HƯNG Ư THI…
Bùi Văn Nam Sơn
Châm ngôn giáo dục của Nho học – tôi
muốn nói đến Nho học nguyên thủy chứ không
phải nền khoa cử hủ bại về sau
– thật đơn giản mà thâm thúy: “Hưng ư Thi, lập ư Lễ, thành ư
Nhạc”. Hiểu theo nghĩa hẹp, đó là ba bước
học vấn: hưng khởi tâm hồn nhờ kinh Thi, vững
vàng khuôn phép nhờ kinh Lễ, thành tựu nhờ kinh Nhạc.
Hiểu theo nghĩa rộng, có lẽ ư vị hơn: trước
hết phải yêu thích, rồi mới chịu khó rèn
luyện, sau cùng mới đến chỗ hài ḥa, sáng
tạo. Nếu ta thấy châm ngôn ấy là có lư th́ cũng
thấy thật… vô lư khi nghe báo chí liên tục phản ánh
t́nh trạng: không ít học sinh, sinh viên ở nước ta
hiện nay hễ học văn th́ ngán văn, học
sử th́ chán sử, học triết th́ ghét triết…
Thế th́ làm sao chờ đợi có sự “thành ư
Nhạc”? May mà người ta c̣n chưa chán, chưa ghét lây
đến cả… “Anh văn, vi tính”!
Nhân nói đến… Anh văn, tôi lại
chợt nhớ đến John Dewey (1859-1952), một trong
những ông tổ của nền giáo dục hiện
đại Hoa Kỳ. Ông bảo, trong cảnh xô bồ
của môi trường xă hội, th́ nhà trường dù sao
vẫn là một môi trường có thể kiểm soát
được một cách tương đối, trong
đó những điều kiện cho sự phát triển
của cá nhân có tác dụng lớn trong việc định
hướng cho con người xă hội sau này. Năm 1896
(chỉ 12 năm trước ngày thành lập trường
Đông Kinh nghĩa thục ở nước ta!), Dewey thành
lập “trường học Dewey”, tức trường
học Thực nghiệm thuộc Đại học Chicago
(với chỉ 16 học sinh và 2 giáo viên lúc ban đầu)
như một xă hội thu nhỏ. Trái với sự
lầm tưởng, Dewey không theo chủ trương “lăng
mạn” lấy học sinh làm trung tâm mà rất xem trọng
vai tṛ của người thầy, thậm chí, theo ông,
“nếu người thầy làm tốt nhiệm vụ
của ḿnh, sẽ không cần đến bất kỳ một
h́nh thức cải cách nào khác”, v́ họ chính là
“người trợ giáo trong vương quốc đích
thực của Thượng đế”! Đó chỉ là
một cách nói, bởi “vương quốc” ấy không
phải là vương quốc của quyền uy áp
đặt mà phải là “một
tiền đồn lợi hại của nền văn minh
nhân loại", nghĩa là, “trường học
phải là một nơi vô cùng
thú vị” đối với người học.
Để trở thành những tác nhân cải tổ, chứ không phải là tác nhân tái sinh xă hội, nhà
trường nhất thiết phải được
tổ chức lại. Đó chính là tham vọng lớn
nhất của Dewey với vai tṛ là một nhà cải cách
giáo dục: biến những trường học của
nước Mỹ thành những công cụ hiệu quả
nhằm dân chủ hóa triệt để xă hội Mỹ,
chứ không đơn thuần cung ứng lao động
cho việc tái sinh một xă hội phản dân chủ. Cùng
nằm trong trào lưu “Tân-giáo dục” ấy, bà Maria
Montessori (1870-1952), nhà cải cách giáo dục cự phách
của nước Ư, nh́n học sinh như những “bào thai
tri thức”, những “kỳ quan cuộc sống”, mà
người thầy có trách nhiệm vun bồi:
“người thầy giáo sẽ phải học cách giữ
im lặng thay v́ nói; phải quan sát thay v́ hướng
dẫn, và phải khoác lên ḿnh tấm áo choàng của sự
khiêm nhường và say mê thay v́ vẻ kiêu ngạo của
một con người không bao giờ phạm sai lầm”.
Khả năng “quan sát” một cách tận tâm này không
phải là một khả năng tự nhiên mà chỉ có
được qua quá tŕnh rèn luyện, “một quá tŕnh
thật sự hướng người ta đến
với khoa học”. Bà viết: “nếu chúng ta không ư
thức được rằng ta đă nh́n thấy một
vật ǵ đó, th́ dường như vật đó chưa
bao giờ tồn tại. Tâm hồn của một nhà khoa
học đầy ắp những niềm đam mê đối
với những ǵ anh ta thấy. Một người
chỉ thực sự bắt đầu học khi thấy
ḿnh đă bắt đầu thấy hứng thú. Và sự
đam mê này là một động lực thúc đẩy
đàng sau tinh thần khoa học”.
Từ nhận thức rằng: “khác
với loài vật, con người không được
“lập tŕnh sẵn” với bất kỳ sự phát
triển có phối hợp nào cả, nên con người
phải tự học mọi thứ: không có mục tiêu nào
được đặt ra cho con người mà con người
phải t́m kiếm mục tiêu cho ḿnh”. Áp dụng vào
việc học, theo bà, tài liệu giảng dạy phải
kích thích được trí
tưởng tượng của người học, tác
động trực tiếp vào ư thức, và chính những ấn tượng
đầu tiên không chỉ ăn sâu vào kư ức của
học sinh mà c̣n tạo ra những cấu trúc phát triển,
giúp học sinh có khả năng tự giải quyết
(“tự giáo dục”/autoeducation) tất cả những ǵ
chúng gặp phải trên đường đời theo
cấu trúc này. Bà nêu ư tưởng về “những giai đoạn nhạy cảm” của
tuổi thiếu niên là những giai đoạn con
người có khả năng tiếp thu cao nhất: “Óc
biết tiếp thu vừa có nghĩa là năng lực
học, vừa có nghĩa là tinh thần sẵn sàng học
hỏi. Nếu không tận dụng được
những cơ hội này, chúng sẽ mất đi mà không
thể khôi phục lại được”. Sau giai
đoạn “hưng ư Thi” ấy (“những cuộc
gặp gỡ, tiếp xúc với những con người
đầy say mê quan trọng hơn việc tham khảo
những lư thuyết có sẵn”) mới là giai đoạn
“định h́nh tinh thần trách nhiệm khoa học”
(“lập ư Lễ”), nhưng đó cũng không phải là
một “quá tŕnh tuyến tính mà rất linh hoạt, phức
tạp, đầy những bước đột phá, bùng
nổ, thức tỉnh, những phát hiện mới,
những biến đổi và tổng hợp. Tất
cả sẽ đưa mỗi con người đến
với đỉnh cao của quá tŕnh tiến hóa, một quá
tŕnh thậm chí ta không thể đưa ra bất kỳ
dự đoán nào về nó”. Bà viết tiếp về giai
đoạn “thành ư Nhạc” này: “Phát triển sáng tạo
là một chuỗi nối tiếp, sự ra đời này
tiếp nối sự ra đời khác. Nếu mục tiêu
của loài người là t́m kiếm sự tiếp nối
thực sự, th́ nhiệm vụ của giáo dục
phải là sự phát triển tiềm năng của con
người”.
Trở lại với chúng ta, thử
tự hỏi ta đă và đang làm ǵ để “hưng
ư Thi”? Bằng cách chôn chân học sinh trong bốn bức
tường ngột ngạt với gánh nặng sách vở
và thi cử hay dành nhiều dịp cho các bạn trẻ
ấy tung tăng nơi đồng nội để
biết yêu thương và biết học hỏi thiên nhiên?
Bằng những đáp án “dọn sẵn” có tham vọng tát
cạn hết mọi tầng ư nghĩa của tác phẩm
văn chương (vốn không bao giờ tát cạn
được) hay chỉ “vén một góc” và dành ba góc c̣n lại
cho chân trời cảm thụ và khai phá của người
học (“Bất phẫn
bất khải, bất phỉ bất phát. Cử nhất ngung, bất dĩ
tam ngung phản, tất bất phục dă!”/“Không bực tức
th́ trí không mở, không hậm hực th́ ư không bật ra. Vén
cho một góc mà không tự vén thêm ba góc th́ không nói lại
nữa”. Luận ngữ)? Có chỗ chăng cho những
thầy giáo đầy cá tính, là tượng đài hiện
thân cho sự say mê chứ không chỉ là kẻ truyền
đạt kiến thức, như một Bùi Giáng giảng
Kiều: nổi giận đùng đùng trước âm
mưu gian tà của Hồ Tôn Hiến, nức nở,
uất nghẹn trước cái chết của Từ
Hải và thảm nạn của nàng Kiều đến
nỗi “nhảy cửa sổ” ra đi v́ không c̣n ḷng dạ
nào mà tiếp tục “giảng giải” trước
cảnh trái ngang như thế? Các cô cậu học sinh có
may mắn dự giờ giảng văn dị
thường ấy, khi trưởng thành, chưa chắc
c̣n nhớ trong đầu bao nhiêu kiến thức về
truyện Kiều nhưng chắc sẽ ghi măi trong tim
một t́nh yêu bất diệt với văn chương.
“Hưng ư Thi” (“trường học
phải là một nơi vô cùng thú vị”) – chứ chưa
vội nói đến “thành ư Nhạc”, càng không phải…
tăng học phí – là điều mong mỏi đầu tiên
của tất cả chúng ta cho nền giáo dục
nước nhà.
(Doanh nhân Sài G̣n Cuối tháng,
10.2007)