ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU:
DỮ QUÂN NHẤT DẠ
THOẠI…
Bùi Văn Nam Sơn
Dữ quân nhất dạ thoại
Thắng độc thập niên thư
“Được hầu
chuyện một đêm, hơn mười năm đọc
sách”, có niềm vui và ân huệ nào thích thú
hơn sự may mắn ấy? Đó là xúc cảm chân thành của
tôi (tất nhiên, không thể chỉ bằng “nhất dạ”
như cách nói bóng bẩy!) khi được đến với
bộ ba công tŕnh:
-
ĐẠI CƯƠNG TRIẾT HỌC
ĐÔNG PHƯƠNG
-
ĐẠI CƯƠNG TRIẾT HỌC
TÂY PHƯƠNG
-
CÁC CHỦ ĐỀ TRIẾT HỌC
của
soạn giả Nguyễn Ước, một nhà nghiên cứu
đang sinh sống ở Canada. Và cũng
thật hạnh phúc cho tôi khi được sẻ chia niềm
vui ấy với bạn đọc yêu triết học gần
xa nhân được Nhà xuất bản Tri thức đề
nghị đọc và viết đôi Lời giới thiệu
cho bộ sách này. Với tất cả sự khiêm tốn
của một người biết rơ sức nặng ngh́n
cân của lịch sử tư tưởng Đông Tây, soạn
giả nêu rơ rằng: “mục đích của sách chỉ là gợi
ư, kích thích và t́m cách gây kinh ngạc cho người muốn
làm quen với triết học hoặc muốn sắp
xếp những kinh nghiệm của ḿnh” (Lời nói đầu cho “Các chủ đề
triết học”). “Gây kinh ngạc”?
Vâng! Hai ông tổ của triết học Tây phương
đều nói như thế. Platon: “trạng thái của bất cứ ai thực
sự yêu sự minh triết đó là trạng thái kinh ngạc; thậm chí không
có một chỗ bắt đầu nào khác của triết
học ngoài trạng thái ấy”. Aristoteles:
“xưa cũng như nay, bắt đầu biết triết
lư là biết kinh ngạc”. Song, đối với người
đọc b́nh thường chúng ta, bắt đầu việc
triết lư là buộc phải gặp gỡ với truyền
thống triết học đă có tuổi thọ mấy
ngh́n năm! Và khi cầm một quyển sách triết học,
ta lại rơi vào một trạng thái “kinh ngạc” khác hẳn
với điều hai vị tổ sư kia
muốn nói: sao lại đặt ra những vấn đề
rắc rối, hóc búa quá thế? Sao lại
tŕnh bày khô khan, trừu tượng, khó hiểu đến
vậy? Có dính líu ǵ đến tôi chăng?
Và hơn hết: có mang lại… “cơm
cháo” ǵ không?
Thưa bạn, ba Lời nói đầu ngắn
gọn mà thâm thúy cho ba tập sách và nhất là cách viết
thật sáng sủa, súc tích và cả lôi cuốn, hấp dẫn
nữa của soạn giả đă giải tỏa cho ta các
băn khoăn ấy. Và ta cũng không quên rằng triết
học tuy đă khởi đầu bằng sự ngạc
nhiên trước sự kỳ vĩ của
vũ trụ, nhưng đồng thời cũng bằng
những “bức xúc” thiết thân. Đó là h́nh ảnh sinh
lăo bệnh tử đầy bi thương, phi lư ở bốn
cửa thành đập vào mắt Thích ca; đó là thảm trạng
phong hóa suy đồi đă dằn vặt Khổng, Lăo, và đó
cũng là nỗi đau khôn xiết của Platon khi tận
mắt chứng kiến cái chết oan khuất của Thầy
ḿnh. Ông không thể hiểu và suốt đời không nguôi
trước câu hỏi tại sao một con người tốt
lành, tử tế như Socrates lại phải bị bức
tử, và v́ thế, dành cả đời ḿnh để đi
t́m một cách tổ chức khác, một trật tự khác
bảo đảm cho một cuộc sống công bằng và
đáng sống. Pascal, Kierkegaard, Nietzsche đến với
triết học từ nỗi sợ hăi hay tuyệt vọng.
Socrate, Descartes và Hume bắt đầu với
sự nghi ngờ. Triết học t́m thấy nguyên liệu
và dưỡng chất ngay trong cuộc đời trần tục này.
Chỉ có điều, để
“sắp xếp lại
những kinh nghiệm của ḿnh”, như cách nói của soạn
giả Nguyễn Ước, triết học phải dùng đến
phương tiện khác: tư duy lư luận. Điều ấy
không có nghĩa rằng trước đây, bước chuyển
từ Mythos (thần thoại) sang Logos (triết học) là
bước chuyển từ tư duy tiền-lư luận đến
tư duy lư luận. Thưa không, ngay cả thần thoại
cũng là một h́nh thức của tư duy lư luận; nó
chỉ trở thành “huyền thoại” dưới ánh sáng của
một h́nh thức khác của tư duy lư luận mà thôi. Bởi nó cũng đă từng là một hệ thống
định hướng toàn diện về nhận thức,
luân lư và cả về ư nghĩa cuộc đời. Nó
không phải được thay thế do bất lực trước
những nhiệm vụ cụ thể nào đó mà chỉ từ
khi câu hỏi về nền tảng, về cơ sở, về
nguyên lư (arché) được đặt ra. Thần
thoại là những câu chuyện của ḷng tin; nó không được
đặt cơ sở và sẽ sụp đổ khi đ̣i
nó phải chứng minh chân lư của ḿnh. Thần thoại
có thể được cải biến, được “cứu
văn”, chẳng hạn bằng tôn giáo, để
có cơ sở chân lư: cơ sở ấy là tiếng nói của
một quyền uy không thể nghi ngờ: Thượng đế
hay một Nguyên lư siêu nhiên nào đó. Thế nhưng,
đó không phải là con đường của triết học,
ít nhất của triết học Tây phương. Triết học không đi t́m một quyền uy tối
thượng mà đi t́m cơ sở, căn cứ; và mọi
yêu sách về chân lư phải được biện minh công
khai trước lư tính, trước logos lư luận. Từ
đó mở ra con đường dẫn đến vô vàn
những hệ thống tư tưởng phức tạp,
những bộ môn khoa học chuyên ngành. Và cũng
v́ thế, nguồn cội lịch sử của các khoa học
nằm trong triết học.
Đi vào rừng rậm ấy,
ta cần một bản đồ, và, tốt hơn biết
bao, nếu có được một người hướng
đạo dễ mến, vừa đồng hành cùng ta trong
t́nh thân ái, vừa có đủ kinh nghiệm và sự thành thạo
để không chỉ giúp ta khỏi lạc lối mà c̣n khuyên
ta thỉnh thoảng nên dừng lại đúng lúc, đúng
chỗ để thưởng thức bao cỏ lạ hoa
thơm. Chúng ta đang may mắn có được một
người bạn đồng hành, hơn thế, một
người hướng đạo có đầy đủ
các đức tính ấy qua Bộ ba công tŕnh thật đáng
quư này.
BVNS
3.2009