J. J. ROUSSEAU
VÀ SỨ MỆNH
GIÁO DỤC
Bùi Văn Nam Sơn
“Ta có
thể trở thành một quan chức, một doanh nhân,
một người theo đuổi binh nghiệp… Nhưng,
không một h́nh ảnh nào trong số đó được
phép trở thành một mục tiêu “chính đáng” của giáo
dục cả. Bởi, theo Rousseau, con người chỉ có
một “nghề” duy nhất được phép học: LÀM
NGƯỜI”…
Câu
hỏi về mục tiêu của giáo dục, và, cao hơn
nữa, về sứ mệnh của giáo dục: đơn
thuần “cung ứng nhân lực” theo yêu cầu xă hội hoặc
đào tạo “nhân cách” để làm chủ xă hội?,
đă được J. J Rousseau nên lên từ 250 năm trước
và c̣n đầy tính thời sự khi ta thấy những
kẻ đang gây nên những thảm họa môi trường,
kinh tế-tài chính, xă hội… (ở phạm vi quốc gia
cũng như quốc tế) không hẳn thiếu kiến
thức, mà có lẽ nơi họ thiếu một
điều ǵ đó sâu xa hơn. Việc học tập
suốt đời để nâng cao các kỹ năng chuyên
môn hay để bổ sung, cân đối cho nhiều nhu
cầu đa dạng của tâm hồn khi đă trưởng
thành không thể thay thế, hay đúng hơn, chỉ mang
lại ích lợi thực sự từ một nền
tảng giáo dục đúng đắn ngay từ thời thơ
ấu. Rousseau gọi đó là nền giáo dục “nhân
bản và khai phóng” trong tác phẩm kinh điển lừng
danh: “Émile hay là về giáo dục” (do Lê Hồng Sâm, Trần
Quốc Dương dịch, NXB Tri thức, 2008). Xin trích vài
đoạn từ Lời giới thiệu của Bùi
Văn Nam Sơn cho dịch phẩm giá trị này:
Trong Emile hay là về giáo dục,
thông qua câu chuyện giả tưởng về cậu bé
Emile được người thầy giáo dục từ
lúc mới chào đời cho đến khi lập gia
đ́nh và trở thành “người công dân lư tưởng” thông
qua năm giai đoạn đào tạo, Rouseau phác họa
một triết lư và phương pháp giáo dục giúp cho “con
người tự nhiên” (được ông phác họa trong
Khế ước xă hội)
có đủ sức khỏe thể chất và nghị
lực tinh thần để đương đầu
với những thử thách trong cuộc đời. Sau Cộng ḥa, quyển VIII của
Platon, đây là công tŕnh hoàn chỉnh đầu tiên về
triết lư giáo dục ở phương Tây.
Đến với
Rousseau là đến với trung tâm của bước
ngoặt thời đại giữa “trật tự cũ”
và “trật tự mới”. Do đó, ông không chỉ là nhà lư
luận xă hội mà c̣n là nhà lư luận giáo dục; và
việc ông là cả hai, đồng thời có ảnh
hưởng sâu đậm ngang nhau trên hai lĩnh vực cho
thấy mối liên kết nội tại chặt chẽ
giữa những biến chuyển xă hội ở thế kỷ
XVIII ở Châu Âu và việc ra đời nền tân-giáo
dục.
Vượt qua
khoảng cách 250 năm, tưởng như Rousseau là
người sống cùng thời với chúng ta, đang chia
sẻ những nỗi lo âu và bất b́nh của những
người vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân
của một nền giáo dục đang phạm nhiều
sai lầm từ cơ sở triết lư, cách thiết
kế cho đến phương pháp sư phạm với
mọi hậu quả đáng sợ cho phụ huynh lẫn
con cái (…)
Thiếu các nguyên
lư giáo dục đúng đắn dẫn đạo, ta
chỉ tạo ra những con người “được
gia công”, vừa được nuông chiều quá đáng trong
ṿng tay cha mẹ, vừa bị kiềm tỏa đủ
kiểu duới mái nhà trường: “Những ư
tưởng đầu tiên của trẻ là những ư
tưởng về quyền lực và khuất phục! Nó
hạ lệnh trước khi biết nói, nó vâng theo
trước khi có thể hành động, và đôi khi
người ta trừng phạt nó trước khi nó có
thể biết lỗi, hoặc nói đúng hơn là có
thể phạm lỗi. Như vậy là người ta
sớm rót vào trái tim non nớt của nó những đam mê
mà sau đó người ta quy tội cho tự nhiên, và sau khi đă nhọc công làm nó thành
tai ác, người ta lại phàn nàn v́ thấy nó tai ác!”.
Sản phẩm tất yếu của một nền giáo
dục áp đặt như thế thật đáng sợ: …
“vừa là nô lệ vừa là bạo chúa, đầy
kiến thức và thiếu lương tri, yếu
đuối bạc nhược về thể chất
cũng như tâm hồn, và bị quẳng vào xă hội”…
Rousseau tŕnh bày rơ
các ư định của ḿnh: “Quyển sách của tôi là
nhằm ngăn không cho con người trở thành tai ác (…)
Tôi gọi đó là nền giáo dục pḥng vệ (negative) như là nền giáo dục
tốt nhất hay thậm chí là duy nhất tốt lành (…)
Nền giáo dục chủ
động (positive) là nhằm đào tạo tinh thần
quá sớm và muốn bắt trẻ em phải biết
những nghĩa vụ của người lớn. C̣n
nền giáo dục pḥng vệ là làm cho các cơ quan –
phương tiện của nhận thức –
được tinh tường trước khi mang lại
nhận thức cho chúng. Nền giáo dục pḥng vệ không
phải là phóng đăng. Nó không mang lại đức
hạnh, nhưng ngăn chặn tội lỗi; nó không phô
trương chân lư mà ngăn chặn sai lầm. Nó chuẩn
bị tất cả cho trẻ con để chúng có thể
nhận thức được cái Chân khi đủ năng
lực thấu hiểu, và cái Thiện khi có thể biết
ái mộ”.
Do đó, nếu
bản thân con người chỉ có thể tự giải
phóng khỏi những ǵ do chính ḿnh gây ra, th́ cũng chỉ
bản thân con người mới có thể bảo tồn
được cái “thiên chân” của ḿnh. Chính ở đây,
Rousseau đụng chạm đến vấn đề
hết sức cơ bản: sứ
mệnh hay cương lĩnh giáo dục. Trái với
quan niệm thông thường xưa nay xem sứ mệnh
của giáo dục đối
với xă hội sẽ quyết định sứ mệnh
của giáo dục đối
với người học, có nghĩa là giáo dục
phải chuẩn bị cho người học gia nhập
vào một xă hội nhất định nào đó để
phục vụ, duy tŕ và phát triển xă hội ấy,
Rousseau chủ trương khác hẳn: sứ mệnh
của giáo dục không phải là đào tạo con
người cho xă hội, mà
là làm cho cái “thiên chân” trong con người có thể
được phát huy tối đa.
Rousseau không
chỉ chống lại một nền giáo dục phục
vụ cho xă hội hiện có mà c̣n chống lại bất kỳ nền giáo
dục nào tuân phục xă hội và đào tạo con
người theo những lợi ích của một xă
hội nhất định. V́ lẽ bao lâu người
thanh thiếu niên chỉ quan tâm đến những ǵ xă
hội hay người khác chờ đợi nơi chính
ḿnh để lấy đó làm định hướng th́ bắt
đầu có sự xuyên tạc và trá ngụy. Thay v́ t́m cách
thích ứng với xă hội, họ cần có điều
kiện để trở nên trung thực với chính ḿnh,
nghĩa là, sống theo bản tính tự nhiên và tiến
tŕnh phát triển nội tại của nó. Theo cách nói ngày
nay, chỉ có như thế họ mới trưởng thành
và trở nên những nhân cách mạnh mẽ để
về sau có thể tự khẳng định ḿnh
trước những thách thức và đ̣i hỏi của
xă hội cũng như hành xử với xă hội dựa
theo sự xác tín của một lư tính đă được
phát triển. Quan niệm triệt để này về
sứ mạng giáo dục sẽ dẫn đến
phương pháp và mục tiêu mới về chất của
giáo dục: đào tạo CON NGƯỜI với tư cách
là tác nhân cải tạo xă
hội chứ không chỉ là nhân
tố tái tạo xă hội.
Từ đó, Rousseau
xác định mục tiêu
của giáo dục. Emile có thể trở thành một quan
chức, một thương nhân, một người theo
đuổi binh nghiệp… Nhưng, không có một h́nh
ảnh nào trong số đó được phép trở thành
một mục tiêu chính đáng
của giáo dục cả. Bởi, theo ông, con người
chỉ có một “nghề”
duy nhất được phép học: LÀM NGƯỜI: “trong trật tự tự nhiên,
nơi mọi người đều b́nh đẳng, th́ làm người là nghề
nghiệp chung của họ. Và hễ ai đă
được giáo dục để làm người,
ắt không thể thất bại trong việc hoàn thành
mọi nhiệm vụ đặt ra cho ḿnh. (…) Sống,
chính là nghề nghiệp mà tôi muốn dạy cho học tṛ
ḿnh. Ra khỏi ṿng tay của tôi, học tṛ tôi sẽ không
phải là quan chức, không phải là người lính, không
phải là tu sĩ; nó trước hết sẽ thành người".
Vậy, kỳ
cùng, cương lĩnh giáo
dục pḥng vệ của Rousseau tuyệt nhiên không
nhắm đến mục tiêu là một cuộc sống quy
ngă và phi-xă hội (cũng như khẩu hiệu “trở về
với tự nhiên” – được gán cho Rousseau! – không có
nghĩa là quay về sống trong rừng rậm!) mà chính là một h́nh thức mới của tính xă hội
không được h́nh thành từ sự phục tùng mà
từ một sự liên đới tự nguyện của
những con người b́nh đẳng: một xă hội
“nhân bản”. Thậm chí Rousseau c̣n xem đó là nghĩa vụ: sống bên
ngoài xă hội, con người không chịu trách nhiệm
với ai cả và có quyền sống theo ư thích, c̣n trong xă
hội, là nơi tất yếu phải sống trên lưng
người khác, con người mang nợ người khác
v́ miếng cơm của ḿnh – không có ngoại lệ. V́
thế, lao động là nghĩa vụ không thể thoái
thác đối với con người sống trong xă
hội. Dù giàu hay nghèo, dù khỏe hay yếu, bất kỳ
một công dân nhàn rỗi nào cũng đều là một tên
lừa đảo!
“Món nợ” này là
món nợ tự ḿnh cảm nhận và phát hiện. “Trả
nợ xă hội” không phải là nhiệm vụ do người
khác đặt ra, buộc ta phải vâng lời mà là
nghĩa vụ của con người trước chính ḿnh,
trước những “điều kiện khả thể”
để có thể làm
người. Món nợ ấy không thể thanh thỏa
bằng cách nào khác hơn là tự hiến dâng chính ḿnh: con
người và con người-công dân không có ǵ để hiến
dâng cho xă hội ngoài chính bản thân ḿnh… Ai nhàn nhă
hưởng thụ công sức của kẻ khác, trước
mắt Rousseau, là kẻ cắp, là tên cướp cạn.
Những câu
văn cháy bỏng của Rousseau không chỉ nhắm vào
tầng lớp quư tộc ăn bám đương thời
mà c̣n là lời cải chính đanh thép trước nhiều
ngộ nhận khác nhau đối với ông.
Học thuyết
về giáo dục của Rousseau hoàn toàn không phải là
một chủ thuyết “vô-chính phủ tùy tiện” hay
“chống-quyền uy” như cách hiểu vội vă. Rousseau chống
lại chủ trương “sùng bái” xă hội và công cụ hóa
giáo dục trong quan niệm thô thiển về vai tṛ
quyết định của xă hội trong việc giáo
dục con người, đồng thời cũng xa
lạ với sự đối lập triệt để
giữa “con người" và “người công dân” trong xă
hội. Xă hội hóa như
là h́nh thức và cơ hội cho việc cá nhân hóa là thách thức của ông. Kiến tạo
nên một thế giới thích hợp là nhiệm vụ
sư phạm nặng nề, không bỏ quên “bản tính
tự nhiên” của con người, đồng thời
không xem nhẹ những khả thể lẫn những
trở lực do xă hội mang lại. Cả hai đều
là các thước đo cho một phương châm đúng
đắn về giáo dục, v́, xét đến cùng, con
người không phải là “đối tượng” mà là
“chủ thể” của xă hội và giáo dục. Thử hỏi
những giá trị mà một
h́nh thái xă hội nhất định muốn giáo dục cho
con người từ đâu mà ra, nếu không phải xuất
phát từ chính nhận thức của những con người
tự do đă muốn cải tạo xă hội cũ trước
đó? (…)
SÁCH Bùi Văn Nam Sơn
Bách khoa thư các
Khoa học triết học I
Vào các
thập niên đầu thế kỷ XX, Frege và Husserl
đả kích thuyết duy tâm-lư-học (Psychologismus) trong
Lôgíc học – cũng là vấn đề trung tâm của
Hegel – nhưng không thèm nhắc đến tên Hegel và càng không
quy chiếu đến công tŕnh Khoa
học Lôgíc. Không khí “chống Hegel” từ nửa sau
thế kỷ XIX vẫn c̣n tiếp tục cho đến
giữa thế kỷ XX ở Âu Mỹ. Nhưng hiện
nay, t́nh h́nh đă đổi khác. Lôgíc
học trở thành trung tâm của việc nghiên cứu
về Hegel, và chính trong bối cảnh các cuộc thảo
luận của triết học đương đại
về ngôn ngữ đă khiến cách đặt vấn
đề của Hegel trở nên lư thú: những phạm trù
trong tư duy và lời nói của ta là bất tất
hoặc tuân theo một “tính lôgíc” nội tại,
vượt lên khỏi những dị biệt về
văn hóa và lịch sử? Một văn bản
tưởng đă trở thành quá khứ nay tỏ ra
vẫn c̣n tính thời sự, và lập trường kiên
quyết của Hegel buộc ta phải t́m hiểu ông
một cách trung thực, để, nếu muốn bày
tỏ ư kiến tán thành hoặc phản đối,
đều phải có “nỗ lực và sư kiên nhẫn
của Khái niệm”.
Dù nh́n
từ viễn tượng nào, điều đáng ghi
nhận nơi Hegel và chủ nghĩa duy tâm Đức nói chung
vẫn là việc xác định nhiệm vụ của
triết học (và từ đó, tạo nên hứng thú
bền lâu đối với triết học): triết
học là nỗ lực làm việc cho sự giải phóng
của tư duy và cả của hành động thực
tiễn của con người. Cả hai gắn liền chặt
chẽ với nhau: không thể có một thực tiễn
tự do nếu không có tư duy tự do cũng như không
có một tư duy tự do nào lại không mang lại
hiệu quả thực tiễn. Triết học – như là
“ngữ pháp” và “không gian cộng hưởng” của Tự
do – là ch́a khóa cho một thế giới nhân đạo
đích thực và không bị tha hóa. Không có “ngữ pháp” và
“không gian” này, ta vẫn có một thế giới nhưng
đó là thế giới xa lạ, không được
thấu hiểu, không được khai phá, nghĩa là,
một thế giới không phải là nơi con
người có thể cư ngụ như “trong-nhà-của-chính-ḿnh”. Không ai chờ đợi
sự tiêu biến dễ dàng của sự không-tự do,
nhưng quả là cần có một lao động bền
bỉ nơi “vương quốc của Tự do”: sự
tự trị của tư duy và hành động là một
tiến tŕnh sở đắc
liên tục để không tự biến ḿnh thành đồ
vật, thành bầy đàn. V́ thế, “số phận” của con người phụ
thuộc không ít vào những phạm trù và cấp độ
phạm trù mà con người tư duy. Nhại theo một
cách nói, có thể bảo rằng: “hăy cho tôi biết bạn
suy nghĩ bằng những phạm trù nào, tôi sẽ nói
bạn là người như thế nào”, bởi phạm trù
vươn xa đến đâu, Tự do của con
người cũng vươn xa đến đấy. Và
đó chính là giá trị bất hủ của triết
học duy tâm Đức từ Kant đến Hegel, hiểu
như là nền triết học về phạm trù và phê phán
phạm trù, và do đó, cũng tức là nền triết
học về sự Tự do.
BVNS
(trích: Mấy lời giới thiệu và lưu ư của người
dịch).
(Doanh
nhân Sài G̣n Cuối tháng, 10.2008)