TIN VÀ ĐÁNG TIN
Bùi Văn Nam Sơn
1. Tin Xuân đă có nhành mai đấy
Không lịch nhưng mà vẫn
biết giêng…
Đó là hạnh
phúc đơn sơ của người hàn sĩ vào thuở
mà tin c̣n đồng nghĩa
với… tín, v́ trong cơi vô thường,
ít ra người ta vẫn c̣n có thể vững tin vào những
định luật hầu như hằng cửu của tự
nhiên: “xuân sinh thu thành, bản vô
tâm ư thảo mộc; phong hành ba động, tận
hữu tín ư trùng ngư…”. Ngày nay, có lẽ không khó lắm
để có một quyển lịch, nhưng nhành mai th́
không chắc sẽ kịp báo tin Xuân v́ bị ngập úng; gió
mưa không chỉ lỗi hẹn với cá tôm mà c̣n đẩy
chúng vào chết ngạt giữa ḷng thành phố… Rồi c̣n
bao nhiêu sông hồ, rừng núi đang và sẽ là nạn nhân
của cơn mê cuồng tàn phá. Câu thơ Cung Oán tưởng đă vĩnh viễn lùi xa nay lại
làm quặn ḷng bao người đang được sống
trong ḥa b́nh: tang thương
đến cả hoa kia cỏ này… “Nhân tai” lan tràn khắp
chốn và nay đang trở thành thảm họa toàn cầu
với cơn đại khủng hoảng kinh tế-tài
chính mà chưa ai lường hết được quy mô và
những hệ lụy của nó. Khủng hoảng ḷng tin là câu chuyện trên cửa
miệng mọi người ngay khi đang đón xuân bên
tách trà và… nhành mai (nếu có!).
2. Ḷng tin nói ở
đây là sự chờ đợi rằng những người
hay những tổ chức có liên quan sẽ hành động
trong khuôn khổ những giá trị chung hay những quan niệm
luân lư nào đó. Nói cách khác, ḷng tin giả định rằng
sự việc sẽ diễn ra một cách tích cực hay đúng
theo sự chờ đợi. Đặc điểm quan trọng
ở đây là sự có mặt của một khả năng
hành động khác, và đó cũng là chỗ phân biệt giữa
ḷng tin và hy vọng. Ḷng tin dựa trên sự đáng tin cậy,
sự yên tâm và sự trung thực. Nó thể hiện ra trong
hiện tại nhưng lại hướng đến những
ǵ xảy ra trong tương lai.
Hàng ngày ta vẫn thường
được khuyên: “hăy giữ vững ḷng tin!” như lời
mời gọi của một phẩm tính nhân loại đích
thực. Thật thế, ḷng tin há chẳng phải là cơ
sở mạnh mẽ cho quan hệ tốt đẹp giữa
người với người, dù ḷng tin ấy đă bao lần
bị chà đạp, bởi người khác lẫn… bởi
chính ta? Giá trị nhân loại ấy trở thành một giá
trị giả, khi ḷng tin cậy bị đánh đồng
với sự tin tưởng mù quáng. “Hăy tin cậy tôi!” trở
thành “hăy tin tôi đi!”. “Tôi không c̣n tin cậy anh nữa!” trở
thành “tôi không tin anh!”. Tin thay
chỗ cho biết, không khác
ǵ ta tin một người
mà không hề biết họ.
Chỉ khi ta biết họ
th́ mới đồng thời biết được chiều
hướng hành động của họ có đáng để
ta tin hay không. Người thầy tin vào tṛ v́ biết
về năng lực của tṛ. Tin
mà không biết là giao việc
một cách mù quáng và vô trách nhiệm. Để nhận ra tầm
quan trọng của cái biết
vốn bắt rễ sâu trong ḷng
tin, nhiều tác giả phương Tây cố lần ra từ
nguyên của chữ trust
trong tiếng Anh hay chữ Vertrauen
trong tiếng Đức. Cả hai đều bắt nguồn
từ chữ gothic “trauan” có
nghĩa là “mạnh mẽ, chắc nịch như một
cây cổ thụ”. Nghĩa bóng của nó là: đúng đắn,
chân thật, đích thực và không có chút dính líu ǵ đến
việc tin mù quáng cả! Mạnh
mẽ, chắc nịch như cây cổ thụ là h́nh ảnh
và biểu trưng đầy sức mạnh cho sinh lực
bền vững, luôn sáng tạo và tiến hóa. Không phải
ngẫu nhiên mà ngay trong niềm tin tôn giáo, nơi cái biết tưởng như
không mấy quan trọng v́ người ta vẫn có thể
“tin v́ nó phi lư” hay “tin để biết” th́ nhiều bậc
giáo chủ vẫn lập tức bổ sung: “biết để
tin” (Augustinus) hay mạnh mẽ hơn: “một khi ta đă
xác tín vững chắc trong đức tin th́ theo tôi, có vẻ
chính sự buông thả đă khiến ta không nỗ lực t́m hiểu những ǵ ta tin”
(Anselm).
Như thế,
việc có được ḷng tin đích thực (hay ngược
lại, tạo được ḷng tin đích thực nơi
người khác) là gian nan hơn mới thoạt nh́n, v́ ḷng
tin không phải là quà tặng dễ dăi mà phải “lao động”
cật lực mới có được - giống như đối
với mọi giá trị bền vững đích thực
khác. Một khi ḷng tin đích thực đă đạt được
th́ không dễ bị lạm dụng và lợi dụng, v́ nó
dựa vững chắc vào cái biết đích thực.
3. Nếu ở b́nh diện
cá nhân, ḷng tin cần nhiều đến sự hiểu biết
th́ ở b́nh diện xă hội, sự việc phức tạp
hơn nhiều, v́ ở đây quan hệ giữa người
và người ngày càng ít dựa vào sự hiểu biết
trực tiếp. Ngay từ đầu, ḷng tin là một nguồn
lực xă hội giúp cho hoạt động phối hợp
giữa người với người có thể h́nh thành
trong điều kiện hầu như hoàn toàn vô danh. Trong xă hội hiện đại,
ta chịu tác động bởi những cái gọi là hệ thống trừu
tượng, tức những cơ chế độc lập
với đặc tính của những cá nhân. Chúng có giá trị
như những hệ thống
kư hiệu, và ta chỉ làm việc với những kư hiệu
ấy. Chẳng hạn khi ta bỏ lá phiếu cho những
cá nhân xa lạ, hay sẵn sàng giao dịch tài chính với những
tổ chức mà ta không hề và cũng không cần quen biết.
Môi trường giao dịch này là đáng tin cậy chỉ
nhờ có ḷng tin rằng nó được thừa nhận
như là “kư hiệu” phổ biến mà cá nhân ta không tạo
ra hay không tài nào thẩm tra được sự thừa nhận
ấy. Một hệ thống trừu tượng khác chính
là hệ thống của những chuyên gia khoa học được
ta thường xuyên “vay mượn” thẩm quyền và kiến
thức của họ. Các hệ thống ấy sở dĩ
vận hành được là nhờ ta – tuy không biết hoặc
biết rất ít thông tin – giả định rằng chúng
là tử tế và tốt lành. Niklas Luhmann, một
trong những ông tổ của lư thuyết hệ thống
nhận ra ở đây một phép “biện chứng” của
ḷng tin: ḷng tin là “cơ chế để giảm thiểu
tính phức tạp của xă hội”, thậm chí là một
sự “mạo hiểm được… tạm ứng” từ
phía người dân không đủ thông tin và th́ giờ. Mặt
khác, nếu việc mất ḷng tin được hiểu
thông thường như là trái nghĩa với ḷng tin, th́, cũng
từ giác độ xă hội học, nó có sự “tương
đương về chức năng” như ḷng tin, v́ nó cũng
giúp giảm thiểu tính phức tạp để người
phó thường dân có thể tỏ thái độ tức thời
dựa vào sự mẫn cảm và lương tri lành mạnh
của ḿnh. Sự có mặt đồng thời của ḷng
tin và mất ḷng tin không phải là một mâu thuẫn mà phụ
thuộc vào hoàn cảnh xă hội hiện đại mang đặc
tính phức tạp.
Cả hai tương
đương về chức năng, nhưng tất nhiên
không phải là một! Ngày nay người ta thường nói
về bốn loại vốn liếng ảnh hưởng
quyết định đến cấu trúc xă hội: vốn
kinh tế, vốn văn hóa, vốn xă hội và vốn biểu
trưng (mang lại sự thừa nhận và uy tín, danh giá),
trong đó vốn xă hội ngày càng có vị trí quan trọng.
Khác với vốn con người chỉ liên quan đến
con người tự nhiên, vốn xă hội nói đến
các mối quan hệ giữa họ với nhau, và trở
thành đặc điểm chủ yếu của đời
sống cộng đồng. Vốn xă hội h́nh thành từ
sự sẵn sàng hợp tác giữa những tác nhân, tức
giữa những người công dân với nhau. Nhưng, thước
đo và cơ sở của vốn xă hội lại là ḷng tin xă hội. Chỉ trong
không khí tin cậy, ta mới sẵn ḷng tin vào người khác,
nhất là vào người xa lạ, mà không cần chờ đợi
hay đ̣i hỏi sự “đền đáp” tức thời,
v́ ta tin rằng nhất định có những người
xa lạ khác sẽ đền đáp cho ta. V́ thế, có nhiều
hoặc có ít vốn xă hội (và ḷng tin xă hội) sẽ giảm
thiểu hoặc gia tăng phí tổn xă hội về nhiều
phương diện và sẽ trực tiếp ảnh hưởng
đến sự ổn định và tăng trưởng
kinh tế. Nguy hiểm hơn, việc mất ḷng tin xă hội
sớm muộn sẽ làm suy giảm tiềm lực đáp ứng
yêu cầu của cả hệ thống: “do thiếu ḷng
tin, nhiều yêu cầu vốn chỉ có thể được
thỏa măn ở dài hạn sẽ đ̣i hỏi phải được
đáp ứng cùng một lúc và trong thời gian ngắn, điều
ấy sẽ phá vỡ các khả năng đáp ứng của
toàn hệ thống. Dường như chúng ta đang ở
đúng vào thời điểm nguy kịch này” (Luhmann).
Như thế, bao lâu
người ta c̣n dành ḷng tin cho các định chế, chúng
mới có thể xác lập được sự đáng
tin cậy trong hành động. Tự bản thân các định
chế là không đủ để mang lại ḷng tin cũng
như để xây dựng các h́nh thức giao tiếp dân
chủ, đoàn kết. Ở các nước đang chuyển
đổi (chẳng hạn các nước Đông Âu cũ),
việc thiết lập các định chế mới mẻ
chỉ là bước đầu, dù là quan trọng. Điều
tương tự cũng đă diễn ra: 20 năm sau ngày
thiết lập các định chế dân chủ ở nước
Đức hậu-phát xít, triết gia Karl Jaspers vẫn chưa
thấy thể chế ấy đă được cắm
sâu vào “ḷng” nhân dân. Ông viết: “Trong thực tế, ta vẫn
chưa có được mục tiêu chính trị được
cắm sâu vào ḷng dân, chưa có được cái ư thức tự
đứng vững trên đôi chân của ḿnh… Nhân dân nước
ta không có tinh thần dân chủ. Ta có một h́nh thức
chính thể đại nghị gọi là dân chủ, nhưng
lại được thiết kế để làm vẩn
đục hơn là khích lệ ư thức dân chủ” (Cộng ḥa liên bang đi về
đâu? 1966, tr. 177-178). Các kinh nghiệm lịch sử ấy
cho thấy sự cần thiết phải nêu bật những
điều kiện để biến sự thừa nhận
những định chế một cách đơn thuần
h́nh thức thành một sự thừa nhận đích thực
và thành thực. Sự ổn định của một chế
độ xă hội vẫn chưa được bảo đảm
bao lâu người ta chưa thể đoan chắc rằng
nó sẽ được nhân dân bảo bọc và bảo vệ
khi lâm vào những thời kỳ khủng hoảng hoặc
bị suy yếu về năng lực chế tài (do tham nhũng,
thối nát, bất lực v.v…).
Ḷng tin không thể
mua mà có, không thể ra lệnh mà được, không thể
học hay dạy mà cần thời gian để thử
thách ở cả hai chiều: tin có nghĩa là tin nhau. Ḷng tin
không thể mua bán nhưng lại cần phải được
“đầu tư” lâu dài, giống như không ai có thể tiếp
tục rút tiền khỏi tài khoản để tiêu xài thoải
mái mà không chịu khó thường xuyên đóng tiền vào.
Có vẻ lạ thường, nhưng như đă nói trên,
ḷng tin gắn liền với một loạt những nghịch
lư nan giải. Chúng ta vẫn phải hành động đôi
khi mù quáng khi không có lựa chọn nào khác. Trong khi đó,
ḷng tin lại đ̣i hỏi một sự “dấn thân” nào đó,
hay, nói khác đi, người có ḷng tin bao giờ cũng
hành động một cách tự nguyện dù không thể
“biết” chắc về điều ḿnh làm. Khi ḷng tin bị
tổn thương, ta nghĩ đến việc đi t́m
những lựa chọn khác, và chính điều đó cho thấy
trong ḷng tin bao giờ cũng đă bao hàm một chút ǵ đó
ngây thơ, thiếu suy xét như một yếu tố cấu
thành. Đối với không ít người, đó là một
giá quá đắt và v́ thế, họ muốn giảm hơn
là tăng thêm ḷng tin! Nhưng mặt khác, ta cũng không nên đánh
giá thấp những nguy hiểm nảy sinh khi muốn thay
thế hoàn toàn ḷng tin bằng sự kiểm soát (“tin tưởng
là tốt, kiểm soát th́ tốt hơn!”). Sự mất tự
do sẽ là hệ quả sâu xa và nặng nề hơn người
ta tưởng.
4. Trẻ em đặt
trọn ḷng tin vào người lớn cho tới khi chúng… thất
vọng. Đó là cái giá khá đau đớn phải trả
cho sự trưởng thành, tức cho sự thức tỉnh
và mất ảo tưởng. Nhưng, nếu được
hưởng một nền giáo dục tốt, vết thương
ấy sẽ được chữa lành, thậm chí không để
lại sẹo, mà c̣n thăng hoa thành tinh thần hoài nghi khoa
học. Tinh thần ấy không làm thui chột ḷng tin, trái lại,
khi đă đủ mạnh, nó giúp giữ vững ḷng tin vào
những ǵ xứng đáng để tin.
Điều này có lẽ
cũng đúng đối với cả một cộng đồng
rộng lớn khi cộng đồng ấy không để
ḿnh ngă quỵ trước sự mất ḷng tin nhờ biết
dựa vào sức mạnh pḥng vệ của một xă hội
dân sự phát triển. Ta nhớ đến câu nói nổi tiếng
của thi hào Goethe: “Phải
tự tin mới có thể tin vào người khác!”. “Tự
tin” càng cần thiết trong thời buổi khủng
hoảng, trong “kỷ nguyên của sự ngờ vực” ngày
nay.
(Báo Xuân Kỷ
Sửu, Thời báo Kinh Tế Sài G̣n, 2009)