ĐỀ
CƯƠNG TÓM TẮT
HÀNH TR̀NH
MỸ
HỌC TRIẾT HỌC
TỪ
PLATON
ĐẾN
ADORNO
|
Tŕnh bày:
Bùi
Văn Nam Sơn
28.03.2009
|
Mở đầu: Một cách
hiểu về MỸ HỌC TRIẾT HỌC
I. Các bước đầu
của Mỹ học triết học
1.1 Cái
Đẹp ở thời cổ đại (Hy Lạp)
1.2 Các quan niệm về cái Đẹp ở thời Trung đại
1.3 Khái niệm Nghệ Thuật ở thời Cổ và Trung
đại
1.4 Nghệ
thuật và cái Đẹp
trong thời Phục Hưng
II.
Mỹ học như một
môn học độc lập? (Descartes, Leibniz)
III.
Mỹ học như là khoa
học về nhận thức cảm tính (Baumgarten)
IV.
Phản tư mỹ học
như là “nhận thức nói
chung” và sự tự trị của mỹ học (Kant)
V.
Nghệ thuật như là
Chân lư có thể trực quan (Hegel)
VI.
Nghệ thuật như là
“Chân lư tự-thiết định-trong-tác phẩm” (Heidegger)
VII.
Mỹ học như là “phê phán
lư tính” và cứu văn “cái không-đồng nhất” (Adorno)
[Đề
cương này chưa đề cập đến tư tưởng
mỹ học của Schopenhauer và sau “bước ngoặt
ngôn ngữ” (linguistic turn) (Wittgenstein, Goodman, Danto, Panofsky,
Imdahl…)].
MỞ ĐẦU: MỘT CÁCH
HIỂU VỀ MỸ HỌC – TRIẾT HỌC
- theo
nghĩa rộng, mỹ học triết học nhấn
mạnh tầm quan trọng của aisthesis (tri giác, t́nh cảm, thông cảm) vốn
bị truyền thống triết học xem nhẹ.
- đồng
thời nhấn mạnh tính chất lư giải, ẩn
dụ trong quan hệ của con người với thế
giới: sự gần gũi giữa tiến tŕnh sáng
tạo nghệ thuật và hoạt động khoa học.
- từ
“bước ngoặt ngôn ngữ học” (linguistic turn)
đến “bước ngoặt mỹ học” (aesthetic
turn)?
- “Sinh
thái học mỹ học” /
(aesthetic ecology): cân đối lại với việc xem
giới tự nhiên như là đối tượng sử
dụng đơn thuần.
I. CÁC
BƯỚC ĐẦU CỦA MỸ HỌC TRIẾT
HỌC
- Động
cơ phản-siêu h́nh học
của mỹ học nằm ngay trong thời kỳ phát
triển siêu h́nh học của nó.
- Đặc
điểm trong thời kỳ cổ đại và trung
đại:
- lư
luận về cái Đẹp
và lư luận về nghệ
thuật phát triển độc lập với nhau.
- nghệ
thuật chưa phải là
trú sở của cái Đẹp: người ta chưa định nghĩa
nghệ thuật bằng cái Đẹp. Chưa có một mỹ thuật riêng biệt.
- phải
đợi đến lư luận về nghệ thuật
ở thời Phục Hưng.
1.1 Cái
Đẹp ở thời cổ đại (Hy Lạp)
1.1.1. Platon:
- Đối
thoại “Hippias maior” của
Platon (Socrates và biện sĩ Hippias).
- Không
định nghĩa những
hiện tượng đẹp mà t́m đến bản thân cái Đẹp (auto to
kalon) v́ nó mang lại tính đẹp cho mọi cái
đẹp riêng lẻ.
→ đi t́m và khẳng
định một cái Phổ
biến và bất biến trong tư duy: “Ư niệm” (Idee).
-
bác ba định nghĩa
của:
• Hippias:
- “cô
gái đẹp là đẹp”: đẹp tự nhiên #
đẹp nhân tạo.
- “vàng
là đẹp”: sự rực rỡ, sáng láng (ẩn dụ
về “ánh sáng”.
- “danh
dự, hạnh phúc là đẹp”: kích thước luân lư –
thực hành → tính tương đối.
• Socrate:
- “đẹp
là cái phù hợp”: → có
vẻ đẹp chứ không phải là đẹp! #
Hegel: đẹp là vẻ ngoài
cảm tính của Y niệm.
- “đẹp
là hữu dụng”.
- “đẹp
là cái dễ chịu”.
- đă
đặt mọi vấn đề của lư luận
mỹ học:
tồn tại / vẻ ngoài; tính
tương đối của phán đoán thẩm mỹ
(tiền thân của phạm trù “sở thích”); chất
liệu / nội dung và h́nh thức; quan hệ giữa cái
Mỹ và cái Thiện v.v…
- Trong
“Symposium” và “Phaidros”
- Ta
quan hệ với cái Đẹp như thế nào? Nó tác
động ǵ nơi ta?
- Cái
Đẹp (Eros) là người hướng đạo lên các bậc thang của tri
thức.
- Phải
chăng Platon thù ghét cảm năng và giác quan?
- Cái
Đẹp chưa được chủ quan hóa mà là một thuộc tính của
bản thân tồn tại, nên sự hấp dẫn của
nó là phổ biến.
- Trong
Timaios: cái Đẹp như
là mẫu mực: Demiurg sáng
tạo theo cách tốt nhất, tức đẹp nhất:
- Ư
niệm là cái Một, khác
với cái Nhiều là những hiện tượng sao
chụp.
- Nhất
thể trong đa thể là cái Đẹp của vũ
trụ.
# Leibniz:
nhất thể trong đa thể tối đa.
- Trong
“Nomos” (quyển 2):
- chức
năng giáo dục và điều trị của cái
Đẹp:
- sự
hài ḥa của nhịp sẽ điệu vun bồi t́nh yêu
cái Thiện.
- cái
Đẹp được nội tâm hóa, tương tự
với trật tự vũ trụ.
1.1.2 Aristoteles
- Khác
Platon: Aristoteles phân biệt cái Đẹp với cái
Thiện:
- cái
Thiện ở trong hành vi, c̣n cái Đẹp có cả trong cái
bất động.
- các
nguồn gốc chính yếu của cái Đẹp: trật
tự, cân đối và có ranh giới: minh chứng rơ
nhất trong các môn toán học.
- nhấn
mạnh cái Đẹp sinh động, hữu cơ,
mạnh khỏe (“Thi pháp”), giảm bớt ư nghĩa siêu h́nh
học của Platon.
1.1.3. Plotin (204-270 và thuyết
Plato-mới
- mở
màn tư biện Platon-mới về
cái Đẹp.
- Platon:
cái Một có ưu thế bản thể học hơn cái
Nhiều.
- Plotin:
cái Một được nâng
lên thành cái Tuyệt đối, đứng lên trên mọi
tồn tại (Emanation: sự lưu xuất).
- Vũ
trụ phân cực: Thiện (cái Một nguyên thủy) ↔
Ác (cái Nhiều vô-h́nh thức).
- Hướng
đến cái Một (giải thoát) → hiện thực
hóa cái Mô thức.
(# Aristoteles: không thể vượt
khỏi mô thức đặc thù của Loài).
- Con
người có thể hợp nhất với cái
Một-nguyên thủy bằng sự xuất thần (Extase):
mục tiêu và khởi điểm của mọi tư duy
(“unio mystica”).
- càng
tăng cường tính mô thức th́ càng đẹp:
chức năng thần bí (anagogisch) của cái Đẹp.
- Phê
phán quan niệm Mỹ học đối xứng của
Aristoteles và Stoa: không thấy cái đơn giản, cái
Một.
- Vấn
đề cái Đẹp trở thành vấn đề nhận thức cái Đẹp
bằng trực quan, không suy
lư, v́ mọi cái Đẹp liên quan đến Ư niệm: cái
Đẹp qua “con mắt của Tinh thần”. Kinh nghiệm
thẩm mỹ → nội tâm hóa và siêu việt hóa tâm
hồn.
1.2 Các quan niệm về cái Đẹp ở thời
Trung đại
- chủ
yếu dựa vào quan niệm của Platon và điều ḥa
với giáo lư Kitô giáo.
1.2.1. Augustinus (354-430)
- đồng
ư với Platon và Plotin: cái Đẹp cảm tính là biểu
hiện của cái Đẹp siêu việt, siêu cảm tính,
nhưng cái Đẹp không phải “mù quáng” như Ư niệm
hay Cái Một mà chính là Thiên Chúa sáng tạo: “kẻ tạo
h́nh thức cho mọi h́nh thức”, cái “Tuyệt Mỹ”.
- không
có nghĩa là xem nhẹ việc thưởng thức cái
Đẹp cảm tính: nó được yêu thích và
ngưỡng mộ như là sản phẩm
được sáng tạo. Chỉ không được phép
lẫn lộn về cấp bậc giữa cái Đẹp
nguyên mẫu và những hiện tượng đẹp.
1.2.2.
Dionysius Areopagita, tu sĩ
người Syri (thế kỷ 5) được Johannes
Scotus dịch từ Hy Lạp sang Latinh vào thế kỷ 9 và
ảnh hưởng mạnh suốt thời Trung
đại.
- Siêu
h́nh học về cái Đẹp: hợp nhất khái
niệm Thiên chúa Kitô giáo và cái Tuyệt đối của
triết học Hy Lạp: cái Đẹp là thuộc tính
của Thiên Chúa, của cái Tuyệt đối.
- Cái
Đẹp cảm tính phải quy về cái Đẹp nguyên
thủy của Thiên Chúa (ư tưởng về “sự tham
dự” của Platon và “sự lưu xuất” của Plotin).
→ đánh giá cao cái Đẹp hữu
hạn, bản sao: cơ sở lư thuyết cho việc tôn
thờ ảnh tượng trong Nhà Thờ Kitô giáo.
Tóm
lại:
- Lư
luận mỹ học trung đại dựa vào mô h́nh
nhận thức của Trực
quan.
- Trực
quan không phải là sự thụ nhận thụ
động mà là h́nh thức cao
nhất của nhận thức, hướng đến
cái Phổ quát. Có cấu trúc khác với nhận thức suy
lư. Suy lư dừng lại ở những Chân lư bộ
phận, phụ thuộc vào giác độ của khái
niệm, trong khi trực quan
nắm bắt trọn vẹn cái toàn bộ.
1.3 Khái niệm Nghệ Thuật ở thời Cổ và Trung
đại
1.3.1. Thời cổ
đại:
- “Techne”
(Hy Lạp) và “ars” (Latinh) chưa phải là “mỹ thuật”
theo nghĩa hẹp. Aristoteles: “Techne là hành vi tác tạo
dựa trên tri thức”.
- Platon:
sáng tạo nghệ thuật như là MIMESIS (mô phỏng).
- Tránh
ngộ nhận Platon: ông phân biệt:
- nghệ thuật “công
truyền” (exoterisch): hướng đến hiện
tượng cá biệt, mô phỏng trung thành, thoát ly khỏi
nhận thức đích thực: ví dụ: nghệ thuật
tu từ của phái “ngụy biện”, hội họa.
- nghệ
thuật “bí truyền” (esoterisch), hướng đến Ư niệm đúng thật.
- Mimesis
không phải là “sao chụp” hay “nhân đôi” hiện
tượng mà tiệm cận Nguyên lư ngự trị
mọi hiện hữu cá biệt.
→ Nghệ thuật là mô
phỏng bản chất (Nguyên mẫu) chứ không phải
mô phỏng hiện tượng.
1.3.2. Thời Trung đại
- phân
biệt các nghệ thuật “lư thuyết” (“khoa học”) và
các nghệ thuật “máy móc”. Nghệ thuật lư thuyết =
7 “nghệ thuật tự do”:
- Trivium: ngữ pháp, tu từ,
phép biện chứng.
- Quadrivium: âm nhạc, thiên
văn, số học và h́nh học.
-
Người
nghệ sĩ (artifex) không phải là kẻ sáng tạo
một Ư niệm mà thực hiện nó bằng phương
tiện thủ công: không có nghệ sĩ cá nhân mà là thành viên của một “làng nghề”.
Không đ̣i hỏi giải pháp cá nhân mà là sự thành
thạo trong công việc.
- Mọi
nghệ thuật là Mimesis (mô phỏng):
- Aristoteles
(“Vật lư học”):
- nghệ
thuật hoàn tất những ǵ Tự nhiên chưa làm xong
- mô
phỏng những ǵ có sẵn trong Tự nhiên.
- Thomas
Aquino: Ars imitatur naturam (nghệ thuật mô phỏng Tự
nhiên).
- Nhưng,
đó là mô phỏng phương
pháp của Tự nhiên, để tác tạo như là Tự nhiên.
(Đối tượng của Mimesis là natura naturans / thiên nhiên sáng tạo chứ không
phải natura naturata / thiên nhiên
thụ tạo).
- kiến
tạo h́nh thể đúng với chất liệu:
- tác
phẩm phải phục vụ đúng mục đích.
- đúng
với chất liệu: lao động tự giải phóng
chứ không phải bị cưỡng chế.
Tóm
lại:
- lư
luận nghệ thuật chịu ảnh hưởng
Aristoteles.
- Siêu
h́nh học về cái Đẹp (Platon + Platon mới) mờ
nhạt, nhưng sẽ hồi sinh mạnh mẽ ở
thời Phục Hưng.
1.4
Lư luận về Nghệ thuật và cái Đẹp trong thời
Phục Hưng
- Phát
triển những nhân tố đă tiềm tàng ở thời
Trung đại:
- thế
tục hóa và phê phán giáo hội.
- tiếp
thu những kiệt tác và h́nh ảnh con người của
thời cổ đại.
- tách
rời đức tin và nhận thức lư tính (thuyết duy
danh)
- giảm
bớt sự ràng buộc vào tập thể, phát huy tài
năng cá nhân. (bắt đầu từ thời “huyền
học” thế kỷ 12-13).
1.4.1.
– Leon Battista Alberti (1404-1472):
(“Luận văn về nghệ thuật kiến trúc”, 1450).
- “là
tinh hoa của con người văn hóa lư tưởng
của thời Phục Hưng” (Jacob Burckhardt).
- liên
minh giữa nghệ thuật tạo h́nh và chủ nghĩa
nhân văn: hai bên đều có lợi: - diễn tả lư
tưởng của chủ nghĩa nhân văn; chủ
nghĩa nhân văn cung cấp cơ sở lư luận khoa
học.
- Siêu
h́nh học Trung đại xem cái Đẹp là một thuộc tính khách quan. Sự
hài ḷng chủ quan không đủ để giải thích bản chất của cái Đẹp
(Aquino).
- Alberti
ngược lại: xác nhận sự trùng hợp có
thể tri giác được của mọi bộ phận
của sự vật như một nhất thể làm hài ḷng chủ quan.
- quy
luật của cái Đẹp hoàn thiện dựa vào tự nhiên nhưng không bắt nguồn
từ tự nhiên. Mô
phỏng là rút ra một nguyên tắc hay một ư đồ của
Tự nhiên để theo đuổi trong sự thuần
khiết tối đa.
- áp
dụng những kiến thức khoa học để phát
huy nghệ thuật: ví dụ: đối với kiến
trúc, đó là h́nh học, toán học, quang học, khoa
học vật liệu… (Phục Hưng: con
đường quy nạp;
Gôtíc: con đường diễn
dịch).
- không
đối lập hoàn toàn với Ficino (Platon-mới): không
bỏ tính tư biện. (cơ sở của cái
Đẹp hiện tượng vẫn là nguyên tắc
tối cao của Tự nhiên hay của sự Sáng tạo).
- Tính
quy luật của vũ trụ là giả thuyết không
thể vi phạm: h́nh dung con
người là tiểu-vũ trụ, có cùng một tính
quy luật, tính tỉ lệ như đại vũ
trụ: kết hợp giữa Aristoteles và Platon.
- gắn
liền lư luận nghệ
thuật với lư luận về nhận thức: tái
phát hiện sự tŕnh bày theo phối
cảnh trong hội họa Phục Hưng.
- Trung
đại: hiện tượng là sự diễn
đạt Ư niệm trong chất liệu.
- Phục
Hưng (tk:15-16): hiện tượng là thực thể tự tồn (ảnh
hưởng của thuyết duy danh).
- Chuẩn
mực của thực tại không phải là Ư niệm
nữa mà là tính quy luật và chân lư thể hiện ngay nơi hiện
tượng (hay tính tất yếu: Leonardo de Vinci): Hiện
tượng có phẩm giá mới.
- Phát
hiện “phối cảnh trung
tâm” (Brunelleschi) và không gian vô tận, thống nhất, có
thể cấu tạo được của quang học: khách quan hóa cái chủ quan,
chuyển không gian tâm sinh lư vào không gian toán học, vừa
chủ quan hóa thế giới đối tượng
(mọi đối tượng phải phù hợp với
nhăn quan của người quan sát: “điểm nh́n”.
- Hệ
quả bản thể học và nhận thức luận
của “phối cảnh trung
tâm”:
- sự
vật được nghệ thuật diễn tả không
tự tồn, bị tương đối hóa bởi phối
cảnh.
- chỉ
được diễn tả trong quan hệ với
những hiện hữu khác và phụ thuộc vào chủ
thể tri giác.
→ dẫn đến
vấn đề nhận thức luận về quan hệ
chủ thể-khách thể
hay sự phụ thuộc của nhận thức vào các
điều kiện chủ quan của sự nhận
thức. (→ Descartes, Kant…).
- Sự
đa giá (Polyvalence) về ư nghĩa của kư hiệu và
biểu tượng.
- Mô
phỏng tự nhiên phải phục tùng việc hiện thực hóa tự nhiên,
v́ nghệ sĩ phải vượt lên trên cả Tự
nhiên bằng tác phẩm nghệ thuật.
→ Khi mô phỏng, phải
chọn lựa. Lư tưởng hóa tự nhiên nhưng không
vi phạm tự nhiên.
- Lần
đầu tiên trong lịch sử mỹ học, có quan
niệm về cái Đẹp
nghệ thuật như là mục tiêu hàng đầu của sáng tạo nghệ
thuật.
- Diễn
tả Ư niệm về cái
Đẹp (Platon) không đơn thuần bằng trực quan chiêm nghiệm
như trước mà dựa vào kinh nghiệm nghiên cứu
khoa học: Ư niệm cái
Đẹp trở thành cái phổ quát tương đối.
- Ư
niệm cái Đẹp không phải tiên nghiệm lẫn hậu
nghiệm: không thể suy tưởng về nó mà không có
kinh nghiệm, nhưng nó không phải chỉ bắt
nguồn từ kinh nghiệm: một cái phổ biến cảm tính (Aristoteles). (“trí
tưởng tượng”, một quan năng chỉ
được nhận diện vào thế kỷ 18).
- Ư
niệm là một hiện thực được tăng
cường; ư đồ của nó là sự hoàn thiện “cái
Tự nhiên” bằng nghệ thuật: sự hoàn thiện
ấy là sáng tạo riêng
của người nghệ sĩ.
1.4.2. Marsilio Ficino (1433-1499)
- Alberti
cải tạo “Ư niệm” của Platon theo hướng
Aristoteles.
- Ficino
(phục hồi một số nét của Platon-mới) xem ư
nghĩa và chức năng của Nghệ thuật ở
năng lực hướng đến Ư niệm và cái
Đẹp tuyệt đối.
- Khi
tạo h́nh thức cho chất liệu tự nhiên, nghệ
sĩ nâng chất liệu hữu thể học của
chất liệu, làm cho nó có thể là biểu hiện
của Ư niệm.
- Hoạt
động sáng tạo nghệ thuật, tuy phái sinh, nhưng
vẫn “theo h́nh ảnh của Thiên chúa”: Homo quidam Deus, Deus in terra (Con người là Thiên chúa
theo một cách nào đó; Thiên chúa trên mặt đất): “artifex divinus”: “nghệ sĩ
thần thánh”.
- Nghệ
thuật không chỉ mô
phỏng tự nhiên (Platon) mà c̣n hoàn thiện nó (Aristoteles). Bản thân Tự nhiên
được hiểu như là một nghệ thuật
tổ chức chất liệu phù hợp với Logoi (các Ư niệm). Các h́nh
thức thuần lư ấy là viae
rationes (“những Ư niệm sống động”): con
người chỉ mô phỏng một hoạt động (phương pháp) chứ không
mô phỏng sản phẩm
của Tự nhiên.
- So
với Tự nhiên, nghệ thuật là cấp độ cao
hơn của sự-tự phản tư của Tinh
thần: nó hiểu những ǵ vốn chỉ hiện thân
một cách trực tiếp
trong Tự nhiên và hiện thực hóa một cách hoàn
chỉnh.
→ Đề án lư tưởng hóa giới
Tự nhiên bằng nghệ thuật (Raphael).
- làm
hồi sinh thuyết Platon trong h́nh thức của thuyết
Platon-mới.
→ lần đầu tiên,
cái Đẹp và nghệ thuật hợp nhất một
cách có hệ thống và đặt cái Đẹp trong quan
hệ trực tiếp
với Chân lư, kéo dài đến thế kỷ 19,
trước khi phai tàn trước các xu hướng thực chứng.
II.
MỸ HỌC NHƯ MỘT MÔN HỌC ĐỘC LẬP?
(DESCARTES, LEIBNIZ)
II.1:
Descartes:
-
Việc tổ chức h́nh
ảnh theo “phối cảnh
trung tâm” của thời Phục Hưng tương
ứng với “cái Tôi tư duy”
của Descartes như là điểm quy chiếu của
hệ thống tọa độ.
- Descartes
tuyệt đối hóa quan niệm thuần lư về
nhận thức dẫn đến:
- sự
xa lạ của con người với thế giới tri
giác tự nhiên.
- đánh
mất thực tại.
- và
phân ly giữa quan hệ thuần lư và quan hệ cảm
tính-cảm xúc với thực tại.
- Lư
luận triết học về cái Đẹp và Nghệ
thuật phải đặt
lại cơ sở mới, bao lâu c̣n giả định
sự thân thuộc giữa cái Đẹp / Nghệ
thuật với nhận thức.
- Trước
việc nhận thức toán học-khoa học
được tuyệt đối hóa, lư luận mỹ
học phải chọn giữa hai con đường:
- Con đường thứ nhất:
biến lư tính và quy luật thành nguyên tắc tối cao
cả cho sáng tạo nghệ thuật và phán đoán thẩm
mỹ. Đó là con đường của “chủ nghĩa cổ điển” Pháp
(đại biểu điển h́nh là Nicolas Boileau (1636-1711) (trong L’art Poétique, 1674):
- có
những quy luật vĩnh hằng dựa trên lư tính cho thi
ca mà mẫu mực là các nhà thơ kinh điển cổ
đại, nhất là Horaz.
- Nghệ
thuật cổ đại không chỉ là mẫu mực
như quan niệm của thời Phục Hưng, mà c̣n là
mẫu mực cho việc thực hiện những quy
phạm vĩnh hằng của lư tính con người (“bon
sens”).
- Nhiệm
vụ của nghệ thuật là mô phỏng Tự nhiên. V́
lư tính hướng đến nhận thức chân lư, nên
nghệ thuật được lư tính hướng dẫn
đồng nghĩa với việc tŕnh bày chân lư trong cái
Đẹp.
- Con đường thứ hai:
xem việc xác định hiện tượng và thái
độ thẩm mỹ là tuyệt đối khác biệt
với tính lư tính nghiêm ngặt: mỹ học chủ quan
theo nghĩa duy cảm (Emotivism).
Như
sẽ thấy, Alexander Gottlieb Baumgarten t́m con
đường dung ḥa: khẳng định một sự nhận thức cảm tính
độc lập, đồng thời vẫn có yêu sách
nhận thức bằng sự
loại suy (Analogie) với nhận thức thuần lư.
- Bản
thân triết học Descartes
(thuyết nhị nguyên về hai bản thể: res cogitans
và res extensa) thiếu một sự trung giới giữa
thế giới cảm tính
và thế giới khả
niệm, dẫn đến thù địch với mỹ
học, v́ lư thuyết về cái Đẹp và nghệ
thuật làm việc với sự gắn liền giữa cái cảm tính và cái có ư nghĩa.
II. 2: Leibniz (1646-1716)
- điều
chỉnh lại thuyết duy lư và quan niệm về bản
thể của Descartes (phi-cá thể hóa và thuần túy
định lượng).
- Bản
chất của sự vật không phải là đại lượng thuần
túy mà là Lực.
- Những
bản thể đúng thật là những “trung tâm lực”, gọi là những Đơn tử (Monaden).
- Đơn
tử là thực thể có năng lực hành động và
có ư thức ở nhiều cấp độ: những
Đơn tử ngủ yên
– những đơn tử cảm
thụ và những đơn tử tự-ư thức: sự đa tạp không c̣n định lượng mà định tính.
- Lư
tưởng thẩm mỹ và nghệ thuật của
Leibniz là của Barock: sự
hài ḥa sống động.
- Cái
Đẹp xuất phát từ toàn bộ hệ thống
vũ trụ: sức mạnh sáng tạo của con
người được bảo đảm bởi
sự gần gũi và tương đồng với tinh
thần của Thiên Chúa, do đó, không chỉ tri giác mà c̣n
tạo ra cái giống như thế.
→ mô phỏng việc làm
của Thiên Chúa (“ce que Dieu fait”) chứ không phải mô
phỏng những thành tựu đă hoàn tất.
-
Bốn cấp độ
nhận thức:
- cái
biết không rơ ràng và không sáng sủa.
- cái
biết rơ ràng nhưng không sáng sủa: có thể phân
biệt và nhận diện lại nhưng không định
nghĩa và phân tích bằng khái niệm, chỉ cảm nhận. Đây chính là
lĩnh vực của nghệ thuật: tạo nên những
biểu tượng giá trị (hài ḷng, không hài ḷng) nhưng
không xử lư bằng khái niệm.
- cái
biết rơ ràng và sáng sủa: tiêu chuẩn lôgíc
của sự phân tích một biểu tượng: giải
thích hay định nghĩa cái được biết.
- cái
biết trực quan toàn vẹn:
chỉ thuộc về Thiên Chúa hay Đơn tử tối cao.
- Học
thuyết về các cấp độ nhận thức của
Leibniz là cơ sở quan trọng cho mỹ học của
Baumgarten sau này, nhưng c̣n khá
hàm hồ:
- một
mặt, bảo đảm cương vị “nhận
thức” cho kinh nghiệm và phán đoán thẩm mỹ.
- mặt
khác, xem h́nh thức nhận thức này là không độc
lập và không riêng biệt.
- Baumgarten:
mỹ học là nhận thức cảm tính độc lập, song hành với nhận thức
lư tính: “analogon rationis”: tính
quy luật của cảm
năng con người → đặt cơ sở cho
một môn Mỹ học độc
lập.
III.
MỸ HỌC NHƯ LÀ KHOA HỌC VỀ NHẬN THỨC CẢM
TÍNH (BAUMGARTEN)
- Alexander Gottlieb Baumgarten
(1714-1762), học tṛ của Christian Wolff (1767-1754),
được Kant khen là “nhà phân tích sắc bén”, Herder
(1744-1803) gọi là “Aristoteles đích thực của thời
đại chúng ta”, khơi mào cho “tính
nhân văn mới” (“neue Humanität”), người trực tiếp
khai sinh môn Mỹ học
độc lập.
- vượt khỏi giác tính (Verstand
/ Understanding / entendement) phiến diện, xem con người
trong tính toàn thể của
nó.
III.1. – Lần đầu tiên nêu cả ba vấn đề của lư
luận mỹ học của thời cận đại:
- Lư thuyết về nghệ thuật
- Siêu h́nh học về cái Đẹp
- Nhận thức luận về cảm
năng
Mới mẻ: gắn liền hai vấn đề
trước (của thời Phục Hưng) với
nhận thức luận về cảm
năng: mỹ học không chỉ là lư thuyết về
nghệ thuật hay cái Đẹp mà như là “khoa học về
nhận thức cảm tính”.
- khác
với Leibniz: - những biểu tượng “không rơ ràng,
không sáng sủa” có thể mạnh hơn những biểu
tượng rơ ràng, sáng sủa khi chúng phong phú hơn về
đặc điểm.
- Leibniz
khẳng định một sự liên tục của
đời sống biểu tượng, Baumgarten nhấn
mạnh sự độc
lập của nhận thức cảm tính.
- Cái Đẹp được
định nghĩa là nhờ nó là sự hoàn thiện của nhận thức cảm tính.
- Trong
nhận thức lôgíc hay khái niệm: cái ǵ đó trở nên
có thể nhận thức được cho trí tuệ,
nhưng bị què quặt về phương diện
cảm thụ.
- V́
thế, Lôgíc của lư trí cần được bổ sung
bằng kích thước nhận thức cảm tính trong
mỹ học. Cả hai mang
lại tổng thể của một nhận thức hoàn bị.
- Nhận
thức cảm tính được tổ chức giống
như nhận thức lư tính (analogon rationis) mới có
được chân lư thẩm
mỹ về phía chủ quan lẫn khách quan.
- Chân
lư siêu h́nh học và chân lư thẩm mỹ giống nhau về
cấu trúc: sự thống nhất, trật tự và
sự hoàn bị.
→ Baumgarten đă biến
những thuộc tính bản
thể học của tồn
tại thành những điều
kiện hiện hữu của cái Đẹp.
- Chân
lư thẩm mỹ không mô phỏng Tự nhiên một cách
trực tiếp (v́ Tự nhiên không phải lúc nào cũng có
trật tự!) mà mô phỏng phương
pháp của toàn bộ Tự nhiên: đa dạng trong
sự thống nhất. Một siêu h́nh học cảm tính bổ sung cho siêu
h́nh học lư tính để
“cứu văn” cái đặc thù, cái cá biệt, cái cảm
tính-cụ thể trong tất cả sự phong phú và không
lặp lại.
- Tuy
nhiên, mỹ học Baumgarten vẫn c̣n dựa vào quan
niệm tiền-phê phán
về nhận thức như là “re-praesentatio” (h́nh dung
bằng biểu tượng, gắn liền với
thực tại). Do đó, chưa có chỗ cho việc
diễn tả cái siêu thực.
IV.
MỸ HỌC KANT: PHẢN TƯ THẨM MỸ NHƯ LÀ
“NHẬN THỨC NÓI CHUNG”
IV.
1. Làm thế nào có được một phán đoán
tổng hợp tiên nghiệm về cái Đẹp?
- Tiếp
thu khái niệm “sở thích” (Geschmack / Taste) từ Baumgarten,
Kant đứng trước thế lưỡng nan của
mọi môn mỹ học triết học:
- “sở
thích” không thể có giá
trị ràng buộc khách quan như phán đoán nhận
thức (toán học, khoa học tự nhiên) (“Ai có sở thích nấy!”).
- nhưng
khi xem cái ǵ là đẹp, ta chờ đợi hay đ̣i
hỏi người khác đồng t́nh; tức có giá
trị ràng buộc trong phán đoán.
Vấn
đề: liệu có thể chứng minh
về mặt triết học
một tính giá trị phổ
biến của phán đoán sở thích? hay: Có những nguyên tắc trong việc
đánh giá cái Đẹp? Nói cách khác: có một “phán đoán tổng hợp tiên
nghiệm” về cái Đẹp?
- “Phê phán năng lực phán đoán
thẩm mỹ”: phân biệt cái
thường nghiệm và cái
thuần lư trong các phán đoán thẩm mỹ để
t́m xem có thể nói ǵ về cái Đẹp một cách tiên nghiệm, do xác lập ranh giới
cho phán đoán thẩm mỹ.
- Nếu
về phía chủ thể (tức: năng lực phán
đoán thẩm mỹ) có thể t́m ra một nguyên tắc tiên nghiệm th́ mới có
thể đặt cơ sở cho Mỹ học như
một khoa học.
IV.2. “Bước ngoặt
Copernic” trong mỹ học Kant
- Bước
ngoặt Copernic trong nhận thức luận: “những điều kiện
để có được kinh nghiệm nói chung cũng
đồng thời là những điều kiện
để có thể có được những đối
tượng của kinh nghiệm” (Phê phán lư tính thuần
túy, B 197).
- Cũng
như thế trong vấn đề cái Đẹp và
nghệ thuật:
- Không
vừa ḷng với mỹ học duy chủ quan, duy sở thích
lẫn với mỹ học duy khách quan, bản thể
học (xem cái Đẹp là thuộc tính của sự
vật).
- So
sánh với Baumgarten
để dễ thấy hơn:
- Baumgarten: cái Đẹp nằm
trong sự vật, tức trong toàn bộ thực tại,
được tái hiện qua năng lực h́nh dung (quan
năng biểu tượng) của con người.
- Kant:
- như
thế phải xuất phát từ sự ḥa điệu và thống
nhất giữa tư duy và tồn tại.
- trong
mỹ học (cũng như trong nhận thức), ta không
làm việc với những vật-tự thân. Trong mỹ
học, ta không đến trực
tiếp với cái Đẹp (bản thể học ngây
thơ) mà thông qua việc phát hiện những điều
kiện chủ quan cho năng lực phán đoán về cái
Đẹp.
- Về
trú sở của phán đoán
thẩm mỹ:
- Baumgarten: ở cả hai
nơi: trong thế giới và trong chủ thể.
- “ordo
plurium in uno” (trật tự của cái Nhiều trong cái
Một): cái Đẹp trùng hợp với chân lư siêu h́nh học và là một thuộc tính của vũ trụ. (Thế giới
là đẹp v́ nó là nhất
thể trong đa thể).
- trong
chủ thể: cả trong hành
vi của tư duy về cái Đẹp hay trong việc
thực hiện tính đa tạp cảm tính bằng analogon rationis.
- Baumgarten
giữ vai tṛ bản lề trung gian trong tư tưởng
mỹ học: cái đẹp vừa là khách quan (trong Bản
thể học cổ truyền, giáo điều), vừa là
chủ quan (trong các chức năng của cảm năng).
- Kant: chỉ có trú sở trong chủ thể qua năng
lực phán đoán thẩm mỹ. Vậy, cần phân tích
(phê phán) cấu trúc của phán
đoán sở thích để minh giải các yêu sách
của nó.
IV.3. Cái Đẹp dưới
ánh sáng của phán đoán thẩm mỹ
(Phân tích
pháp về cái Đẹp và cái Cao cả)
IV.3.1.
Cái Đẹp:
- phân
biệt phán đoán sở thích với phán đoán nhận
thức.
- phán
đoán nhận thức: xác định đối
tượng bằng giác tính và khái niệm → phán đoán
lô gíc (“Mọi hoa hồng đều đẹp”).
- phán
đoán thẩm mỹ: trí tưởng tượng tác
động vào t́nh cảm vui sướng hay không vui
sướng của chủ thể → phán đoán cá
biệt (“Hoa hồng này là
đẹp”).
- v́
thế, c̣n gọi là “phán đoán phản
tư”.
a)
về Chất: “Đẹp
là cái ǵ làm hài ḷng mà không có sự quan tâm đến lợi
ích”
- không
gắn liền với lợi
ích hay sự quan tâm (Interesse):
sự quan tâm là “sự hài ḷng gắn liền với h́nh dung
về sự hiện hữu
của đối tượng” (ví dụ: phán đoán
về cái có ích, cái dễ chịu và cái tốt luân lư).
- ḱm
hăm sự ham muốn và mang lại sự tự do (khác với phán đoán “không tự
do” của luân lư và của cái dễ chịu…; phân biệt
sự “ái mộ” (thẩm
mỹ) với “xu hướng”
(cái dễ chịu) và sự “tôn
trọng” (cái tốt luân lư).
● Về Lượng: “Đẹp
là cái ǵ làm hài ḷng một cách phổ biến mà không có khái
niệm”
- tính
phổ biến chủ quan:
- sự
hài ḥa giữa trí tưởng tượng và giác tính mang
lại tác động vui sướng.
- có
giá trị phổ biến cho con người với tư
cách hữu thể vừa có lư
tính, vừa có cảm
năng.
●
Về Tương quan: “Nhận rơ h́nh thức của tính
mục đích của đối tượng mà không có
sự h́nh dung về một mục đích”
- không
do mục đích chủ quan hướng dẫn →
lợi ích.
- cũng
không do mục đích khách quan hướng dẫn → khái
niệm → chỉ có tính mục đích h́nh thức: tính mục đích của h́nh thức nơi đối
tượng hài ḥa với h́nh
thức của tính mục đích trong “tṛ chơi tự do” của các quan năng nhận
thức trong ta (giác tính và trí tưởng tượng).
- chúng
tương tác nhau, kích hoạt nhau mang lại “sinh lực
sống động” nơi người thưởng
ngoạn.
●
Về T́nh thái (Modality): “Đẹp là cái ǵ được
nhận thức như là đối tượng của
một sự hài ḷng tất yếu mà không có khái niệm”
- không
tất nhiên (apodiktisch)
như phán đoán khái niệm.
- nhưng
tất yếu chủ quan:
giả định “một
cảm quan chung” (sensus communis): một t́nh cảm do tác
động của tṛ chơi tương tác giữa trí
tưởng tượng và giác tính nhưng có thể thông báo phổ biến.
→ “thuyết thuần túy
thẩm mỹ” (“aesthetischer Purismus”).
●
Chung quanh khái niệm “Nhận
thức nói chung” (“Erkenntnis überhaupt”). Tại sao Kant xem khái
niệm này là “ch́a khóa
để Phê phán về sở thích”?
- Phán
đoán nhận thức và phán đoán thẩm mỹ
thuần túy đều cần đến các quan năng
nhận thức giống nhau: giác tính và trí tưởng
tượng, nhưng chúng lại khác nhau ở cấu trúc của phán đoán.
- Khác
với Baumgarten (hai loại
phán đoán giống nhau nhưng chỉ bổ sung nhau), Kant
xem phán đoán thẩm mỹ
phản tư là khác về cấu
trúc với phán đoán nhận thức xác định:
- nơi
phán đoán thẩm mỹ: các biểu tượng
được so sánh với chủ
thể (t́nh cảm vui sướng / không vui
sướng).
- phán
đoán nhận thức: các biểu tượng quan hệ
với đối tượng
nhờ vào khái niệm.
- mục
đích của phán đoán nhận thức là tính đối
tượng khách quan, hạn chế chủ thể vào
một chức năng cấu tạo nhất định:
không có tự do.
- Phán
đoán thẩm mỹ là “tṛ
chơi tự do”, ngăn ngừa việc tuyệt
đối hóa nhận thức chỉ như là sự xác định đối
tượng, cắt cụt những khả thể
nhận thức phong phú của con người trong “kinh nghiệm thẩm mỹ”.
IV.3.2. Cái Cao cả
- Cái
Cao cả là một thách thức đối với trí
tưởng tượng.
- Cái
Đẹp là quan hệ giữa trí tưởng
tượng với giác tính
(Verstand), trong khi cái Cao cả là quan hệ giữa trí
tưởng tượng với lư
tính (Vernunft).
- Phán
đoán thẩm mỹ về cái Cao cả cũng giống
với cái Đẹp: - không có
sự quan tâm đến lợi ích; không dựa vào khái niệm; tính mục đích không có mục
đích; hài ḷng một cách tất
yếu.
- Cái
Cao cả-toán học kêu gọi năng
lực quan niệm của lư tính.
- Cái
Cao cả-năng động kêu gọi năng lực luân lư của lư tính.
-
Phân tích pháp về cái Cao cả
gây ảnh hưởng sâu đậm hơn cả phân tích
pháp về cái Đẹp:
- nếu
không có đạo đức và văn hóa, con người chỉ
biết khiếp sợ chứ không biết đến t́nh
cảm về cái Cao cả.
-
Cuộc thảo luận
hiện nay:
a) - Cái
Đẹp và cái Cao cả đă lỗi thời?
- Cái
Đẹp mất kích thước triết học, trở
thành cái “đèm đẹp”, cái “hấp dẫn”?
- Cái
Cao cả bị chính trị và luân lư lạm dụng?
- Hai
điều c̣n tính thời sự:
- “Quan hệ căng bức”:
giữa Tự nhiên / Tinh thần; Cái Đẹp / cái
Xấu; Khiếp sợ / Thỏa măn; Phản ứng
cảm quan / sự Phản tư.
- Khái
niệm “cao cả” đă mất, nhưng vấn đề
vẫn c̣n: “Di sản của
cái Cao cả là tính phủ định không suy giảm”
(Adorno).
b.
Cái Cao cả có thể “phá
hủy sự tri giác quen thuộc”.
- một
phần của cương lĩnh “văn nghệ tiền
phong”.
- Jean-Francois Lyotard muốn
phục hồi khái niệm “cái Cao cả”: cái Cao cả
như là “sự bất lực
để đi đến tổng hợp”: kinh
nghiệm về cái không-thể diễn tả.
- nhưng
“tư duy hậu-hiện đại” không chấp nhận
sự toàn thắng của lư tính trước sự
giới hạn của năng lực nhận thức và
diễn tả của cảm năng: lư tính không phải “đứng cao” hơn Tự
nhiên như Kant nghĩ, mà thực chất là “tận dụng” Tự nhiên v́ mục đích ích
kỷ.
- điểm
chung với Kant: kinh nghiệm về “sự bất lực”: “sự bất lực
đi đến tổng hợp đề” trong văn
nghệ tiền phong giống với “Ereignis” trong Heidegger: ta có thể nắm bắt và
suy tưởng về cái ǵ
đang diễn ra, nhưng không biết rằng nó đang diễn ra”.
Một số câu hỏi chung
quanh “phán đoán thẩm mỹ thuần túy” của Kant
1. Phân
tích pháp về cái Đẹp chỉ bàn về nghệ thuật ở giác
độ phán đoán thẩm mỹ. Câu hỏi: nghệ
thuật là ǵ? Tại sao con người cần nghệ
thuật chưa được giải đáp thỏa
đáng.
2. Chưa
thấy rơ đặc trưng về nhận thức của nghệ thuật. “Tṛ
chơi” hài ḥa giữa trí tưởng tượng và giác
tính lúc nào cũng như nhau? “Nhận thức nói chung” có mang
lại một nhận thức đặc thù? Tính cá nhân trong phán đoán
thẩm mỹ thuần túy?
3. Đ̣i
hỏi “không có quan tâm”
hiểu theo nghĩa nào? Liệu có thể có nghệ
thuật nếu không “quan tâm” đến sự hiện hữu của tác phẩm nghệ
thuật?
4. Kích thước lịch sử
của phán đoán thẩm mỹ thuần túy? Đối
với ư thức thẩm mỹ đơn thuần chiêm ngưỡng (contemplativ),
mọi nghệ phẩm đẹp của mọi thời
đại đều có tính
đương đại như nhau và có cùng giá trị?
IV.4:
Khái niệm “Nghệ thuật”
nơi Kant và tính hiện đại của nó
- Hai
khái niệm trung tâm:
- tài
năng thiêm bẩm (thiên tài)
- Ư
niệm thẩm mỹ
IV.4.1. Tài năng thiên bẩm
- phân
tích pháp về cái Đẹp chưa làm rơ đặc trưng
của cái Đẹp nghệ
thuật. Đó là công việc của học thuyết về
tài năng thiên bẩm: nguyên tắc sáng tạo mỹ thuật.
- “ingenium” (sự tinh anh): nh́n ra ngay các sự giống nhau giữa nhiều sự vật # “acumen” (sự sắc bén): phân
biệt nhiều đặc điểm trong một sự vật. Wolff: trí
tưởng tượng (imaginatio viva) cùng với ingenium tạo nên tài năng thi
ca (ficilitas fingendi).
- sáng
tạo nghệ thuật được phân biệt với
nhận thức những quy tắc phổ biến, v́ đó
là chân lư gắn liền với hiện tượng cá biệt.
-
Kant:
- “tài
năng thiên bẩm là tố chất bẩm sinh của tâm
thức (ingenium) qua đó Tự nhiên mang lại quy tắc
cho nghệ thuật”.
- “cái
Đẹp là một công việc của thiên tài chứ rơ
ràng không phải của sự bắt chước”.
- bối
cảnh lịch sử: chống lại mỹ học “quy tắc”
của chủ nghĩa cổ điển Pháp.
- sự
dị biệt giữa 2 khái niệm “Tự nhiên như sức mạnh vận động
nhân quả” của lư tính lư thuyết và khái niệm “Tự nhiên như là sức
mạnh kiến tạo” của năng lực phán đoán.
- ngày
nay là thời đại “hoàng hôn của những thiên tài”
(H.G. Gadamer), nhưng tính sáng tạo độc đáo của
nghệ sĩ vẫn được nhấn mạnh.
IV.4.2. “Ư niệm thẩm
mỹ”
- một
khái niệm “mâu thuẫn”: “Ư
niệm” thuộc lư tính; “thẩm
mỹ” thuộc cảm tính.
- “Ư
niệm thẩm mỹ là h́nh dung của trí tưởng tượng
gây nên nhiều điều suy nghĩ, nhưng lại không
có bất kỳ một tư tưởng nhất định
nào có thể tương ứng trọn vẹn với nó cả,
và do đó, không một ngôn ngữ nào có thể hoàn toàn đạt
đến và làm cho nó trở thành dễ hiểu” (PPNLPĐ,
B193).
- “Ư niệm thẩm mỹ” không
trở thành nhận thức v́ nó là một trực quan của
trí tưởng tượng, không một khái niệm nào tương
ứng trọn vẹn với nó cả. “Ư niệm lư tính” không trở thành nhận thức,
v́ nó chứa đựng một khái niệm về cái Siêu-cảm
tính và không một trực quan nào tương ứng với
nó cả.
- “Ư niệm thẩm mỹ”:
mômen của cái không-hữu
hạn:
→ dẫn đến những
sự tạo nghĩa mới
mẻ, và tiến tŕnh tạo
nghĩa đi vào trong bản thân kinh nghiệm thẩm mỹ
chứ không chờ đến kết
quả của sự tạo nghĩa (Humbold: ngôn ngữ
là sử dụng vô hạn
những phương tiện hữu hạn).
- Nghệ
phẩm, về cấu trúc lôgíc, là sự tổng hợp cái
đa tạp một cách vô-khái niệm (cấu trúc vĩ mô của sự diễn
đạt, khác với cấu trúc vi mô, phân tích cái đa tạp bằng khái niệm).
Cấu trúc lôgíc của nghệ phẩm là “suy luận mà
không có khái niệm và phán đoán” (Adorno).
- Bước
ngoặt Copernic của Kant: không nói trực tiếp về
nghệ phẩm và những thuộc tính được
đ̣i hỏi của nó mà về những hiệu quả của sản phẩm nghệ thuật
đối với chủ thể phản tư thẩm mỹ:
kích thích những quan năng nhận thức và sự tương
tác giữa chúng: tính hiện đại của Kant trong các
h́nh thức đương đại: “Happenings”, nghệ
thuật sắp đặt v.v…
V.
NGHỆ THUẬT NHƯ LÀ CHÂN
LƯ CÓ THỂ TRỰC QUAN (HEGEL)
- Nhận
xét của Adorno: “Nói thô
thiển, Hegel và Kant là những người cuối cùng có
thể viết những bộ Đại-Mỹ học mà
không [cần] hiểu ǵ về nghệ thuật cả!”.
(“Aesthetische Theorie, 1970, tr. 495).
- “Đại-Mỹ học”: bản
chất của cái Đẹp và nghệ thuật được
diễn dịch tất yếu từ cấu trúc của
toàn bộ hệ thống triết học.
- “không hiểu ǵ về nghệ
thuật”: nhận định có hệ thống về
nghệ thuật không thông qua kinh nghiệm cảm thụ những
nghệ phẩm cụ thể trong tính cá biệt của
chúng.
V.1.
Nội dung “hệ thống” của thuật ngữ
“Đẹp” trong Hegel:
- Đối
tượng của mỹ học là “triết học về
nghệ thuật”, hay đúng hơn, “triết học về
mỹ thuật”. (Như
Kant, nghệ thuật chỉ được h́nh dung như
là mỹ thuật).
- Không
thể xử lư về
triết học đối với cái Đẹp và nghệ
thuật nếu xét chúng một cách cô lập. Phải đặt
chúng vào trong toàn bộ tri thức
của con người về mọi
đối tượng: “Khái niệm về cái Đẹp
và nghệ thuật là một tiền-giả định được
Hệ thống triết
học mang lại”. (Hegel,
Mỹ học, Dẫn nhập).
- “Tri thức thực sự / tri
thức hiện thực” không dừng lại ở nguyên
tắc mà là “thấu hiểu bằng Khái niệm”
(Be-greifen), tức trở thành tiến tŕnh lịch sử:
tri thức khả hữu trở
thành tri thức hiện
thực: môi trường của nó là Khái niệm theo nghĩa nắm bắt thực sự
đối tượng như một tiến tŕnh hay: có kinh nghiệm với đối
tượng. V́ kinh nghiệm này thay đổi nên cả
Khái niệm cũng vận động. Khái niệm về sự
vật ngày càng phong phú tùy vào cấp độ phát triển
của ư thức.
- Nếu
h́nh thái đúng thật của Chân lư là hệ thống, và hệ
thống này dựa trên Khái niệm, mà Khái niệm là vận
động th́ hệ thống cũng không phải là một
ṭa nhà cố định; trái lại, là một tiến tŕnh
lịch sử của bản thân cái Biết đă trở
thành.
→ áp dụng vào cái Đẹp
và nghệ thuật: vị trí của chúng trong hệ thống
là cái ǵ đă trở thành chứ không thể xác định
một cách phi-lịch sử: chúng có chức năng tương
ứng với cấp
độ nhận thức chân lư.
→ không xác định chúng
một cách nguyên tắc, vượt lên trên kinh nghiệm như
trong triết học siêu nghiệm của Kant mà cần nh́n
vào tính chất lịch sử của hiện tượng
này.
- vậy:
Hệ thống không phải là điều kiện của khả thể mà là điều
kiện của hiện
thực của Tri thức. Hệ thống là tổng thể
tri thức đă trở thành.
Tri thức và Chân lư là tiến tŕnh lịch sử. Hệ thống
ấy gồm các lĩnh vực then chốt của tri thức:
Lôgíc học, Triết học Tự nhiên, Triết học
Tinh thần. Mỹ học là một lĩnh vực của
Triết học Tinh thần; chính xác hơn: một môn học
của Tinh thần tuyệt
đối.
-
Tinh thần?
- là
tiến tŕnh ư thức trong môi trường của lịch
sử, là sự tương tác của chủ thể với
chính ḿnh và với thế giới. (“Bản thể như là
Chủ thể”, không tách rời với tiến tŕnh lịch
sử).
-
Tuyệt đối?
- đó
là cấp độ quan hệ của chủ thể với
đối tượng, trong đó đối tượng không c̣n xa lạ với chủ
thể nữa, mà mang dấu ấn của tính chủ thể.
“Absolut” là thoát ly khỏi sự đối lập Chủ thể
/ Khách thể.
-
Tinh thần không phải là cái
Tuyệt đối; trái lại, cái Tuyệt đối là
Tinh thần:
- cách
hiểu trước (truyền thống): cái Tuyệt đối
là siêu việt, không thể ḥa giải và được thấu
hiểu bởi con người hữu hạn.
- cách
hiểu sau (Hegel): mang lại cho cái Tuyệt đối một
nội dung (đó là toàn bộ tiến tŕnh phát triển của
Tinh thần: đi ra khỏi ḿnh, trung giới bằng cái đối
lập và trở về lại với chính ḿnh (ví dụ
tiêu biểu của Hegel: Kitô giáo. Tuy nhiên, tôn giáo không làm thước
đo cho triết học, trái lại, được đánh
giá từ khái niệm “Tinh thần” của triết học!).
- Cái
Tuyệt đối được hiểu một cách cụ thể giúp ta nhận rơ
vị trí của nghệ thuật.
- Nếu
Nghệ thuật là một cấp độ phát triển của
Tinh thần-tuyệt đối th́ nó là một giai đoạn
phát triển rất cao của sự trung giới hay ḥa giải
giữa Tinh thần với cái khác của nó, v́ “Tinh thần chỉ làm việc với
chính ḿnh trong các nghệ phẩm”.
- Sự
xuất nhượng (Entäuβerung) của Tinh thần trong
cảm giác và cảm năng qua sáng tạo nghệ thuật
chỉ là một sự “tha hóa thành cái cảm tính” mà Tinh thần
có thể “vượt bỏ” bằng cách biến cái cảm
tính thành sự diễn tả chính ḿnh và quay trở lại
với chính ḿnh một cách phong phú và cụ thể hơn từ
sự xuất nhượng này (sẽ diễn ra trong tôn giáo và sau cùng là triết học).
- Vậy,
nghệ phẩm là một sự “phát triển của Khái niệm
từ chính ḿnh”, một cách “nhận thức chính ḿnh trong
cái khác của ḿnh”.
→ trong chừng mực đó,
nghệ phẩm là những h́nh thái ra đời từ Khái
niệm như là mômen của bản thân Khái niệm.
- Như
thế, Hegel đă làm xong một sự diễn dịch có tính h́nh thức, cấu trúc về
các nghệ thuật.
→ ta hiểu tại sao
“triết học về cái Đẹp-Nghệ thuật phải
bắt đầu với Khái
niệm về cái Đẹp-Nghệ thuật”, trong khi thông
thường khái niệm (hiểu như khái niệm phổ
biến, chứa đựng những thuộc tính) chỉ đến
sau khi nghiên cứu đối tượng.
- Nơi
Khái niệm (hiểu theo nghĩa Hegel là việc nắm bắt
sống động trong diễn tŕnh lịch sử), Hegel
phân biệt ba mômen của Khái niệm: phổ biến, đặc
thù, cá biệt.
- Tương
ứng với sự phát triển của ba mômen ấy,
Hegel chia khoa học về cái Đẹp-nghệ thuật
thành:
- phần phổ biến: cách thức
hiện hữu của cái Đẹp-nghệ thuật nói
chung; đó là: lư tưởng thẩm mỹ.
- phần đặc thù: ba h́nh
thức nghệ thuật chủ yếu (tượng trưng,
cổ điển, lăng mạn).
- phần cá biệt: hệ thống
các bộ môn nghệ thuật riêng lẻ.
V.2. Khái niệm “Cái
Đẹp” và “Nghệ thuật” của Hegel
- “Cái
Đẹp tự quy định… như là sự ánh hiện [ra bên ngoài] của Ư niệm”:
- cái
Đẹp không chỉ đẹp trong quan hệ với chủ
thể phán đoán.
- cái
Đẹp có sự biểu
lộ (Manifestation) khách quan của chính ḿnh trong diễn
tŕnh phát triển của bản thân Ư niệm.
- Sự
ánh hiện cảm tính là một chặng trong diễn tŕnh lịch
sử của Ư niệm (hay: trong sự trở thành của
Chân lư của mọi hiện thực), trong đó hiện thực
được lĩnh hội trực
tiếp, tức được
trực quan (= “splendor veritatis” của thời Trung Đại).
- “Nghệ
thuật” được xác định rơ hơn so với
Kant:
-
Kant:
- cái
Đẹp-tự nhiên hơn hẳn cái Đẹp-nghệ
thuật ở một số chức năng, nhất là tính
“không quan tâm đến lợi ích”.
- chỉ
có “Ư niệm thẩm mỹ”
là đặc trưng và chức năng riêng biệt của
cái Đẹp-nghệ thuật.
-
Hegel:
- nghệ
thuật là một h́nh thức của việc chiếm lĩnh
thế giới một cách tự giác bằng tiến tŕnh diễn đạt thế giới.
Mỹ học Hegel thuộc loại h́nh Mỹ học diễn đạt (Darstellungs-aesthetik /
esthetics of expression).
- con
người – là Tinh thần – không thỏa măn với hiện
hữu tự nhiên của ḿnh và sự vật, mà tái tạo lần thứ hai để
chiếm lĩnh bằng ư thức: biến sự xa lạ
của tồn tại-tự ḿnh thành sự quen thuộc của
tồn tại-cho-ḿnh.
- Lao
động là “ham muốn được ḱm hăm”. Nghệ
thuật xây dựng trên cấp độ ấy: ḱm hăm tính
chủ thể tuyệt đối để chấp nhận
tính khách quan.
- Sau
lao động và nghệ thuật, ngôn ngữ sẽ là cấp độ cao hơn
trong “tồn tại-cho-ḿnh” của Tinh thần.
→ Nghệ thuật là cách
thức đưa Chân lư vào trong kinh nghiệm, v́ nó tạo
ra Khái niệm có thể
trực quan được (= Heidegger: “sự tự thiết
định của Chân lư trong nghệ phẩm” / Xem: “Nguồn gốc của tác
phẩm nghệ thuật”).
- Trở
lại với định nghĩa: nghệ thuật là một cấp độ của
Tinh thần-tuyệt đối:
- trong
sáng tạo nghệ thuật, Tinh thần đạt tới
việc tháo bỏ sự đối lập giữa chủ
thể / khách thể.
- trong
những thành phẩm của ḿnh, Tinh thần không trải
nghiệm những đối tượng xa lạ, mà trực quan chính ḿnh.
- chất
liệu cảm tính cũng không c̣n là cái tồn tại khác của Tinh thần mà như
là tồn
tại-được-thiết định của bản
thân Tinh thần. Chất liệu không tồn tại tự-ḿnh
mà cho Tinh thần.
→ quan hệ gần gũi
về cấu trúc với Ngôn
ngữ
- do
đó, nghệ thuật có thể được vượt bỏ bởi Ngôn ngữ:
- trong
sự khải thị bằng
ngôn ngữ của Tôn giáo.
- rồi
Tôn giáo được vượt bỏ trong Khái niệm triết học.
[ Đề
cương chưa thể đi sâu vào 3 h́nh thức nghệ
thuật đặc thù và các bộ môn nghệ thuật cá biệt,
cùng với quan niệm của Hegel về sự “cáo chung” của
nghệ thuật].
VI.
NGHỆ THUẬT NHƯ LÀ
“CHÂN LƯ TỰ-THIẾT ĐỊNH-TRONG-TÁC PHẨM” (HEIDEGGER)
VI.
Câu hỏi về “nghĩa” của
Tồn tại như là điều kiện để nắm
bắt kiểu tồn tại (Seinweise) của tác phẩm
nghệ thuật
- Heidegger
không triển khai một Mỹ
học triết học như một chuyên ngành (cũng
không có một đạo đức học, triết học
về ngôn ngữ hay nhân loại học…) mà ông gọi là các
“hữu thể học khu vực”, v́ ư nghĩa của chúng
chỉ được kiến tạo trong khuôn khổ câu hỏi
về Tồn tại và, qua đó, về chân lư nói chung.
- Quan
niệm của ông về cái Đẹp và nghệ thuật là
bộ phận của “suy tư về Tồn tại”, tức:
trong tính hệ thống nội tại của tư duy này với
mọi chặng đường phát triển của nó.
- Có
nhiều cách tiếp cận câu hỏi về Tồn tại.
Người ta thường chia sự phát triển tư tưởng
Heidegger thành hai thời kỳ. Thời kỳ sau (“khúc quanh”) đánh dấu bằng
luận văn “Nguồn
gốc của tác phẩm nghệ thuật” / Der Ursprung des
Kunstwerks (1936, mở rộng năm 1950). (Có thể kể
thêm 2 luận văn: - “Xây
dựng, Ở, Suy tư” (1951); - “Nghệ thuật và không gian” (1969)).
- “Khúc
quanh” được hiểu như bước ngoặt từ
“khai quang” (Lichtung) Dasein sang khai quang Tồn tại (Sein),
hoặc: từ Hữu thể
học về Dasein hay Hữu
thể học nền tảng sang suy tư về Tồn
tại:
- khởi
điểm của tư duy không c̣n là kiểu tồn tại của con người, mà
là Chân lư của Tồn tại; Chân lư này thể hiện nhiều
kiểu tồn tại, trong
đó có kiểu tồn tại
của nghệ thuật.
- tác
phẩm nghệ thuật là hệ h́nh (paradigmatic) cho việc:
sự khai mở (Entbergung) ư
nghĩa của Tồn tại lúc nào cũng đồng thời
là một sự che giấu
(Verbergen).
- kinh
nghiệm về tính không
thể tát cạn ư nghĩa Tồn tại thể hiện
rơ nơi nghệ phẩm và từ đó, chuyển tính chất
này sang cho quan niệm về một lịch sử của
Chân lư.
- Trước
“khúc quanh”, Heidegger xuất phát từ chỗ cho rằng sự
“lăng quên Tồn tại” của Siêu h́nh học cổ truyền
có thể vượt bỏ bằng cách tŕnh bày và nghiên cứu
về nó. Bây giờ, ông thấy: Chân lư thể hiện theo
kiểu: mọi sự “khai quang” của Tồn tại đều
gắn liền với sự che
giấu, tức, với sự
lăng quên Tồn tại, trong đó tính chất thời gian của Tồn tại
không được suy tưởng đầy đủ.
- Otto
Pöggeler chia tư tưởng Heidegger làm ba giai đoạn:
- câu
hỏi về Tồn tại và Thời gian, hay về nghĩa
của Tồn tại;
- câu
hỏi về Chân lư của Tồn tại hay về Chân lư
như là lịch sử;
- câu
hỏi về sự “khai quang” (Lichtung).
- Bên
cạnh việc “đặt vấn đề” về nghệ
thuật, Heidegger đánh giá cao kinh
nghiệm về nghệ thuật, nhất là với thi
ca (thơ Hölderlin):
- làm
thơ và suy tưởng không c̣n là các nỗ lực đi
t́m chân lư khác nhau.
- cả
hai đều là “Lời dự
phóng”, một khi thoát khỏi ngôn ngữ khẳng định
của Siêu h́nh học.
- Hölderlin:
“Đầy cống hiến, nhưng
con người sống trên mặt đất này một
cách thi sĩ”: không có nghĩa rời bỏ khoa học để
đi vào thi ca mà nhấn mạnh tính chất “sáng tạo thế
giới” của ngôn ngữ.
- Tư
duy không thể dừng lại ở việc t́m ra mô h́nh để
sắp xếp và thống trị cái đang tồn tại,
mà c̣n muốn t́m một Ngôn ngữ cho Chân lư của Tồn
tại, giống như thi sĩ t́m ngôn ngữ sáng tạo.
- Phê
phán Siêu h́nh học cổ truyền (trong Luận văn về nguồn gốc của tác phẩm
nghệ thuật) là nhằm dẫn đến một sự
thay đổi trong quan niệm
về nghệ thuật, bởi lâu nay nó hoàn toàn bị những
h́nh dung của Siêu h́nh học thống trị.
- Siêu
h́nh học hiểu Tồn tại của cái tồn tại
một cách phiến diện theo nghĩa của Bản thể (Ousia): như là
sự có mặt thường
trực của một bản chất mà lúc nào ta cũng
có thể quay lại. Một Tồn tại được
hiểu như sự hiện
diện chỉ khẳng định một kích thước
của Thời gian cho Tồn tại, đó là Hiện tại, hay đúng hơn,
Hiện tại được cố định hóa, hữu
thể hóa. Siêu h́nh học Tây phương, ngay từ đầu,
đă xua đuổi thời
tính khi xác định Tồn tại. Tính chất “thời
gian” của Tồn tại bị hụt hẫng và gây nên việc
“lăng quên Tồn tại”.
- Câu
hỏi về nghĩa của Tồn tại không thể được
đặt ra và trả lời một cách trực tiếp mà trước hết phải đánh thức trở lại
“một nỗ lực hiểu nghĩa của câu hỏi
này”.
- Trong
Dẫn nhập “Tồn tại
và Thời gian”, Heidegger nêu ba định kiến thâm căn
cố đế về Tồn tại, cản trở câu hỏi
về nghĩa của nó:
- “Tồn
tại” như là khái niệm “phổ biến nhất”. Nhưng
tính phổ biến này không giống như của “Loài” bao
hàm trong nó nhiều “Giống”. Khái niệm tưởng là rơ
ràng nhất, thực ra là “tối tăm nhất”.
- V́
quá phổ biến nên khó định nghĩa khái niệm “tồn
tại”. Đúng thế, nhưng việc khó định nghĩa
càng thôi thúc phải tra hỏi về nghĩa của nó.
- “Tồn
tại” là khái niệm quá hiển nhiên. Ai cũng hiểu:
“Trời [th́] xanh”, “Tôi [th́] mệt”… Nhưng, “vừa hiển
nhiên vừa tối tăm, nên càng cần phải “ôn lại”
câu hỏi”.
- Vậy,
câu hỏi về Tồn tại của triết học dựa
trên một sự hiểu về Tồn tại theo cách tiền-triết
học, tiền-lư luận, luôn gắn liền với Dasein (kiểu tồn tại của
con người). Triết học “triệt để hóa việc
hiểu tiền-hữu thể học ấy”.
- Việc
“triệt để hóa” được tiến hành bằng
“Hữu thể học nền tảng” làm cơ sở cho mọi
“hữu thể học khu vực”, với tư cách là “triết
học siêu nghiệm” (transzendental: câu hỏi về điều
kiện khả thể).
- Trong
“Tồn tại và Thời gian”,
kiểu tồn tại của con người được
xác định như là “Dasein”, và bản chất của Dasein là hiện hữu (Existenz). (“Bản chất” ở đây hiểu như là động từ: tồn tại
theo kiểu nào một cách đúng thật?).
- Hữu
thể học về Dasein (= hữu thể học nền
tảng = phân tích về phổ sinh / Existentialanalyse) đặt
câu hỏi quen thuộc của nhân học triết học
“Con người là ǵ?” thành vấn đề. Câu hỏi ấy
có cùng ngữ pháp với câu hỏi về sự vật:
“Cái cây là ǵ?”, tức so sánh sự vật với những
loài khác và trả lời bằng cách xác định sự dị
biệt đặc trưng. V́ thế, sinh vật học thường
giải thích con người bằng cách so sánh với con vật.
- Quên
rằng: chữ “Là” trong câu
hỏi “Con người là ǵ?” không thể xem như chữ “là” của những đối
tượng. Con người hỏi về chữ “là” là hỏi về chính ḿnh chứ
không phải về một đối tượng, tức
hỏi về nghĩa của
cái tồn tại hay của thế giới nói chung. Vấn
đề là phải giải phóng con người khỏi mọi
vật tính hay đối tượng tính và cho thấy con
người là một “hữu thể” có thể tự hỏi
về chính ḿnh.
- Kiểu
tồn tại luôn đi liền với việc hiểu Tồn
tại như thế là Da-sein.
“Sein” (tồn tại) ở đây không phải là “hiện
diện”, “có mặt trong không gian-thời gian”. Trái lại,
việc hiểu Tồn tại của Dasein (con
người) là điều kiện tiên quyết để
xác định đúng sai của mọi phát biểu của
con người. Vậy, rơ ràng ta có cái khởi đầu là
việc “không-che giấu nguyên
thủy của Tồn tại” (aletheia: Chân lư).
- Chính
việc hiểu Tồn tại làm con người khác mọi
vật khác. Con người hiểu Tồn tại không chỉ
có nghĩa lư giải được về ḿnh mà c̣n “quen thuộc” với tất cả những
ǵ liên quan đến sự hiện hữu của ḿnh. Nói
cách khác, trước mọi sự đào tạo lư luận-triết
học, con người đă hiện hữu trong một cái
hiểu tiền-hữu thể học. Heidegger sau này gọi
“Hiện tượng nguyên
thủy” (Urphänomen) ấy là Lichtung
(khai quang). Nó thể hiện trong việc “tồn tại-trong-thế-giới” của con người
nói chung.
- Trong
“Tồn tại và Thời gian”,
Heidegger xác định cấu
trúc cơ bản của Dasein như là Tồn tại-trong-thế-giới. Không có nghĩa con người xuất
hiện trong thế giới như mọi sự vật
khác, trái lại, “trong thế giới” có nghĩa là “quen thuộc
với”, “sống với”… “Tồn tại-trong-thế-giới”
– có nghĩa con người không dửng dưng để lạnh
lùng đặt câu hỏi: “chủ thể làm sao đến được
với khách thể?” theo kiểu triết học truyền
thống. Nó quên mất kiểu
tồn tại của Dasein: vốn luôn đă ở trong một thế giới cùng với những sự vật
khác: quen thuộc với chúng, sử dụng chúng: cái tồn
tại của đồ vật trở thành Zeug: vật dụng. Vậy,
“tồn tại-trong-thế-giới” có nghĩa: thế giới
không đóng kín khiến con người phải bắt một
nhịp cầu, mà vốn đă từng khai mở cho con người một cách nào đó.
Nói cách khác, tồn tại-trong-thế-giới là đi vào những quan hệ, những không
gian ư nghĩa.
- Toàn
bộ những không gian ư nghĩa ấy là thế giới
hiểu như “thế giới quanh ta” (Umwelt). Thế giới
tuy không được tát cạn trong “thế giới quanh
ta”, nhưng cấu trúc của thế giới quanh ta – như
là không gian ư nghĩa – là chỉ báo quan trọng về cấu
trúc của thế giới nói chung. Nó là khởi điểm
để có thể hỏi về nghĩa của thế giới.
Đồng thời, tồn tại-trong-thế-giới rơ
ràng là điều kiện khả thể của nhận thức.
Con người không phải đi vào một thế giới
hoàn toàn xa lạ.
- Các
điều kiện khả thể cho chân lư cũng có giá trị
để nắm bắt kiểu
tồn tại của tác phẩm nghệ thuật. Nghĩa
là: ở đây cũng xuất phát từ một việc hiểu
nghệ thuật từ
trước do ta đă quen thuộc với nhiều loại
tác phẩm “Ta quen thuộc với nghệ phẩm”. Nhưng,
nói như Hegel, “quen thuộc” (bekannt) không đồng nghĩa
với “được nhận thức” (erkannt).
- Không
thể đi từ những nguyên tắc bên trên để
diễn dịch ra tính chất
nghệ thuật và sự tồn
tại-như-là-tác-phẩm của nghệ phẩm. Chỉ
c̣n cách làm rơ dần và hoàn thiện một cái ǵ đă hiểu hay đă biết,
và điều này diễn ra trong cấu trúc vận động
của một ṿng tṛn [thông
diễn]: “Nghệ thuật là ǵ, phải được rút
ra từ tác phẩm. Tác phẩm là ǵ, ta chỉ biết được
từ bản chất của nghệ thuật!”. (“Nguồn gốc của tác phẩm
nghệ thuật”, 1960, tr.8).
- Tác
phẩm không phải chỉ là một sự kết hợp
giữa chất liệu / nội dung và h́nh thức mà bản
thân tác phẩm đặt câu hỏi cho cái được diễn tả trong tác phẩm để
cái này bộc lộ kiểu
tồn tại của nó (ví dụ: đôi giày trong bức
tranh của Van-Gogh). Tác phẩm không phải là bản thân sự kết hợp nội dung /
h́nh thức mà là chân lư về
cái được diễn tả (trong trường hợp
này là đôi giày), tức làm cho bức tranh cất lên tiếng
nói.
- Vậy,
tác phẩm nghệ thuật không chỉ là h́nh ảnh cảm
tính hay sự minh họa một Chân lư, mà đúng hơn là trú sở đích thực của
chân lư.
- Việc
này không diễn ra bằng sự giải thích, quan sát hay mô tả,
tức không phải bằng các tiến tŕnh suy lư mà bằng
cách “bộc lộ đột ngột, tức th́”. Chân lư của
cái được diễn tả không xuất hiện từ
văn cảnh thường ngày của cái được
diễn tả mà trong việc cắt đứt đột
ngột các quan hệ thường ngày và quen thuộc này.
VII.
MỸ HỌC NHƯ LÀ “PHÊ PHÁN
LƯ TÍNH” VÀ CỨU VĂN CÁI KHÔNG-ĐỒNG NHẤT (ADORNO)
VII.1.
Triết học về nghệ thuật
- Giống
như với Hegel, mỹ học của Adorno là triết học
về nghệ thuật. Về phương pháp, nó đi t́m
“cấu h́nh” lịch sử của các mômen tạo nên khái niệm
nghệ thuật. Trước hết, một mômen cấu
thành là sự tự trị.
- Nghệ
thuật có được sự độc lập đối
với các lĩnh vực khác của thực tại. Không phải
bằng sự tự-khẳng định trừu tượng
mà – theo cách nói biện chứng Hegel – bằng tính quy định phủ
định của nó, tức bằng những cái không phải
là nó, hay, - xét về lịch sử - bằng cái mà nó đă
thoát khỏi, chẳng hạn: sự thờ cúng hay ma thuật.
- Đối
với thực tại thường nghiệm, nó giữ được
vị thế độc lập nhờ tính chất hư cấu, hư ảo
(“tính tự-thiết định”) của ḿnh.
- Đối
với các định chế khác (luân lư, pháp quyền, chính
trị…), nó tự khẳng định các quy luật h́nh thức của riêng nó.
- Mô
h́nh tự-quyết ấy của nghệ thuật được
chuyển vào cho tác phẩm
nghệ thuật, mang lại tính chất chủ thể.
Tính tự quyết của nghệ thuật đi ngược
lại bất kỳ yêu sách chiếm hữu nào đối
với nó: dùng nghệ thuật phục vụ cho các mục
đích giáo dục, chính trị-ư hệ, tín ngưỡng hay
hưởng thụ cảm tính trực tiếp.
- Theo
Adorno, tính nhân văn hay tính nhân đạo (Humanität) của
nghệ thuật không nằm trong việc phục vụ, mà
trong sự độc lập, theo nghĩa tự trị của
nó: “Nghệ thuật trở thành nhân văn đúng vào lúc nó
không chịu phục vụ nữa. Tính nhân văn của nó
không tương hợp với bất kỳ hệ tư tưởng
nào về sự phục vụ cho con người. Nó trung
thành với con người chỉ bằng sự “phi-nhân” (Inhumanität) của nó”.
- “Phi-nhân” ở đây có nghĩa:
nghệ thuật không có sứ mệnh khẳng định, tán dương thực trạng
bất toàn của tính nhân văn, mà cảnh tỉnh những
ǵ c̣n khiếm khuyết về tính nhân văn bằng tiềm
lực phê phán của nó.
- Nó
phải có năng lực đả phá những ǵ tưởng
như là “nhân văn”, chẳng hạn bằng: gây sốc,
phá hủy, gây rối v.v…
- Vậy,
sự tự trị là một điều kiện cơ bản
cho ư nghĩa phê phán xă hội của nghệ thuật. Nhưng
đồng thời, chính kiểu tồn tại độc
lập của nghệ thuật lại gây trở ngại
cho vị thế phê phán của nó! Hiện tại, nghệ
thuật đang ở trong t́nh trạng hết sức gay
go. Chính sự giải phóng tất yếu của nó khỏi
các định chế, chính sự tự trị của nó
mang lại tính cách khẳng
định cho kiểu tồn tại của nó. Trong xă hội
bị “lừa mị”, sự khẳng định này lại
sẽ dẫn đến sự vô-chân lư, nếu bản thân
nghệ thuật không chống lại tính chất khẳng định
của chính nó. Nó có phương
tiện để làm điều ấy: h́nh thức của nó luôn chống lại cái hiện tồn đơn
thuần.
- Nghệ
thuật chỉ có thể có năng lực chân lư bằng cách bẻ
găy biện chứng sự tự trị của nó, nghĩa
là: tuy vẫn là tự trị và phân biệt với thực
tại, nhưng luôn quy chiếu đến thực tại
từ nội tâm, mặc dù không tái tạo, phản ánh và mô
phỏng thực tại.
- Sự
tự trị - được hiểu một cách biện
chứng - tiến hành chuyển hóa thực tại, bằng
cách hợp nhất những yếu tố của cái hiện
thực thành những h́nh thái
mới tương ứng với những quy luật
h́nh thức của ḿnh. (Kant:
nghệ thuật tạo ra một giới Tự nhiên thứ hai từ những nhân
tố của Tự nhiên thứ
nhất). Adorno gọi là “Tồn
tại cấp hai” thông qua mômen của h́nh thức. Biến hiện thực thành vô-hiện
thực là tiến tŕnh tự giác và khác hẳn với huyền
thoại.
- Về
sự tự trị của h́nh thức hay thủ pháp, nghệ
thuật có thể sử dụng những kư hiệu từ
thực tại ở bên ngoài-nghệ thuật cho những
chức năng khác. Chẳng hạn, kư hiệu ngôn ngữ không
được dùng để đồng nhất hóa; mômen tạo
nghĩa của ngôn ngữ có thể bị thải hồi,
để làm rơ chức năng phê phán của nghệ thuật.
- Vị
thế biện chứng, hay nói mạnh mẽ hơn, sự
nghịch lư của nghệ thuật là ở tính cách nhân đôi
của nó: vừa như là “tự trị”, và vừa như
là “fait social” (sự kiện xă hội): “Nghệ thuật là
phản đề xă hội
đối với xă hội” (Sđd, tr. 19). Trong khi đó, “nghệ
thuật vị nghệ thuật” tuyệt đối hóa sự
tự trị, có nguy cơ biến nghệ thuật thành
công cụ của ư hệ.
VII.2.
Nghệ thuật trong “Phép biện chứng của khai minh”
- Như
nơi Hegel, triết học nghệ thuật, theo Adorno, có vị
trí hệ thống của nó thông qua triết học về lịch sử.
- Lịch
sử như là lịch sử văn minh đă đạt đến
“tính phủ định hoàn tất”, trong đó con người
vận động trong một xă hội dựa trên sự
thống trị. “Phép biện
chứng của khai minh” (Frankfurt / M, 1969) cho thấy các
chức năng vốn để giải phóng chủ thể
th́ nay đă tha hóa, đối lập lại với chủ
thể; lư tính trở thành lư tính công cụ; thực tại
con người bị xơ cứng thành “thế giới được
quản lư”…
- Chống
lại “giá trị tự thân” của Hệ thống (như
trường hợp thuyết duy tâm Đức), Adorno đưa
ra luận điểm: “Cái toàn
bộ là cái không-đúng thật”: cái toàn bộ của xă
hội tạo nên sự không
thể ḥa giải giữa những yếu tố của
nó.
- Sự
ḥa giải bất khả ấy chỉ có thể được
suy tưởng trong h́nh thức của sự không tưởng (Utopie): sự
không tưởng về một xă hội và một nhận
thức thoát khỏi sự thống trị: “Sự không tưởng
của nhận thức là chứng minh cái không-khái niệm bằng
những khái niệm, nhưng không đánh đồng với
chúng”.
- Một
triết học về nghệ thuật với ư thức đầy
đủ về thời đại không c̣n quảng bá một
quan niệm nghệ thuật chuyên phản ánh hay mô phỏng
cái thực tồn. Yêu sách chân lư của triết học chỉ
c̣n ở tính phủ định của sự phê phán: không
chỉ sự phê phán nội
tại như Hegel, mà phê phán để bảo vệ quyền
chính đáng của cái không-đồng
nhất: Chân lư là khám phá cái
không-đồng nhất. Triết học phải làm nhiệm
vụ nghịch lư: cùng với
khái niệm để chống lại sự phản bội
của khái niệm đối với hiện thực. Đó
là cương lĩnh của “Phép
biện chứng phủ định”.
- Triết
học và nghệ thuật dựa vào nhau: trước sự
lừa mị của thực tại, nghệ thuật chỉ ra cái ǵ có thể là sự
thật, c̣n triết học phơi
bày nó.
VII.3.
Tính chất ngôn ngữ của nghệ thuật
- Adorno
chia sẻ quan điểm của Hegel về tính phi-khái niệm
của nghệ thuật, dù vẫn có sự gần gũi với
“nỗ lực của khái niệm” trong tác phẩm nghệ
thuật. Cả hai cùng nhận ra rằng nghệ thuật đang
ngày càng có ư thức về tính
ngôn ngữ của ḿnh. Hegel xem đó là sự gia tăng
của sự phản tư,
và kết quả sẽ là: nghệ thuật, trong chức năng
chân lư của nó, sẽ được vượt bỏ
trong triết học và văn xuôi khoa học. Trong khi đó,
Adorno tin rằng ngôn ngữ phi-suy lư của nghệ thuật,
về nguyên tắc, không bao giờ có thể được
vượt bỏ trong ngôn ngữ khái niệm. Adorno đề
xướng quan niệm về một ngôn ngữ của điều không thể nói ra
được như là biểu hiện của cái không-đồng nhất.
Nói cách khác, nghệ thuật tiếp thu ư đồ của khái niệm
nhưng t́m cách thực hiện bằng phương tiện
và phương pháp khác: lư tính mô
phỏng (phương pháp suy luận không có khái niệm
và phán đoán).
(đề cương tóm tắt
tŕnh bày ở Khoa Ngữ văn,
Đại học Sư phạm,
Hà Nội, 28.03.09)