Ư KIẾN NGẮN:
ĐỂ TẠO THÓI QUEN LÀM
VIỆC
VỚI VĂN BẢN GỐC
Do
sự phản đối của sinh viên và dư luận xă
hội trước lối học thụ động
“thầy đọc tṛ chép”, nhất là trong các bộ môn khoa
học xă hội và nhân văn, các đại học ở
Phương Tây đă tiến hành cải cách mạnh mẽ
từ thập niên 60 thế kỷ trước: giảm
đến mức tối thiểu những giáo tŕnh do giáo
sư “độc diễn” (thực tế hiện nay
chỉ c̣n là nơi để các giáo sư nổi tiếng
giới thiệu “học thuyết” của ḿnh) và tăng
đến mức tối đa cách học tương tác, trong đó sinh viên giữ vai tṛ
chủ động (với các h́nh thức xemine ở
cấp đại học và đối thoại khoa
học/colloquium ở cấp trên đại học). Ai
cũng dễ thấy cái lợi của cuộc cải cách
này, nhưng để thực hiện được nó th́
thật không dễ dàng về cả hai phía: giáo sư
phải có cái ǵ “riêng” của ḿnh để tŕnh bày; sinh viên
phải có đủ “chất liệu” để t́m
hiểu, trao đổi. Muốn thế, giáo sư phải
kết hợp giữa nghiên cứu và giảng dạy; sinh
viên phải làm việc trực tiếp với văn
bản gốc, đầu nguồn; hay như cách nói đùa
trong giới đại học: đến thẳng với
“Phật”, chứ không (hoặc chưa) thông qua các vị
“Bồ tát”! Ở đây chỉ xin nói chút ít
về vế sau. Học từ đầu nguồn có
mấy cái lợi: - tập cho người học có thái
độ khách quan, nghiêm chỉnh trước tác giả, trường
phái hay học thuyết mà ḿnh t́m hiểu; - không cần
đọc nhiều (c̣n cả đời để
đọc!) mà cần đọc kỹ, chính xác, thấu
triệt để tạo căn bản vững chắc
cho những bước đi về sau, và biết cách
diễn đạt, tŕnh bày có căn cứ, theo thông lệ
của hoạt động khoa học; - khêu gợi óc ṭ ṃ,
xây dựng ḷng tự tin của một người
đối thoại đồng đẳng trong
tương lai chứ không cứ măi là kẻ “học tṛ”
thụ động.
Nhưng,
ở ta, như GS Lê Ngọc Trà (Doanh nhân cuối tháng,
số 3, tr.9) nhận xét: “Thậm
chí lên đến bậc cao học rồi mà mỗi khi
được yêu cầu phải đọc một vài
trang – chỉ vài trang thôi! – trong tác
phẩm của Marx hay Kant, Hegel, sinh viên đều than khó và
nhiều người đọc măi cũng không hiểu! Mất
thói quen làm việc với văn bản gốc là một
nhược điểm rất lớn của sinh viên ngành
khoa học xă hội và nhân văn nước ta hiện nay”.
Tất
nhiên, lỗi không hoàn toàn ở phía sinh viên khi họ không
được tập thói quen ấy ngay từ đầu,
và ta cũng không chờ đợi sinh viên bất kỳ
nước nào có thể đọc thông thạo các văn
bản bằng ngoại ngữ ở lứa tuổi
đôi mươi! V́ thế, việc tổ chức
dịch có hệ thống các văn bản ấy sang
tiếng Việt là một yêu cầu cấp bách hiển
nhiên. Nhưng, với kiểu làm tản mạn,
được chăng hay chớ hiện nay, bao giờ
mới có đủ “bột” để gột nên “hồ”? Bên
cạnh nỗ lực đáng quư của Quỹ dịch thuật Phan Châu Trinh với tủ
sách “Tinh hoa” của NXB Tri thức cũng như
của nhiều nhà xuất bản khác, một kinh
nghiệm hay từ một số nước Châu Á mà ta có
thể tham khảo: ngay từ năm học đầu
tiên, sinh viên đă được dành một thời gian
thích đáng (độ 50%) để tập đọc và
thuyết tŕnh về văn bản gốc, hướng
dẫn mỗi người chuyên sâu về một vài
ngoại ngữ, về một tác giả, một lĩnh
vực trong suốt thời gian học. Được
chuẩn bị ngay từ đầu như thế, một
phần thích đáng (cũng độ 30-50%) các luận
văn tốt nghiệp (cử nhân và thạc sĩ) sẽ
là các công tŕnh dịch, chú giải và b́nh luận về các
văn bản quan trọng. Chúng có thể
được công bố như các công tŕnh đầu tay, v́ đă được thẩm
định bởi hội đồng giám khảo và cho
thấy rơ học lực vững chắc của
người tốt nghiệp. Kiên tŕ làm như thế ta
sẽ nhanh chóng làm giàu kho tàng văn bản khoa học
bằng tiếng Việt và sớm có một đội ngũ chuyên gia thực sự trên nhiều
lĩnh vực. Nhật Bản, Hàn Quốc… đều làm
như thế cả, và, theo tôi biết, ở Hàn Quốc, ngoài
các tác phẩm “kinh điển”, hầu như các tạp chí
chuyên ngành trên thế giới cũng đều
được phân công cho sinh viên cao học dịch trong
một thời gian ngắn. Ở Nhật, thời gian
ấy c̣n được rút ngắn hơn nữa!
Bùi
Văn Nam Sơn
(Doanh nhân Sài G̣n Cuối tháng,
7.2007)