MAX WEBER và
“Tinh thần của chủ nghĩa
tư bản”
Bùi
Văn Nam Sơn
Trần Hữu Quang
Quyển Nền đạo đức Tin
lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản
(1904-1905) của Max Weber, một
trong những ông tổ của ngành xă hội học, đă
được dịch ra trên 20 thứ tiếng, và cho đến
nay có lẽ là quyển được đọc và thảo
luận nhiều nhất trong ngành xă hội học.
Đâu
là nguồn gốc ra đời của chủ nghĩa
tư bản cận đại ở châu Âu ? Thế nào là “tinh thần”
của chủ nghĩa tư bản ? Cần hiểu thế nào về mối
quan hệ giữa kinh tế và văn hóa ? Đấy chỉ
là một vài trong số nhiều vấn đề mà Max
Weber cố gắng đưa ra lời lư giải trong công
tŕnh này. Quyển
sách cũng gợi ra nhiều câu hỏi bổ ích về tác
động thúc đẩy hoặc cản trở của những
động lực văn hóa-tinh thần trong bài toán phát triển
ở từng “nền văn hóa”, từng quốc gia trong thế
giới hiện đại, nhất là những nước
đang phát triển như nước ta. Xin trích
đăng vài đoạn trong “Lời giới thiệu” của
Bùi Văn Nam Sơn và Trần Hữu Quang thay mặt nhóm dịch
giả gồm bốn người: Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn
Nghị, Nguyễn Tùng, Trần Hữu Quang (NXB Tri thức,
2008):
Trong
số các trước tác của Weber, chính quyển này
đă làm cho giới nghiên cứu hao tốn nhiều
giấy mực nhất kể từ khi xuất bản lần đầu cho tới ngày nay. Max Weber có lẽ là
một trong số rất ít tác giả xă hội học,
nếu không muốn nói là người duy nhất, đă coi
các nhân tố tôn giáo như có vai tṛ đặc biệt quan
trọng trong sự h́nh thành của các nền văn minh và
đặc biệt là trong sự ra đời của tư
duy duy lư Tây phương. Trong
những công tŕnh nghiên cứu khác về các tôn giáo lớn
trên thế giới như Do Thái giáo cổ đại, Lăo
giáo, Khổng giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo (mà ông
bắt đầu nghiên cứu kể từ năm 1911), ông
đă t́m cách xác định vai tṛ của các nền văn
hóa tôn giáo và các nền đạo đức tôn giáo với
tư cách là những nhân tố thúc đẩy hay ḱm hăm
sự phát triển của nền văn minh công nghiệp
tư bản chủ nghĩa cận đại.
Người
ta có thể đồng ư hay không đồng ư với
giả thuyết của ông về vai tṛ chủ yếu
của nền đạo đức khổ hạnh Tin lành
trong sự sinh thành của tư duy duy
lư tư bản chủ nghĩa Tây phương,
nhưng đáng chú ư là trong lịch sử khoa học xă
hội hiện đại, hiếm có luận đề nào
gây ra những cuộc tranh căi sôi nổi kéo dài hơn
một thế kỷ và cho đến nay vẫn c̣n kích thích
mở ra nhiều cuộc nghiên cứu mới.
Xét về mặt nào đó,
có thể nhận định rằng toàn bộ các công tŕnh
của Max Weber đều mang thao thức về vấn
đề nguồn gốc của chủ nghĩa
tư bản : tại sao và làm thế
nào mà cuối cùng chủ nghĩa tư bản đă
được xác lập không chỉ như một mô h́nh
ứng xử kinh tế thống trị, thậm chí duy
nhất, mà nh́n chung c̣n là một mô h́nh văn hóa ghi dấu
ấn lên trên toàn bộ các lĩnh vực đời
sống xă hội, tinh thần cũng như vật
chất ở châu Âu cận đại và đương
đại ?
Đề cập tới chủ nghĩa tư
bản xét như là “sức
mạnh mang tính chất quyết định nhất trong
đời sống hiện đại của chúng ta” (tức là ở các xă hội
Âu châu), Max Weber nhấn mạnh rằng, trái ngược
với quan niệm ngộ nhận thông thường,
chủ nghĩa tư bản hoàn toàn không phải là hệ
quả của ḷng hám lợi hay máu tham tiền vốn là
những hiện tượng mà người ta có thể
bắt gặp ở bất cứ xă hội nào vào bất
cứ thời đại nào. Ông viết : “ ‘Ham muốn chiếm hữu’, ham muốn
‘chạy theo doanh lợi’, chạy theo tiền bạc, càng
nhiều tiền càng tốt, tự chúng không có liên quan ǵ
tới chủ nghĩa tư bản. Ham muốn ấy
đă từng tồn tại và
đang tồn tại nơi
những người hầu bàn, người bác sĩ,
người đánh xe ngựa, người nghệ sĩ,
người đàn bà lẳng lơ, người công
chức tham ô nhũng lạm, người lính, kẻ
trộm cắp, kẻ viễn chinh, kẻ cờ bạc,
kẻ ăn mày. (…) Ḷng hám lợi vô độ không hề
giống chút nào với chủ nghĩa tư bản,
và lại càng không mảy may liên quan ǵ
tới ‘tinh thần’ của nó”.
Ngược lại, chủ nghĩa tư
bản, theo Weber, “chính là sự chế ngự, hay chí ít
là sự điều tiết
bằng lư tính, cái bản năng phi lư tính ấy”.
Weber
h́nh dung chủ nghĩa tư
bản như là sự hiện
diện và sự hoạt động của những doanh
nghiệp mang mục
đích làm ra lợi nhuận tối đa và có lối
tổ chức thuần lư đối với lao động
và sản xuất. Ông viết : “Thật vậy,
chủ nghĩa tư bản đồng nghĩa với
việc đi t́m lợi nhuận trong những doanh
nghiệp tư bản chủ nghĩa liên tục và
thuần lư : đi t́m một lợi nhuận luôn luôn tái
sinh, đi t́m ‘tính sinh lợi’. V́ nó buộc phải
như thế. Khi mà toàn bộ nền kinh tế
nằm trong trật tự tư bản chủ nghĩa, th́
bất cứ một doanh nghiệp
tư bản chủ nghĩa riêng lẻ nào không tự
định hướng ḿnh theo mục tiêu đạt
được tính sinh lợi th́ chỉ có nước tiêu
vong”.
Bên cạnh việc nh́n nhận vai tṛ quan
trọng của những yếu tố như thị trường và kỹ thuật,
Max Weber c̣n đặc biệt
nhấn mạnh tới
vai tṛ cũng như quá tŕnh lư tính
hóa của luật pháp và
của bộ máy hành chính.
Ông viết : “Cấu trúc thuần lư của luật pháp
và của bộ máy hành chính
lẽ tất nhiên là điều quan trọng. Thật
vậy, chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp
thuần lư hiện đại đ̣i hỏi phải có
sự tiên liệu có tính toán, không chỉ về mặt
kỹ thuật sản xuất, mà cả về mặt
luật pháp, cũng như một bộ máy hành chính với những qui tắc h́nh thức
rơ ràng. Không có những yếu tố này, th́ chắc chắn
sẽ chỉ có thể nảy sinh thứ chủ nghĩa
tư bản phiêu lưu và thương mại đầu
cơ, cũng như đủ mọi loại chủ
nghĩa tư bản chịu sự chi phối của chính
trị, chứ không thể nảy sinh loại h́nh doanh
nghiệp thuần lư được điều khiển
bởi sự chủ động của cá nhân với
một số vốn thường trực và sự tiên
liệu vững chắc”.
Weber đặt ra một
câu hỏi mấu chốt trong lối đặt vấn đề của ông là
tại sao các quá tŕnh đặc
trưng của chủ nghĩa tư bản Âu châu
cận đại chỉ xảy ra ở châu Âu, chứ
không xảy ra ở các nền văn hóa khác : “Tại sao các lợi ích tư bản chủ
nghĩa ở Trung Hoa hay ở Ấn Độ đă không
làm giống như thế ? Tại sao ở đó sự
phát triển khoa học, nghệ thuật, chính trị
lẫn kinh tế đều không lèo lái theo các con
đường lư tính hóa vốn là đặc trưng
riêng của Tây phương ?”
Từ đó Weber
đề cập tới
giả thuyết khoa
học chính của ḿnh : “(…) nếu
tư duy duy lư kinh tế, trong sự ra đời của
nó, phụ thuộc vào nền kỹ thuật thuần lư và
luậ̣t pháp thuần lư, th́ nó cũng phụ thuộc
nói chung vào năng lực và tâm thế của con
người khi họ chọn những lối sống
thuần lư nào đó trong thực tế. Khi lối sống
này vấp phải những ḱm hăm về tinh thần, th́
sự phát triển của ứng xử kinh tế
thuần lư cũng sẽ gặp phải những trở lực
nội tâm nặng nề”. Điều đáng chú ư ở
đây là Weber đề cập tới
những con người cá thể và “lối sống”
cũng như “tâm thế” của những con người
ấy với tư cách là một trong những nhân tố
quan trọng cần nghiên cứu nhằm góp phần giải thích sự ra
đời và phát triển của chủ nghĩa tư
bản ở châu Âu.
(…) Ở đây,
để hiểu rơ hơn ư
tưởng của Weber, chúng ta có thể đọc thêm đoạn văn sau đây trong một
công tŕnh khác của ông, khi ông so sánh giáo thuyết Puritanist
(Thanh giáo) ở châu Âu với tư tưởng Nho giáo
ở Trung Hoa : “Sự đối lập giữa [tâm thế]
Nho giáo và [tâm thế] Puritanist cũng làm cho chúng ta hiểu
rằng sự tiết độ và óc tiết kiệm,
kết hợp với 'ham muốn doanh lợi' và 'óc quí
trọng của cải' c̣n lâu mới có thể đại
diện hay có thể làm nảy sinh được 'tinh
thần tư bản chủ nghĩa'. Nhà Nho điển
h́nh chi tiêu những khoản tiết kiệm ấy lẫn
những khoản tiết kiệm của gia đ́nh
để có được một nền học thức,
để dùi mài kinh sử nhằm trải qua các kỳ thi
và nhờ đó đảm bảo cho ḿnh cơ sở xă
hội của một cuộc sống giàu sang. Người
tín đồ Puritanist điển h́nh kiếm
được nhiều tiền, tiêu xài ít, và do bị thúc
bách phải tiết kiệm bởi tư tưởng
khổ hạnh, nên tái đầu tư các khoản lợi
nhuận của ḿnh dưới h́nh thức tư bản
vào các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa thuần
lư. 'Tư duy duy lư' – và đây là bài học thứ hai đối
với chúng ta – chi phối cả hai nền đạo
đức ấy. Nhưng chỉ có nền đạo
đức duy lư của phái Puritanist, vốn hướng
đến một đời sau, mới dẫn đến
chỗ h́nh thành một tư duy duy lư kinh tế ở ngay
trong đời này với tất cả những hệ
quả cuối cùng của nó, chính là bởi v́ lao
động trong thế gian này đối với nó chỉ
là biểu hiện sự theo đuổi một mục tiêu
siêu việt. (…) Tư duy duy lư Nho giáo hàm nghĩa là một
sự thích nghi duy lư với thế gian ; c̣n tư duy duy lư
Puritanist là một sự làm chủ duy lư đối với
thế gian”. Theo Weber, sở dĩ ở Trung Hoa trước
đây không phát triển được chủ nghĩa
tư bản là do thiếu những điều kiện và
tâm thế thuận lợi cho quá tŕnh này, hay nói chính xác
hơn là do khuôn khổ quá cứng nhắc và tù đọng
của các nghi thức và tập tục, nói khác đi là do xu
hướng bảo thủ của tư tưởng Nho
giáo.
Vậy, theo Talcott Parsons,
khái niệm “tinh thần của chủ nghĩa tư
bản” – một cụm từ đặc
trưng mà Weber sử dụng thường xuyên – không
phải chỉ nói về sự chiếm hữu hay hành
động chiếm hữu đơn thuần như
nhiều tác giả thường lầm tưởng, mà
trước hết và chủ yếu bao hàm “tính lư tính” hay
tư duy lư tính – hiểu như là một tâm thế mở
luôn hướng đến những cách giải quyết
vấn đề mới, đối lập với óc
thủ cựu; một thái độ tận tâm và chuyên
cần đối với công việc v́ chính công việc
chứ không v́ mục đích nào khác, thái độ mà Weber
diễn giải trong một khái niệm kép là nghề nghiệp-thiên chức
(Beruf trong tiếng Đức, hay calling trong
tiếng Anh):
“Một trong các bộ phận cấu thành của
tinh thần tư bản chủ nghĩa hiện
đại, và không chỉ của tinh thần này, mà cả
của chính nền văn hóa hiện đại, tức là
lối sống thuần lư dựa trên ư tưởng nghề nghiệp-thiên chức (Beruf), đă
được phát sinh từ tinh thần của nền
khổ hạnh Ki-tô giáo – đó chính là điều mà các tŕnh
bày của chúng tôi muốn chứng minh”.
(Doanh nhân Sài G̣n Cuối tháng,
09.2008)