm rối thêm; - những ǵ nhảm nhí th́ không nên dịch.
Như thế, nguyên tắc “ngũ
thất bản” của Đạo An và “ngũ bất phiên” của Huyền Trang đă bao
quát hầu hết những nội dung chính của một
lư luận phiên dịch hoàn chỉnh, và là cơ sở cho một
môn thông diễn học về thánh điển (hermeneutica
sacra) ở phương Đông, song hành với những
Philo, Origenes, Augustin, M. Luther ở phương Tây, đóng
góp vào môn thông diễn học phổ quát hiện đại
(hermeneutica generalis), bàn về mối quan hệ giữa văn
bản, sự lư giải và dịch giả / người lư
giải.
Từ ngày mất
của Ngài Huyền Trang đến chúng ta ngày nay là 1345 năm,
tức hơn… mười ba thế kỷ. Kinh điển, sách vở trong thiên hạ không biết
phải chất thành bao nhiêu bồ.
Công việc “chia điều chẻ lư”, “bỏ
ngụy thêm chân” nặng nề và khó khăn gấp vạn
bội. Xin lấy Châu Âu làm ví dụ.
Châu lục ấy gồm rất nhiều quốc
gia, với rất nhiều ngôn ngữ khác nhau. Và không
phải cứ ở gần nhau là có thể đọc được
sách của nhau! V́ thế, công việc dịch
thuật, chú giải buộc phải diễn ra ở đó
một cách quy mô, dồn dập và liên tục. Không dịch nhanh, dịch đúng, dịch đầy
đủ, dịch kịp thời th́ các đại học,
nhất là các bộ môn khoa học xă hội, nhân văn, chắc
phải đóng cửa hết. Không thể chờ đợi
sinh viên phải thạo ngoại ngữ (làm sao có thể
tinh thông nhiều ngoại ngữ ở lứa tuổi đôi
mươi!); và cho dù có biết, th́ cả nền học thuật
đầy tự hào của một quốc gia độc lập
cũng không được phép… nói bằng tiếng nước
ngoài!
Nói gần, nói xa, chẳng
qua nói thật: bao giờ ở ta mới có được những
dịch trường đúng
nghĩa? Mười ba thế kỷ sau Huyền Trang!
Mùa Phật Đản,
2009
(Doanh nhân Sài G̣n Cuối tháng, 3.2009)