Mấy
góp ư nhân Chuyên đề “Thực trạng dịch thuật
ở Việt Nam”
của báo điện tử VietnamNet.
DỊCH THUẬT VÀ HỌC THUẬT
Báo Điện tử VietnamNet đang
mở diễn đàn với chuyên đề “Thực trạng
dịch thuật ở Việt Nam” và có nhă ư đề nghị
tôi tham gia ư kiến. Tôi không am tường lắm về “thực
trạng dịch thuật” chung của cả nước,
nên chỉ xin góp vài ư kiến trong phạm vi hẹp là việc
dịch triết học Tây phương sang tiếng Việt,
lănh vực mà tôi có hiểu biết chút ít. Để ngắn
gọn, tôi xin phép phát biểu theo kiểu “gạch đầu
gịng”:
1.
Cần đặt việc dịch thuật vào khuôn khổ
chung của việc xây dựng nền học thuật nước
nhà:
- Trong lănh vực triết học,
hiện có hai luồng ư kiến:
a) không
nên dịch; “dịch là phản”. Muốn t́m hiểu hay giao
lưu với tư tưởng Tây phương, phải cố
trực tiếp đọc bản chính bằng ngoại ngữ.
Lư do thường nêu là tŕnh độ có hạn của những
người dịch và cả khả năng diễn đạt
c̣n yếu của tiếng Việt cũng như truyền
thống ít chuộng lư luận của nước ta.
b) dịch
là công việc thứ cấp, nhai lại cặn bă của cổ
nhân và của người khác. Hăy “sáng tạo” và tự làm
nên những công tŕnh của riêng ḿnh!
Các
ư kiến ấy đều có chỗ đúng nhưng tôi e là
do chưa thấy hết mối quan hệ chặt chẽ
và tác động qua lại của dịch thuật và học
thuật. Học thuật theo nghĩa hẹp là nền giáo
dục, nhất là nền giáo dục, nghiên cứu ở đại
học, và theo nghĩa rộng là nền “tư văn”, là đời
sống và hoạt động khoa học, tinh thần của
cả một đất nước.
- Có
vô số ví dụ đáng suy nghĩ chung quanh vấn đề
này trong lịch sử phát triển tư tưởng của
các nước; chỉ xin thử nêu một số:
+ Ngài
Trần Huyền Trang (Thầy Tam Tạng) tổ chức dịch
kinh một cách quy mô và có phương pháp nên đă đặt
nền móng vững chắc cho Phật học ở Đông
Á, nâng chất lượng của Hán văn lên một tŕnh độ
mới hẳn. Các “tân thư” (Darwin, H. Spencer, Rousseau, Montesquieu…)
được dịch ở Nhật và Trung Quốc vào thế
kỷ 19 mở đường cho cách mạng dân chủ và
canh tân xă hội. Không ít những thuật ngữ ngày nay
chúng ta đang dùng (chẳng hạn ngay chữ “Triết học”!)
cũng là nhờ công lao của các dịch giả Nhật
và Trung Quốc ấy… Đó là chưa nói đến các cống
hiến tiền phong của nhiều học giả Việt
Nam
thế hệ trước đây.
+ Ngay
tại Châu Âu, tác phẩm chính của Adam Smith được
dịch ngay ra tiếng Đức cùng trong năm 1776, nhờ đó Kant, Hegel… mới
được đọc và đă kịp thời mở rộng
kích thước xă hội, kinh tế-chính trị trong tư
tưởng của ḿnh. Các tác phẩm chính của M.
Heidegger - tưởng như “không thể dịch được”
– đă sớm được các dịch giả có chân tài dịch
sang tiếng Pháp với sự hỗ trợ của chính tác
giả, nhờ đó gây nên phong trào “triết học hiện
sinh” sôi nổi ở Pháp… Trong khi đó, v́ dịch quá muộn
(chậm hơn 40 năm giữa hai nước láng giềng!)
tác giả có tên tuổi lớn ở Pháp là Gaston Bachelard hầu như không được
biết đến ở khu vực sử dụng tiếng
Đức khiến giới triết học Đức hiện
nay ân hận măi!
+ Về
ngôn ngữ, ngoài ví dụ rực rỡ và quen thuộc của
Thầy Tam Tạng trên đây, dịch thuật góp phần
rất lớn vào việc cải biến, xây dựng và nâng
cao ngôn ngữ khoa học của nhiều nước. Ngày
nay, ai cũng phải thừa nhận tiếng Đức
là ngôn ngữ uyên thâm về triết học và khoa học.
Nhưng đâu phải “trời sinh ra thế” và cũng chỉ
mới được “như thế” từ khoảng 200 năm
nay thôi! Thế kỷ 18, mọi người đều viết
bằng tiếng Latinh (ngay cả Leibniz và Descartes) v́ ai cũng
cho rằng tiếng bản ngữ là “nôm na mách qué!”. Nhờ
Martin Luther “đánh bạo” dịch kinh Thánh sang tiếng Đức
mới bắt đầu có ngôn ngữ văn xuôi Đức
trôi chảy. Rồi nhờ Ch. Wolff và Kant cố gắng dịch
các thuật ngữ Latinh sang tiếng Đức mới đặt
được nền móng cho ngôn ngữ triết học
Đức ngày nay… C̣n trong tiếng Anh, đó là công của
những J. Locke, David Hume, Berkeley…
Tóm
lại:
- không
cá nhân hay quốc gia nào dám cho rằng ḿnh là “đỉnh
cao”, là “quê hương” của tư tưởng, khoa học
mà không lo học hỏi người khác và nước khác.
- dịch
sớm và dịch cái đáng dịch là cách nhanh nhất để
bắt kịp thiên hạ.
- dịch
đúng và dịch hay góp phần vun bồi hay thậm chí
nâng cao ngôn ngữ và tŕnh độ tư duy của cả một
dân tộc.
- không
ngôn ngữ nào là “kém”, là “nôm na mách qué” cả, chỉ có người
viết và người dịch kém mà thôi. (Tiếng Việt,
trải qua nhiều giai đoạn phát triển, nay đă
trưởng thành, có tiềm lực thẩm mỹ, tư
biện và khoa học không thua kém ngôn ngữ nào khác, lại
có trữ lượng thuật ngữ hầu như vô tận
từ nguồn “đồng văn” Trung, Nhật…).
Một số hệ luận có
thể rút ra là:
- Bạn
hăy cho tôi biết nước bạn đă dịch được
những ǵ, tôi sẽ nói cho bạn biết nền học
thuật của nước bạn hiện như thế
nào!
- Xét
học thuật theo nghĩa hẹp là nền giáo dục đại
học, ta thấy:
+ sau
nhiều bước cải cách, ở đại học
các nước phương Tây, nhất là khoa Triết, hầu
như chỉ c̣n có những giáo sư rất nổi tiếng,
tầm cỡ “triết gia” mới dám “đọc cours”
(“giáo tŕnh”), nếu không sẽ chẳng có sinh viên nào đến
nghe, v́ “dự cours” không cấp chứng chỉ để
tính điểm! Hầu hết chương tŕnh c̣n lại
dành cho các “xêmine” mà chủ yếu là thầy tṛ cùng đọc,
cùng làm việc trên bản chính (nguyên bản hay bản dịch
được thừa nhận) của các tác giả
lớn. Từ đó, mới bỏ được tận
gốc tệ nạn “thầy đọc tṛ chép”, và người
học có đủ tự tin để trích dẫn, trao đổi,
tham bác, nghị luận, h́nh thành tư duy độc lập
và sáng tạo về sau. Và, cũng chỉ cách học ấy
mới khiến người ta thấy cần biết bao
những bản dịch thật tốt và kịp thời!
+ sách
tham khảo là cần, nhưng sách chính bản (Original) là cần
hơn. Không nên làm việc ngược đời: sách tham
khảo trở thành “chính khóa”, sách chính bản trở thành
sách “tham khảo”. Các nhà nho thức thời trước đây
(chẳng hạn Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng…) đều
đă bực ḿnh và lên án “lối học Tổng nho” ấy:
sĩ phu chạy theo khoa cử thật ra chỉ học Chu
Hy và Bùi Huy Bích chứ ít học Khổng Mạnh và Tứ thư!
- Xét
học thuật theo nghĩa rộng là nền tư văn,
khoa học của cả nước nhà, ta thấy:
+ “bất
học Thi, vô dĩ ngôn”, không “bác lăm quần thư” th́ lấy
ǵ để ăn nói với thiên hạ, để có thể
tham gia và góp tiếng nói của ḿnh vào cuộc “trăm nhà đua
tiếng” trên thế giới?
+ không
luyện nội công, chỉ học quyền cước làm
sao đủ sức… “hành hiệp giang hồ”? Cũng như
trong thể thao… SEA Games thôi, môn nào có đủ “nội lực”
th́ đi xa, thắng lớn, chưa đủ th́ chỉ biết
phó cho may rủi. Dịch thuật là tăng nội lực
cho số đông để các thế hệ sau bay cao, bay
xa. Không có cái nền chung ấy, những “sáng tạo” đột
xuất cũng khó có chất lượng ngoài chút hư danh
của kẻ “múa gậy vườn hoang” và trái với tính
“công truyền” (chứ không phải “bí truyền”) vốn là
bản chất của khoa học và với lư tưởng
nhân văn, khai sáng của triết học đích thực.
Dù cao xa, thâm trầm đến mấy, triết học chưa
bao giờ là sự độc thoại, là sản phẩm từ…
hư vô mà là sự tiếp tục suy tưởng. Nó là việc
kiến tạo liên tục những cuộc đối thoại
với các “luật chơi” riêng biệt. Nói như Kant, “một
ḿnh ḿnh biết, một ḿnh ḿnh hay”, hoặc không trao đổi,
cọ xát rộng răi, - trước hết với những
người trong nước rồi rộng ra nước
ngoài - trong tinh thần phê phán và công khai th́ đó là cách “hộ
tử” (Euthanasie) êm ái nhất đối với triết học!
2.
“Làm ǵ?”
- Theo thiển ư, không bao giờ
là muộn để cùng nhau b́nh tĩnh tổ chức việc
dịch thuật cho có bài bản. Không nên từ chỗ bỏ
bê chuyển sang sự nóng vội. Theo tôi, việc dịch
sách triết học có mấy điểm đặc thù sau
đây:
a) tính hệ thống:
- thường
xuyên cập nhật một danh mục thật tốt những
tác phẩm cần dịch (tiêu biểu cho mỗi thời kỳ,
mỗi trường phái, mỗi tác giả…), rồi kiên tŕ
theo đuổi kế hoạch ấy một cách lâu dài.
- dịch
sách chính bản trước, sách tham khảo sau. Sách “nguồn
cội” trước, sách “phái sinh” sau (vd: dịch Platon trước
Plotin, dịch Kant trước Fichte, dịch Husserl, Heidegger
trước Sartre, Gadamer…).
b) tính giáo khoa:
- sách
triết học không chỉ để “thưởng thức”
hay “di dưỡng tính t́nh” ở nơi thanh vắng mà để
cùng nhau học trước
đă. V́ thế, phải dịch thật kỹ, thật
trung thực, có chú thích và chú giải kỹ càng. (Các chú thích,
chú giải chỉ nên làm nhiệm vụ giải thích, soi
sáng những chỗ khó hiểu. Việc nhận định,
phê phán nên dành cho người đọc và nên làm chỗ
khác). Luôn ưu tiên nghĩ đến đối tượng
đọc và sử dụng là giới sinh viên và nguời nghiên
cứu. Tránh t́nh trạng đọc bản dịch c̣n khó hơn
đọc… nguyên bản! Có nhiều tác phẩm rất kén
chọn người đọc và thỉnh thoảng mới
cần đến, v́ thế cũng không nên đ̣i phải
phổ biến rộng răi hay có “tác động” thiết thực
ngay. Nhưng khi cần đến th́ phải có. Các nền
học thuật hơn thua nhau là ở chỗ đó.
c) tính khoa học:
- bản
dịch ra đời không phải một lần là xong mà có
thể dịch đi dịch lại nhiều lần. Sau khoảng
10, 20 năm, các bản dịch đều cần chỉnh
lư lại cho phù hợp với biến chuyển của ngôn
ngữ và thuật ngữ. Khuyến khích có nhiều bản
dịch khác nhau về cùng một tác phẩm để người
đọc chọn lựa, so sánh, đừng ngại mất
công hay cho là thừa.
- ở
các nước, người dịch thường là người
đă nghiên cứu lâu năm về tác giả. Nếu là tập
thể dịch giả, th́ thường là nhóm “tâm giao”, hiểu
nhau và hiểu tác giả để bản dịch có được
sự chặt chẽ, “nhất khí”. Chỗ nào không hiểu
hay chưa hiểu rơ th́ cũng cứ nói ra để người
đọc được biết, chẳng xấu hổ
ǵ. Ngay tác giả có khi c̣n chẳng hiểu được chính
ḿnh nữa là!
- bản
dịch văn chương có thể bằng hoặc có khi “hay”
hơn nguyên bản, thậm chí có “dư địa” cho sự
“sáng tạo” của dịch giả (theo nhận xét chủ
quan của tôi, có thể lấy ví dụ: bản dịch “Tỳ
Bà Hành” của Phan Huy Vịnh, bản dịch “Trường
hận ca” của Tản Đà, một hai bản dịch của
Bùi Giáng…). Trong triết học, cần dịch đúng và dịch
sao cho “có thể đọc được” trước đă,
v́ như Kant nói “trong lănh vực này, điều nguy hiểm
không phải là bị phản bác mà là không được hiểu
đúng” (Phê phán Lư tính thuần túy, Lời Tựa II, BXLIII),
do đó các triết gia lớn thường cân nhắc từng
chữ, từng ư, đúng với câu “nhất tự thiên
kim” mà người dịch không được phép lơ là
hay thiếu tinh tế. Do tính nghiêm mật của triết học,
dịch sai c̣n tệ hơn là không dịch v́ nó có thể để
lại những di hại khôn lường về sau. “Tín, đạt,
nhă” là lư tưởng của việc dịch; nếu chưa
được cả ba, nên ưu tiên cho chữ “tín”.
- sớm
h́nh thành và hoàn thiện dần một “quy ước” chung,
thống nhất về kỹ thuật dịch và cách tŕnh
bày bản dịch, xây dựng từng bước một
“kho” thuật ngữ và dữ liệu, soạn “từ điển”
thuật ngữ về từng tác giả, từng bộ
môn (vd: nhận thức luận, đạo đức học,…).
3.
Xin hăy “vội vă một cách chậm răi”!
- Trừ
những bậc thiên tài về tư tưởng và dịch
thuật, thường phải học vài chục năm về
một hay vài ngoại ngữ và tiếng mẹ đẻ
(ngoài kiến thức chuyên ngành) mới có thể dịch và
chú giải sách triết học. Mấy ai có điều kiện
ấy? Nên, t́nh h́nh cũng thật cấp bách! Số người
thuộc chuyên ngành này vốn đă không nhiều; sống
lâu ở nước ngoài th́ “kém” tiếng Việt; học
chuyên ngành và ngoại ngữ ở trong nước năm bảy
năm th́ chưa đủ, làm sao giải quyết t́nh trạng
ấy?
- Theo
tôi, chỉ có cách học kinh nghiệm của Ngài Trần
Huyền Trang là: đào tạo kiểu “cuốn chiếu”, tổ
chức dịch theo mô h́nh “kim tự tháp” bằng một
“công nghệ có tính dây chuyền”.
- Lập
một “diễn đàn dịch thuật” thường xuyên để
trao đổi, học hỏi giúp đỡ lẫn nhau.
- Trong bối cảnh một xă
hội thông tin và toàn cầu hóa ngày càng phát triển nhanh
chóng và không thể đảo ngược, sự tự
giác và khả năng tự tổ chức của giới
khoa học là quan trọng và cần thiết nhất. Các yếu
tố ngoài-khoa học cũng cần nhưng không và không nên
để trở thành yếu tố quyết định.
Việc h́nh thành mới đây của “Tủ sách Tinh hoa Tri
thức thế giới” là một dấu hiệu tốt
theo hướng đó.
Tóm lại, xây nhà th́ không thể
xây từ nóc; nhưng cái nền tất nhiên cũng chưa
phải là ngôi nhà. Công việc xây nền là công việc “khổ
sai” âm thầm, nặng nhọc, không thú vị bằng công đoạn…
trang trí nội thất. Nhưng, đó là khâu cần hơn
hết đến tài nghệ và lương tâm của kiến
trúc sư và kỹ sư xây dựng. Với sự giám sát
nghiêm khắc nhưng có viễn kiến của các tổng
công tŕnh sư. Vái trời sớm có được những
con người đó!
Vài ư kiến nôm na và thành thật
xin đóng góp vào diễn đàn chung.
Bùi
Văn Nam Sơn
12.2005
(Báo điện tử VietnamNet,
tháng 12.2005)