Phiếm luận đầu
Xuân:
TỪ HIỆN ĐẠI
ĐẾN HIỆN ĐẠI HÓA
Bùi Văn Nam Sơn
1. Có một số từ
thoạt nh́n tưởng như đơn giản, nhưng
lại hóa ra rất rắc rối, chẳng hạn chữ
“hiện đại”. Thời
nào chả là “hiện đại” đối với người
đang sống trong thời đại ấy? Cụ Bành Tổ
chắc cũng thấy thời của cụ là “hiện đại”
so với thời của tổ tiên cụ ! Nhưng, thật
ra, để được gọi là “hiện đại”,
không đơn giản như thế. Đó là lư do tại
sao từ này mới chỉ ra đời ở phương
Tây vào đầu thế kỷ XIX mà thôi. Đó là vào năm
1800 khi Hegel dùng nó lần đầu tiên như một khái niệm
để định nghĩa một thời đại:
“thời đại mới” (die “neue Zeit”) là “thời hiện
đại” (die “moderne Zeit”), tương ứng với chữ
tiếng Anh “modern times” và tiếng Pháp “temps modernes”. Thời
đại nào vậy? Thưa: đó là… suốt ba thế kỷ
trước đó của Châu Âu! Việc phát hiện ra “tân
thế giới”, phong trào Phục Hưng và phong trào Cải
cách (tôn giáo) – ba sự kiện lớn vào khoảng năm
1500 xa lắc xa lơ – lại tạo nên bước ngoặt
thời đại giữa thời trung cổ và… “thời đại
mới”. Thế c̣n thời ông ta đang sống vào đầu
thế kỷ 19 là ǵ? Ông gọi “thời đại của
chúng ta” (tức của ổng!) là… “thời đại mới
nhất” (die neueste Zeit), nghĩa là “hiện đại nhất”!
Rồi ông xác định cho nó một dấu mốc: Đại
cách mạng Pháp, cao điểm của phong trào khai minh: “Với
buổi b́nh minh rực rỡ này, chúng ta đi đến
giai đoạn mới nhất của lịch sử, đi
đến thế giới của chúng ta, đi đến
hiện tại của chúng ta”. Ít ra có hai lư do cho các định
nghĩa rắc rối ấy:
- Thứ nhất, đối
với phương Tây Kitô giáo, “thời đại mới”
chưa đến, nó là của tương lai, c̣n phải
chờ “ngày phán xét cuối cùng”. Trái lại, ở đây,
“thời đại mới” là khái niệm thế tục,
khẳng định niềm tin rằng tương lai đă
bắt đầu, và đang ở trong tay ta. Cần phải
có một ư thức lịch sử tự giác th́ mới đi
đến niềm tin ấy được, đúng như
R. Koselleck nhận định: “Chính “Thời đại mới”
đă mang lại cho toàn bộ quá khứ một chất lượng
mang ư nghĩa lịch sử thế giới… Nhận định
về “Hiện đại” đi liền với một sự
phân tích về thời đại đă qua”. Ư thức lịch
sử gắn liền với chữ “Hiện đại” ấy
của phương Tây không ǵ khác hơn là: “Hiện đại có đủ sức và có ư chí để
không cần vay mượn những thước đo để
định hướng cho ḿnh từ những khuôn mẫu
của một thời đại khác nữa, trái lại, phải tự tạo ra tính
chuẩn mực từ bản thân ḿnh” (Habermas). Chữ
“tự-khẳng định ḿnh” mà ngày nay ta quen dùng chính là nguyên tắc ấy của
Hiện đại: tính chủ thể (trước
đó, chỉ có một Chủ thể đích thực sắp
đặt mọi việc và làm cho mọi việc có ư nghĩa:
Thượng đế!). Ba biến cố lịch sử
then chốt tiếp theo nhau ở phương Tây (Cải
cách tôn giáo, Phong trào Khai minh và Đại Cách mạng Pháp) là
sự thực hiện nguyên tắc ấy về tính chủ
thể:
- đức tin vào quyền
uy và truyền thống nhường chỗ cho ḷng tin trong nội
tâm
- tuyên ngôn nhân quyền
và dân quyền cùng với “Luật Napoléon” xác nhận nguyên tắc
tự do của ư chí chống lại sự chuyên chế,
h́nh thành nhà nước hiện
đại
- sự ra đời và
lớn mạnh của nền
văn hóa hiện đại với ba cột trụ: nền
khoa học khách quan; nền luân lư tự giác và nền văn
học-nghệ thuật mang dấu ấn của sáng tạo
cá nhân.
Đến
cuối thế kỷ XVIII, dưới ảnh hưởng
mănh liệt của ba quyển “Phê
phán” của Kant, Khoa học, Luân lư và Nghệ thuật
đă trở thành ba lĩnh vực hoạt động độc
lập với nhau về mặt định chế, trong đó
các vấn đề về chân lư (khoa học), lẽ phải
(luân lư/pháp quyền) và sở thích (thẩm mỹ) là “tự
trị” với nhau, nghĩa là mỗi phương diện có
giá trị và quy luật vận động riêng của nó. Rồi
toàn bộ lĩnh vực tinh
thần (c̣n gọi là lĩnh vực “nhận thức”) ấy
lại được tách biệt với lĩnh vực của
đức tin, tín ngưỡng,
và với lĩnh vực quan
hệ xă hội được tổ chức dựa trên
các nguyên tắc của pháp luật và các quy tắc ứng xử
trong đời sống dân sự. Chính các lĩnh vực tự
trị ấy – nhờ công lao suy tưởng của Kant – đă
được Hegel đúc kết trong khái niệm “tính chủ thể” nói trên, và
ông lư giải tính chủ thể này bằng hai chữ khác nữa:
sự tự do và sự phản tỉnh: “Sự
vĩ đại của thời đại chúng ta là ở
chỗ: sự tự do được thừa nhận như
là tài sản sở hữu của tinh thần, và tinh thần
nhận ra ḿnh như là ở trong nhà của chính ḿnh” (tức:
phản tỉnh). Sự tự do và sự phản tỉnh thể
hiện rơ ở bốn điểm: a) tính cá nhân: trong thế giới hiện đại,
cá tính và tài năng cá nhân được thể hiện công
khai và vô hạn; b) quyền phê
phán: nguyên tắc của thế giới hiện đại
đ̣i hỏi rằng: những ǵ muốn được thừa
nhận th́ phải thực sự xứng đáng; c) sự tự trị của hành
động: đặc điểm của thế giới
hiện đại là mỗi người tự chịu
trách nhiệm về việc làm của chính ḿnh và d) triết
học (và khoa học) đă trưởng thành, có sứ mệnh
“nắm bắt thời đại của ḿnh bằng tư
tưởng".
- Và, thứ hai, lư do để
gọi “thời đại của chúng ta” là “thời đại
mới nhất” là: một hiện tại – muốn tự
khẳng định ḿnh như là “mới nhất”, “hiện
đại” nhất – th́ phải liên
tục đổi mới để xứng đáng với
“Tinh thần thời đại” (“Zeitgeist”).
Như thế,
đối với phương Tây, việc biến “thời
đại của chúng ta” (nostrum aevum) thành “thời đại
mới” (nova aetas) phải là một nỗ lực phi thường,
cần có những tiền đề tinh thần nhất định,
trong đó sự tự do và giải phóng cá nhân, sự tự
trị và sự phản tỉnh về văn hóa (không c̣n có
một trung tâm để ban
phát văn hóa như trong quá khứ nữa và thừa nhận
các nền văn hóa khác, nói ngắn: một nền văn
hóa “số nhiều”) không chỉ là các tiêu ngữ mà c̣n là các giá trị. Và vấn đề
đặt ra cho phương Tây ngày nay là làm sao – trong mọi
cuộc tranh luận và phê phán – không đánh đồng các
chiến lược cụ thể trong việc tiến hành
“đề án Hiện đại” (với bao khủng hoảng,
thăng trầm, khuyết tật suốt mấy thế kỷ
qua) với các giá trị
đích thực ấy Hiện đại. Nói bằng
h́nh ảnh, không hắt cả đứa bé cùng với chậu
nước tắm!
2. Bên cạnh các giá trị
tinh thần nói trên của “Hiện đại”, tính từ
“hiện đại” (modern) c̣n nói lên mặt “vật chất”
của nó nữa. Theo nghĩa hẹp, “hiện đại” đồng
nghĩa với… tốc độ và thời trang. “Tính hiện
đại” (trái với “cổ hủ”) có nghĩa là các phương
tiện giao thông mới (xe hơi, máy bay, tàu điện ngầm,
máy kéo…), là các phương tiện truyền thông mới
(phim ảnh, điện thoại, điện tín, máy ghi âm,
tia X…), các vật liệu mới (bê tông dự ứng lực,
thép, chất dẻo, sợi nhân tạo…), các nguồn năng
lượng mới (dầu lửa, điện, điện
nguyên tử, turbin…). Tất cả những công nghệ này tạo
nên một trải nghiệm mới về chất để
nhận ra ḿnh là “hiện đại”. Thế kỷ XX là thế
kỷ của tốc độ, mở ra những chân trời,
những cảm thức trước đó chưa từng
có, không chỉ về địa lư (vận động và
không gian đă trở thành một!) mà cả về cảm
xúc, văn hóa và quan hệ giữa người với người.
Rồi cảm thức về thời gian cũng thay đổi
triệt để: các công nghệ quản lư mới (tiêu biểu
là phương pháp dây chuyền của “chủ nghĩa
Taylor” và phương pháp sản xuất đại trà cho việc
tiêu thụ đại trà của “chủ nghĩa Ford” đă
thay đổi cách thức con người làm việc với
tư cách là “những đơn vị lao động”. Từ
đó, một mẫu người mới cũng ra đời:
“kẻ lang thang phố thị” (Dandy) (theo cách nói của Baudelaire)
tận hưởng thời trang và giải trí để giảm
Stress, và hoài vọng về một chân trời tiền-hiện
đại đă mất:
“Buồn phố thị cũng xa
bay như gió
Cộ xe nhiều cũng nhảy bổng như
hươu
Bờ cơi dựng xuân xanh em c̣n đó
Bến Đào nguyên anh khoác áo khinh cừu”…(Bùi Giáng).
Các công nghệ
ấy, các “bờ cơi” lạnh lùng do… Taylor và Ford “dựng
lên” – kết quả gian lao của “chủ nghĩa duy lư” Tây
phương (khoa học hóa kiến thức, hợp lư hóa sản
xuất, chuyên nghiệp hóa bộ máy quản lư và cai trị…)
– tưởng là ghê gớm và cũng đă từng là mối
băn khoăn, thắc mắc trong cả đời nghiên
cứu của nhà xă hội học vĩ đại là Max
Weber: tại sao chỉ có phương Tây mới có được
“chủ nghĩa duy lư ấy – té ra… cũng có thể học
được, bắt chước được và mua được
theo “túi khôn” kiểu Trung Quốc: “Tây học vi dụng,
Trung học vi thể”! Từ đó, nảy sinh nhu cầu
và tham vọng… hiện đại hóa.
3. Vào thập niên 50 của
thế kỷ XX, từ “hiện
đại hóa” mới được du nhập như một
thuật ngữ chuyên biệt để chỉ cao trào công
nghiệp hóa lần thứ hai ở phương Tây và, từ
đó, lan tỏa và trở nên sôi động trong bối cảnh
phong trào giải thực với sự trỗi dậy của
các nước thuộc “thế giới thứ ba”. Hiện đại hóa là một
chuỗi những tiến tŕnh tích lũy và tăng cường
lẫn nhau: tạo vốn và động viên các nguồn lực
nhằm phát triển lực lượng sản xuất và
nâng cao năng suất lao động, xây dựng quyền lực
nhà nước tập trung và bản sắc quốc gia, bành
trướng các cơ hội làm ăn, các lối sống đô
thị hóa, nền giáo dục phổ thông, thế tục
hóa các giá trị và quy phạm v.v… “Hiện đại” quy giản
thành việc thực hiện các quy luật chức năng của
kinh tế và nhà nước, của khoa học và kỹ thuật
mà thôi. Ở phương Tây, “hiện đại hóa”, hiểu
theo nghĩa ấy, là muốn tách rời “Hiện đại”
ra khỏi các nguồn gốc khai minh của Âu Châu thời đại-mới;
v́ thế, với nhiều người, các tiền đề
và các giá trị của khai minh đă chết, chỉ c̣n phải
xử lư những hậu quả của nó. Việc phê phán đối
với Hiện đại thực ra không mới: với tiềm
lực phê phán sẵn có, việc phê phán những khuyết tật
của Hiện đại vốn song hành với Hiện đại
ngay từ đầu. Nhưng, sự phê phán lần này quyết
liệt hơn. Một lần nữa, người ta muốn
đoạn tuyệt với quá khứ để rảnh
tay bước vào một tâm thế mới, gọi là “hậu-hiện đại”
hay “hậu-lịch sử”.
Sự phê phán ấy chia thành hai hướng. Hướng ôn
ḥa phê phán mạnh mẽ các chiến lược hiện đại
hóa trước nay đă mang lại nhiều thảm họa
(chiến tranh, phá hủy môi trường, tiêu dùng vô độ
ở các nước giàu và nghèo đói ở phần c̣n lại
của thế giới…) nhưng vẫn muốn t́m kiếm
những chiến lược mới để bảo vệ và tiếp tục
hiện thực hóa các giá trị đích thực của
Hiện đại. Phái cực đoan “vô-chính phủ” muốn
phủ nhận tất cả, nhất là tinh thần “duy lư”
(thực ra là “lư trí công cụ”) và, do đó, vừa gợi mở
nhiều cách tiếp cận mới mẻ, vừa dễ có
nguy cơ bị các thế lực tân-bảo thủ lợi
dụng để ngụy trang sự phản-khai minh dưới
ngọn cờ của hậu-khai minh.
Ở các nước
đang phát triển, “hiện đại hóa” – hiểu như
một tiến tŕnh phát triển độc lập về
không gian và thời gian – có sức hấp dẫn của một
sự “đi tắt đón đầu” để phồn
vinh nhanh chóng và nhất là, một lần nữa, được
giải phóng khỏi ách thống trị tinh thần sau khi
thoát khỏi ách thống trị hiện thực của thực
dân Tây phương. Và thế là, ở nhiều nước đang
phát triển, các giá trị của “Hiện đại văn hóa” bị xem là sản
phẩm đặc thù của phương Tây và thậm chí,
là cái ǵ đă lỗi thời. Ở các xă hội ấy,
không khó để nhận ra sự kết hợp khập
khiễng giữa “công nghệ cao” (High-Tech) (chứ không phải
tinh thần khoa học) với các mô h́nh chính trị, xă hội,
văn hóa… tiền hiện đại, và có khi, cả phản-hiện
đại.
4. Nhưng, Hiện đại
– xét như một ư thức lịch sử và một hiện
tượng lịch sử toàn thế giới – có động
lực vận động tự thân mănh liệt của nó.
Suốt mấy thế kỷ, động lực tự
thân từ nguồn sức mạnh tiềm tàng của các giá trị hiện đại
đă lần lượt chôn vùi các lực cản tiền-hiện
đại (quân chủ chuyên chế, thần quyền, thực
dân, phát xít, quan liêu bao cấp…). Trong cao trào toàn cầu hóa lần
thứ hai hiện nay, với sự ra đời của xă
hội thông tin, xă hội tri thức hay “xă hội mở” (như
là bước phát triển tự nhiên của Hiện đại),
mọi lực cản – để sử dụng ngôn ngữ
của công nghệ thông tin – sẽ càng sớm bị nhận
diện như là “tiếng
ồn” hay “virus” có tính
“phá hoại” (contra-productiv) trong hệ thống, và sớm muộn
sẽ bị chính quy luật vận động của hệ
thống ấy t́m cách loại bỏ.
Tuy nhiên, xu thế
chung ấy vẫn đ̣i hỏi phải có các yếu tố nội sinh nơi mỗi quốc
gia đi sau, biết sớm tiếp thu và khai thác triệt để
các giá trị hiện đại
bằng một quyết
định lịch sử để đưa sự
phát triển đi vào bề sâu. Thực tế nghiệt ngă
cho thấy: số nước thực sự hiện đại
hóa thành công, không bị vĩnh viễn bỏ lại đàng
sau và đổ vỡ đau đớn trong cảnh hoang dại
và thối nát, bất lực, chỉ mới đếm được
trên đầu ngón tay mà thôi!
5. Nước ta đang đề ra nhiệm vụ “công nghiệp hóa và hiện
đại hóa”. Hai nhiệm vụ song đôi nặng nề
ấy cho thấy chúng không phải là một. Công nghiệp
hóa là điều kiện cần chứ chưa phải là điều
kiện đủ cho hiện đại hóa. Và, hiện đại
hóa, hơn lúc nào hết, cũng cần được
đặt ra một cách toàn diện và sâu sắc cho phù hợp
với nhận thức mới mẻ ngày nay. Để thế
hệ này và thế hệ sau không phải thở than như
Karl Marx trước hoàn cảnh đương thời của
đất nước ông: “Chúng
ta là những người sống đồng thời
về mặt triết học với hiện tại,
nhưng không phải là những người sống
đồng thời về mặt lịch sử”.
(Báo Xuân Thời
báo Kinh tế Sài G̣n, 01.2008)