NHẬT DIỆN PHẬT,
NGUYỆT DIỆN PHẬT
Bùi Văn Nam Sơn
Mặt
trời có khuôn mặt Phật; mặt trăng có khuôn
mặt Phật / Ngày ngày gặp Phật; Tháng tháng gặp
Phật! “Thông điệp tâm linh” ấy về sự ḥa
hợp giữa trần
cảnh và đạo tâm
đến từ cùng một tác giả của “Thế giới quanh ta” mới
đây (NXB Đà Nẵng, 2006), một tập sách gồm
những bài viết về “thế sự” của một vị
giáo sư chính trị học lăo luyện và sắc sảo từ
Paris. Dưới ng̣i bút tài hoa đặc sắc của tác
giả, “khoa học chính trị” vốn cực kỳ
phức tạp đă trở nên mềm mại và
đầy tính nhân bản của một tác phẩm văn
chương chính trị là nhờ tầm nh́n và tấm ḷng
của một người trí thức mà định
nghĩa về nó đă trở nên nổi tiếng: “trí
thức là người làm những việc chẳng ăn
nhập ǵ đến họ” (s’occupe de ce qui ne le regarde pas”,
J. P. Sartre). “Tại sao họ xớ rớ vào những chuyện
không liên quan ǵ đến họ như vậy? Ấy là tại
v́ họ xớ rớ vào chính chuyện của họ. Chuyện
không phải của họ mà họ thấy là của họ.
Cái thấy đó làm họ trở thành trí thức”.
Nhà
văn Nguyên Ngọc, trong Lời giới thiệu cho tập
sách, đă gọi người trí thức – theo định
nghĩa ấy và như chính tác giả của nó – là “người xớ rớ uyên
thâm”. Vâng, uyên thâm và c̣n sáng suốt, đáng yêu nữa! Tôi
chợt nhớ đến Kant – cũng là một nhà trí
thức bàn về chính trị – khi ông nói: chính trị
học, đạo đức học rút cục không nhằm
tạo ra những nhà đạo đức đi làm chính
trị (xă hội sẽ nghẹt thở trong khuôn
thước và thiện chí chủ quan của họ!) mà lo
vun bồi những nhà chính trị có đạo đức.
V́ họ biết chỗ cần dừng lại (“tri kỳ
sở chỉ” nói như cụ Khổng) và v́ họ
biết nh́n và biết thấu cảm những ǵ rộng
hơn, bền hơn những lợi ích trước
mắt.
Lần
này, quả là có “túc duyên văn tự” khi tôi được
may mắn có mặt khi quyển sách chuẩn bị ra
mắt. Vào một buổi sáng Sài G̣n mát mẻ, chung quanh cốc
cà phê, Anh trao đổi với một số thân hữu
về ư định tập hợp thêm một số bài
viết rải rác trong nhiều thời điểm liên quan
đến nhiều cảm thức của Anh về
đạo Phật và đời sống tâm linh của
người Phật tử thành một tập sách
để bổ sung thêm vào danh mục một số
quyển cùng loại đă in: “Thượng
Đế, Thiên Nhiên, Người, Tôi và Ta” (Triết lư luật và tư
tưởng Phật giáo), NXB TP. HCM, 2000; “Tôn giáo và xă hội hiện đại” (NXB
Thuận Hóa/Phương Nam, 2006); “Nắng và Hoa” (tái bản, NXB Văn Hóa Sài G̣n 2006).
Xin mở ngoặc để cho phép tôi được
gọi tác giả Cao Huy Thuần bằng “Anh” với
tất cả t́nh thân thiết, không chỉ v́ tuổi tác
(Anh từng là bạn học của anh ruột tôi tại
trường Khải Định, Huế) mà nhất là
về độ chín, độ sâu trong suy tư và trải
nghiệm. Ngược lại, Anh không xem tôi như một
đứa em nhỏ mà như một người bạn
vong niên. Một vinh hạnh, nhưng lại buộc ḿnh
phải cố đi tới, phải cố ngước
lên!
Trước
hết về nhan đề tập sách. Anh đă dự tính
cho nó một cái tên: “Nh́n
Trăng”. Nhan đề hay, thơ mộng, gợi tưởng,
nhưng các nhà làm sách e… khó bán, v́ người đọc
thường thích “mua” một cái ǵ “cụ thể”! Th́
chọn “Thấy Phật”
vậy, v́ đó cũng là nhan đề của một bài
trong tập. Anh hoan hỉ chấp nhận đề nghị,
dù ai nấy đều thừa biết anh trân trọng
chữ nghĩa đến mức nào: “học một chữ trong sách th́ thấu rơ một
chữ, nh́n chữ ấy trong sự vật trước
mắt để thấu rơ thêm, và áp dụng chữ ấy
vào đời, sống với nó”. (Tặng người quét
chùa trên núi Túy Vân).
Chữ
c̣n để ta “sống với” chứ đâu phải
chỉ để “đọc”! Như thế, “Nh́n Trăng”
hay “Thấy Phật” đâu có ǵ khác nhau? Một h́nh ảnh quen
thuộc nhưng tuyệt đẹp trong Kinh chợt
hiện trong đầu tôi lúc ấy: “Hoa khai kiến
Phật ngộ vô sinh”. Thật lạ lùng, hoa nở, hoa tàn là
vô thường, sao lại “ngộ” được trong
ấy lẽ vô sinh và c̣n tận mắt thấy
được Phật nữa?
Sau
khi yên tâm trao đứa con tinh thần vào tay một người
có thừa ḷng yêu sách và quư chữ là nhà văn Phan Thị
Vàng Anh, Anh quay lại tôi, bảo: “Nhờ Sơn viết
mấy Lời giới thiệu cho tập sách!”. Trời
ơi, sao tôi dám nhận? Sao tôi có thể viết? Tôi
biết ǵ về Phật học đâu? Anh cười: “Th́
không phải là Phật tử mới nhờ viết!”. Anh dành
cho tôi sự ưu ái v́ ḷng Anh quảng đại, nhưng
vô t́nh (hay hữu ư!) đang bày ra cho tôi một “công án”: chú em
đắm ch́m trong triết học Tây phương đă
lâu, thử một lần “đảo nhăn” xem sao?
Hai
tuần trôi qua, tôi mang “công án” trong đầu. Nặng
nề, bế tắc. Nhận được bản
thảo từ Huế gửi vào, tôi vội vàng cắm cúi
đọc. Con người độc giả quán tính trong
tôi trỗi dậy: thử xem lần này tác giả định
“xớ rớ” vào chuyện ǵ? đặt ra những
những vấn đề nào? Và v.v…Tới khi đọc
mấy câu Anh viết về niềm vui hồn nhiên của
hai mẹ con “nô nức” trẩy hội chùa Hương, bày
nhau niệm “Quan Thế âm bồ tát” để “tha hồ
đi mau” trong thơ Nguyễn Nhược Pháp mới
thấy là ḿnh dại: “Tôi,
tạm gọi là trí thức, quen làm việc với cái
đầu, tôi phải dùng cái đầu để nghĩ
đến Ngài, tôi không gọi Ngài trực chỉ từ tâm
mà kinh qua cái đầu, nếu Ngài đến với tôi
chậm, chính là tại tôi.
Có thể tôi giảng vanh vách
về Ngài, v́ tôi là trí thức. Có thể tôi có cái giật
ḿnh triết lư khi đọc hai chữ “Quán Âm”. Quán là nh́n;
âm là tiếng: có ai nh́n cái tiếng bao giờ đâu?” (Chùa Hương).
Tôi
thở phào nhẹ nhơm! Té ra một người uyên thâm
về Phật pháp như Anh cũng chia sẻ đồng
đẳng với ḿnh về “thân phận” trí thức
phải “dùng cái đầu để suy nghĩ”, dù đôi
lúc cũng trải qua những “cái giật ḿnh triết lư”,
nhưng rồi “cái đầu cứ loay hoay bận bịu
nghĩ về thiêng liêng, thiêng liêng với tôi là hai, làm sao gặp
nhau được?”. Đọc sách Phật học,
gặp những chỗ khó hiểu, ta thường
được cảnh báo và căn dặn: “Học cho
lắm, đọc sách đắm say, có khi thành ra tối.
Phật sờ sờ trước mắt cũng không
thấy. Tâm b́nh dị, dạ chân chất, nh́n đâu
cũng thấy Phật” (Tặng
người quét chùa trên núi Túy Vân). Anh kể chuyện ông
vua rơi mất viên ngọc quư xuống đáy hồ;
người có biệt danh “Thần nhăn” không t́m
được; nhưng người “Thất nhăn” lại
t́m được ngay. Ấy là bài thứ 9 của Tứ
thập nhị chương kinh. “Thất nhăn” lại
hơn “Thần nhăn”, đó là điều không dễ
hiểu. Ư kinh muốn nói ǵ? Anh giảng cho ta: “Tôi không có ư
nhắn người quét chùa trên đỉnh Túy Vân
đừng đọc sách… Chúng ta hàng ngày xin nguyện
thấu rơ kinh tạng. Kinh nằm ngay trong sách chứ
đâu, nhưng kinh cũng nằm trong ḷng và trong cuộc
đời, ngay trước mắt”… “Kinh nằm trong sách”
v́, như Anh khẳng định, “không có ngôn ngữ th́
không có tư tưởng" (Trên
ghế nhà trường); muốn hiểu nó, phải
tập trung cao độ, có khi đến vỡ
đầu, phải bền bỉ, nếu không sẽ
“loạn xà ngầu, tư tưởng không t́m ra
được manh mối, tối om như nhà không đèn”;
việc ấy được gọi là Định. Nhưng, Định
không có nghĩa là cố thủ trong tư tưởng, nhất
là trong ư định, như Matisse vẽ cây: “đầy ắp t́nh, đầy ắp cảnh,
đầu ông c̣n đầy ắp cái ư định vẽ.
Chưa vẽ mà đầu đă bị đóng khung trong ư
định, làm sao bức tranh vọt ra? Phải mở
cửa cho nó! Phải làm trống cái đầu. Cho nên
Matisse chỉ vẽ được cây khi không có ư
định ǵ trước”. (Vẽ cây, vẽ chim). Nghĩa
là, đến một phút giây nào đó, phải biết “để cái thân ngoài cửa,
như các người hồi giáo cất bỏ giày dép khi
vào giáo đường”. Để “trở về lại với cái đầu trống
trơn, cái đầu của đứa bé, cái sơ tâm, cái đầu
chưa hề bị ảnh hưởng về bất
cứ cái ǵ khác. Viết một câu văn cũng vậy,
một câu thôi, không người cầm bút nào nảy ra
được một ư hay, một từ mới, nếu
không vứt bỏ đi hết những ǵ đă
đọc, đă học” (nt).
Thật
thế, “hăy nh́n quả táo trong bức tranh của Cézanne: một
chút ánh sáng trên vỏ trái cây cũng mang cả một linh hồn.
Ngắm những quả táo trong tranh, tưởng chừng
như ḿnh mới thấy quả táo lần đầu!... Cảnh
đó vừa thực, vừa “thực hơn cả thực”.
Thực, như quả táo hàng ngày. Nhưng thực hơn cả
thực, v́ quả táo bỗng có linh hồn”. “Bởi vậy,
thơ hay thường đặt “tuệ” vào câu cuối, dồn tất cả sức
sống vào câu cuối, tuồng như người đọc
được bài thơ dẫn tưởng tượng và
cảm giác phiêu du tận cùng non nước, và khi đi đến
chỗ không đi được nữa th́ cánh cửa bật
ra, cả một rừng hoa mai hiện ra trước mắt”…
“Tận cùng của “định”
là “tuệ”. Giống như
hoa mai nở bừng. Giống như câu cuối của một
bài thơ hay”. (Trên ghế nhà
trường). Câu văn tuyệt diệu, nhưng có lẽ
ta không nên để ḿnh cuốn theo nhịp điệu mê hồn
của… vô vàn những câu như thế trong quyển sách, mà
không lưu ư đầy đủ đến một gịng
trong câu trích dẫn trên kia: “trở
về lại với cái đầu trống trơn, cái
đầu của đứa bé, cái sơ tâm”… “Trở
về lại” chứ đâu phải bắt đầu
và kết thúc bằng “cái đầu trống trơn”! Tôi
không thể ngăn ḿnh nhớ đến một câu hầu
như tương tự trong Kinh Thánh với lời b́nh của
cụ Hegel, một “cái đầu” thuộc loại thượng
thặng trong lịch sử triết học: “Sự hồn
nhiên vô tội trẻ thơ đúng là cái ǵ hấp dẫn
và xúc động, nhưng chỉ trong chừng mực nó gợi
lại cho ta nhớ đến những ǵ đă phải được
tạo ra bởi Tinh thần. Sự hợp nhất ấy,
mà ta có thể nh́n thấy trong trẻ thơ như là sự
hợp nhất tự nhiên, phải là kết quả của
lao động và của sự đào luyện của Tinh
thần. Đức Kitô bảo: … “trừ khi các ngươi
hăy trở thành như trẻ
nhỏ” … v.v… [Kinh Thánh, Mathiơ 18:3]; chứ Ngài không hề bảo rằng ta hăy
cứ phải măi măi là trẻ nhỏ” (Bách khoa thư I,
NXB Tri thức, 2008, tr. 123).
Vâng,
“vấn đề” là ở chỗ đó! Tôi thường nghe
câu chuyện Thiền giữa một thiền sư và một
triết gia. Thiền sư rót trà mời triết gia, cứ
rót măi khiến trà tràn cả ra ngoài. Khi triết gia giật
ḿnh th́ thiền sư bảo: ông cũng giống như tách
trà ấy, đầy quá không rót vào được nữa!
Lời giáo huấn thật thâm thúy, và, nếu tôi là vị
triết gia kia, ắt sẽ đứng dậy đănh lễ
và thú nhận: quả là tôi “bị kết án” phải mang
theo ḿnh toàn bộ gánh nặng của “lao động khái niệm
và sự đào luyện Tinh thần”. “Vứt bỏ hết
những ǵ đă đọc, đă học” là một cách
nói, bởi “tuyệt thánh khí trí” là điều bất khả
thi, có chăng, chỉ xin được chỉ giáo để
chuyển hóa chúng! Trong vô vàn
t́nh ư lắng đọng trong quyển sách, tôi chỉ xin phép
nhặt ra một ư, vừa sức và vừa ư với riêng
ḿnh: sự chuyển hóa. Chuyển
hóa để gánh nặng của bao gạo trên vai trở
thành máu thịt êm đềm nuôi dưỡng xác thân. Chuyển
hóa để “sống trong xă hội, nhưng không dính tục
lụy của xă hội. Từ bỏ hệ lụy, nhưng
không từ bỏ xă hội. Như hoa sen sống trong bùn, nhờ
bùn, nhưng không vướng bùn, chỉ thơm” (A la Hán). Chuyển hóa không hẳn
là thăng hoa, “v́ thăng hoa cũng vẫn c̣n là ḿnh, vẫn
là ḿnh đó thôi”. Khó hơn là quên ḿnh. “Nhưng bước đầu
của việc quên ḿnh không khó, ai mới yêu nhau đều
biết, đều làm: vui với, buồn với, khổ
với. Biết sống với chữ với, tức là đi bước đầu
trong việc quên ḿnh. Thói thường, vui với không khó, v́ tiếng cười vốn dễ
chia sẻ; khổ với
mới khó, v́ mấy ai chung được với nhau một
giọt nước mắt, nhất là một giọt nước
mắt thầm… Ai biết khổ
với người khác, th́ biết yêu nhau là thế nào,
khỏi cần chữ nghĩa, triết lư” (Đám cưới).
“Sống
với”, “khổ với”… cũng là niềm thao thức khôn
nguôi của… bao thế hệ triết gia hiện sinh bên trời
Tây xa lắc! Và cả trên b́nh diện nhận thức nữa
với đầy rẫy những “chữ nghĩa, triết
lư”, chẳng hạn nơi Heidegger, Gadamer với tư duy
thông diễn học hiện đại. Các tôn giáo đều
khuyên ta dẹp bỏ và ngăn ngừa “tà kiến”. Hơn ở
đâu hết, thế kỷ Ánh sáng (c̣n gọi là phong trào
Khai minh) Tây phương phê phán “định kiến”, v́ nó là
trở lực cho tư duy khoa học khách quan, lên án “quyền
uy” v́ nó là kẻ thù của lư tính tự do. Nhưng, Gadamer
kêu gọi ta hăy thận trọng, v́ không khéo, bản thân quan
niệm ấy cũng trở thành một “định kiến
không kém quyền uy”! Ông đề nghị cần phân biệt
giữa “định kiến đúng
nhờ đó chúng ta hiểu,
với định kiến sai,
khiến ta hiểu nhầm, ngộ kiến, ngộ giải.
Việc phân biệt ấy vẫn phải dựa vào “nhận
thức lư tính”, cho dù “nhiệm vụ này không bao giờ có thể
hoàn thành trọn vẹn”. Nhưng lư tính nói ở đây không
phải là một “quan ṭa” đứng bồng bềnh đâu
đấy bên trên “thế giới cuộc sống” mà là một
lư tính có chân đứng vững chắc trong những bối
cảnh lịch sử và xă hội nhất định. Và một
lư tính như thế bao giờ cũng là một lư tính hữu
hạn. Phong trào Khai minh có lư khi chống lại “định
kiến và quyền uy”, v́ “bao lâu quyền uy thế chỗ cho
phán đoán của chính ta, nó là nguồn gốc của những
định kiến”. Nhưng, không nên vơ đũa cả
nắm, v́ quyền uy vẫn có thể là một “nguồn
suối của sự thật”. Bởi, theo ông, “một quyền
uy đúng nghĩa không có ǵ chung với việc đ̣i phải
vâng lời mù quáng; nó không sống bằng sự vâng lời
mà bằng nhận thức.
(Chân lư và Phương pháp,
tr. 284). Một quyền uy dựa trên sự nhận thức
thay v́ sự vâng lời là quyền uy hướng đến những căn cứ
bằng những căn cứ (“mit Gründen an Gründen”), nên ở
đây không có bạo lực trần trụi, mà chỉ có “sự
cưỡng chế mềm của luận cứ tốt hơn”.
Việc thừa nhận một quyền uy như thế là
“biểu hiện của một sự
thức nhận”. Nếu quả vậy th́ cần phải
từ bỏ sự đối lập cứng nhắc giữa
“gánh nặng truyền thống” và sự tự quyết của
lư tính tự do. Vâng, bản thân các truyền thống cũng
cần được hiểu như là một mômen của
Tự do và lịch sử. Chúng không tự tồn mà do con người
tiếp thu, chuyển hóa và đổi mới. V́ thế,
Gadamer cho rằng ta vốn bao giờ cũng đứng bên
trong một truyền thống, và “việc đứng ở
trong đó không phải là một lối hành xử đối
tượng hóa khiến cho những ǵ truyền thống nhắn
bảo với ta cứ bị hiểu như là một cái
ǵ xa lạ”. Ông đề nghị: thay v́ lập trường
“duy phương pháp luận nhận thức” kiểu Cận
đại, ta hăy chọn cách “thay đổi viễn tượng”,
để nơi đó có sự “ḥa
trộn giữa các chân trời”. Khái niệm “chân trời”
- được yêu thích từ Nietzsche, Husserl cho đến
Gadamer - là ẩn dụ về tính hữu hạn, về sự
ràng buộc của tư duy trong một thế đứng
nhất định, nhưng đồng thời chân trời
cũng không cột chặt suy tư của ta như một
định mệnh. Có một
chân trời cũng có nghĩa là có thể mở rộng chân trời ấy. H́nh ảnh đẹp
về một “chân trời di động” nói lên tính cởi
mở của đối thoại, ḷng hân hoan đón nhận
những cách nh́n khác, những không gian ư nghĩa mới, để
hôn phối quá khứ với hiện tại, ta với người
khác, hữu hạn với vô cùng.
Khá
quen với những cuộc tranh biện ác liệt trong triết
học, tôi bỗng thấy thèm được trở về
tắm gội trong ḍng nước trong trẻo, thanh tân, có
thể giúp ḿnh mở rộng được chân trời
suy tưởng. Xin bạn đừng mắc sai lầm của
tôi khi đến với Thấy
Phật bằng tư thế chuẩn bị đương
đầu với một cái ǵ hóc búa (“Hard Fact” nói theo kiểu
Mỹ!). Tôi đọc được đâu đó rằng
nếu ta nh́n con đường suy tưởng (hay con đường
tu hành) như một băi chiến trường th́ chúng ta quả
thực quá yếu đuối, bạc nhược, thấp
hèn, bởi sự tiến bộ (hay tinh tấn) phải lệ
thuộc vào mức độ đất đai chinh phục
của ḿnh và của người khác, đâu c̣n ǵ là sự
giải phóng, sự tự do (hay sự giải thoát, Niết
bàn). Cũng xin đề nghị bạn đừng “dại”
như tôi khi đọc quyển sách một cách vội vàng,
ham hố như nuốt trộng một món ăn ngon, “ngưu
ẩm” một cốc cam lồ. Uổng lắm! Hăy xem nó như
một chuỗi hạt, bắt đầu từ đâu cũng
được, với tất cả sự an tĩnh và ung
dung. Thêm cả sự vui vẻ nữa, v́ tác giả cũng
là một bậc thầy của sự hài hước, một
U mặc đại nhân theo
nghĩa thâm thúy của Ngài Chogyam Trungpa: “cảm thức về
hài hước là sự nh́n thấy hai đối cực của
một hoàn cảnh đúng y như thế, từ một
cái nh́n bay lượn ở trên cao” (Sense of humour means seeing
both poles of a situation as they are, from an aerial point of view). Nh́n từ
đôi cánh chim ưng, nhưng không phải để vồ
chụp, ắt sẽ thấy mọi việc nơi trần
gian này đều đáng cười, đáng thương và
đáng yêu biết mấy.
Sau
cùng, một h́nh ảnh chắc chắn sẽ c̣n đọng
lại lâu dài trong tâm cảnh của tôi khi đọc xong
quyển sách này là h́nh ảnh của nước Bhutan: nhỏ,
nghèo, nhưng dám đề nghị cả thế giới
hăy lấy hạnh phúc làm thước đo phát triển.
Thay v́ đo bằng GDP (Gross Domestic Product / Tổng sản lượng
quốc nội), hăy đo bằng GNH (Gross National Happiness / Tổng
sản lượng hạnh phúc quốc gia), dựa trên bốn
tiêu chuẩn: phát triển đồng đều trong xă hội,
bảo vệ môi trường, bảo vệ và phát huy văn
hóa truyền thống, xây dựng một chính thể có trách
nhiệm. Hăy nghe anh Thuần b́nh luận: “Nếu muốn, Bhutan có thể trở thành như bất
cứ nước nào trên thế giới, nhưng nếu muốn,
không nước nào có thể trở thành Bhutan… Không vội
vă, nên họ tự do. Và tự do là hạnh phúc. Hạnh
phúc chỉ đến từ bên trong. Cảm ơn Bhutan
đă dám sống độc đáo với sự thật ấy”
(Thênh thang trên xứ non cao).
Cảm ơn Anh Thuần đă cho ta biết về Bhutan,
và trên hết, về ước mơ hạnh phúc, mục đích
của mọi mục đích.
BVNS
Phật
Đản, 2009