200 NĂM DARWIN
150 NĂM “NGUỒN GỐC CÁC
LOÀI”
“TIẾN HÓA” NHƯ MỘT SƠ
ĐỒ LƯ GIẢI?
Bùi Văn Nam Sơn
1. “Newton
về lá cỏ”
“Chúng
ta có thể cho phép những vệ tinh, hành tinh, vũ
trụ, thậm chí cả toàn bộ hệ thống những vũ trụ vận
hành theo những định luật tự nhiên, nhưng ta
lại muốn con côn trùng bé bỏng nhất cũng
được sáng tạo tức thời bằng một
hành vi đặc biệt”. Ghi nhận trên đây của
Charles Darwin (12.2.1809-19.04.1882) là sự băn khoăn ban
đầu, là dự phóng nghiên cứu nền tảng
của ông khi bước chân vào con đường khoa
học. Thật thế, vào cuối thế kỷ 18,
đầu thế kỷ 19 ở phương Tây, sau
thắng lợi rực rỡ của mô h́nh cơ giới
luận của Newton về thế giới vật lư,
hầu như chỉ c̣n một lĩnh vực chưa
được lư giải: lĩnh vực sinh học, hay nói
theo ngôn ngữ lúc bấy giờ, lĩnh vực của
những “sinh thể hữu cơ có tổ chức” (trong
đó có cả con người!).
Khi
bàn về lĩnh vực này trong phần 2 của quyển “Phê phán năng lực phán
đoán” (1790), I. Kant viết: “… điều hoàn toàn
chắc chắn là ta không thể nhận thức hoàn
chỉnh chứ đừng nói đến giải thích
được những thực thể có tổ chức lẫn
khả thể nội tại của chúng đơn
thuần dựa theo các nguyên tắc cơ giới của
Tự nhiên; và cũng chắc chắn để dám mạnh
dạn nói rằng thật là phi lư
cho con người chúng ta khi ta ra sức hay hy vọng
sẽ có một Newton khác xuất hiện trong tương
lai có thể làm cho ta hiểu rơ về sự sản sinh dù
chỉ là của một lá cỏ dựa theo các định
luật tự nhiên mà không do một ư đồ nào đă
sắp đặt cả; trái lại, ta buộc phải
dứt khoát phủ nhận năng lực thấu hiểu
này nơi con người”(
).
Kant c̣n viết rất dài, nhưng tựu trung có hai ư chính,
nói lên một thế lưỡng nan:
-
một
mặt, không thể lư giải thế giới sinh vật
một cách đơn thuần cơ giới nếu không
muốn đánh mất tính phức tạp và nhất là tính
kỳ diệu của nó;
-
mặt khác,
mô h́nh lư giải truyền thống theo mục đích
luận khách quan kiểu Aristoteles
hay thần học Trung cổ cũng đă trở nên
bất khả thi: ta không thể chứng minh sự có
mặt của một ư đồ khách quan nơi bản
thân sự vật hoặc của một Đấng
tạo hóa bằng con đường thường
nghiệm - và v́ thế, không thể có một “Newton về
lá cỏ” -. Giải pháp của Kant là: ta cứ nghiên cứu
tối đa về thế giới sinh vật theo con
đường thường nghiệm, đồng
thời cần giả
định về một tính mục đích khách quan nào
đó, nhưng chỉ dựa trên nguyên tắc phê phán
chủ quan của năng
lực phán đoán phản tư của ta mà thôi. Kant phân
biệt giữa năng lực phán đoán xác định và năng lực phán đoán phản tư. Với cái
trước, ta đă có sẵn một cái phổ biến
(chẳng hạn, một định luật), rồi
đi t́m và thâu gồm những dữ kiện cá biệt vào
dưới cái phổ biến ấy để cấu tạo nên nhận
thức. Đó là con đường thông thường
của khoa học tự nhiên. Với cái sau, ta có sẵn
những dữ kiện cá biệt nhưng lại phải
đi t́m cho chúng một cái phổ biến, để hiểu chúng. Nghĩa là
bằng cách giả định
nơi chúng một tính mục đích, nhưng chỉ có giá trị
chủ quan cho ta thôi. Tính
mục đích ấy không có giá trị cấu tạo nên
nhận thức mà chỉ định hướng, cổ
vũ và thúc đẩy nỗ lực nghiên cứu.
Chỉ
hai thế hệ sau Kant, một “Newton về lá cỏ” -
tưởng rằng không thể có được - đă
xuất hiện: Darwin với thuyết tiến hóa,
được phát biểu cô đọng ngay trong nhan
đề tác phẩm chính của ông: “On the origin of species by means of natural selection; or, The
preservation of favoured races in the struggle for life” (1859) / “Về
nguồn gốc các loài qua con đường chọn
lọc tự nhiên, hay sự bảo tồn những
chủng ưu thế trong đấu tranh sinh tồn” mà
chúng ta đang có trong tay qua bản dịch công phu của Trần
Bá Tín. Chưa đi sâu vào nội dung tác phẩm và lịch
sử vấn đề, ta thấy tư tưởng cốt
lơi ở đây là: tiến tŕnh ra đời các giống
loài mới được thúc đẩy bằng sự
biến dị (và rồi sự đột biến trong sự
phát triển lư thuyết về sau. Ở đây, tạm gọi
chung là sự đột biến), đi kèm với một
sự chọn lọc “tự nhiên”. Tác động hỗn
hợp giữa những sự đột biến và sự
chọn lọc tự nhiên cho phép chuyển khái niệm mục
đích luận (Teleologie) cổ truyền thành một tính mục đích (nhưng không
có tác nhân đặt ra mục đích) trong h́nh thức
của sự thích nghi. Như thế, một số nhân
tố của khái niệm mục đích luận cổ
truyền vẫn được tiếp thu, bởi kết
quả của sự chọn lọc tuy không hướng đến
một mục đích, nhưng vẫn tỏ ra có tính-mục đích. Cũng
thế, nhân tố của sự tiến bộ vẫn
được bảo lưu, v́ sự đột biến
tuy có tính ngẫu nhiên và khó nhận ra trong từng
bước cá biệt, nhưng trong mỗi tiến tŕnh
tiến hóa, xét tổng thể và một cách hồi cố
(retrospectiv), cho thấy xu hướng tiến đến
một sự phức tạp cao hơn. Tuy nhiên, mô h́nh lư
giải này về sự ra đời và tiến hóa của
các giống loài là khác về chất với sơ đồ
nhân quả (thường được gọi là sơ đồ
Hempel-Oppenheim, viết tắt HO(
))
lẫn với mô h́nh mục đích luận cổ
truyền. Nó mang h́nh thái của mô h́nh lư giải chức năng, thể
hiện ngay trong nhan đề tóm tắt của tác
phẩm: “Sự chọn
lọc tự nhiên”. Với tiền giả định
về sự xuất hiện của những đột biến
không lường trước được, sự
chọn lọc ấy nhắm đến việc hoàn thành
tốt hơn hoặc kém hơn chức năng đảm
bảo sự sống c̣n và duy tŕ ṇi giống, một
chức năng mà sinh thể hữu cơ được
đột biến luôn phải đáp ứng. Với
tiền-giả định ấy, sơ đồ nhân
quả (sơ đồ HO) không thể áp dụng cho sự
đột biến lẫn tiến tŕnh chọn lọc,
bởi thời điểm xuất hiện và nội dung
của sự đột biến là không thể dự
đoán, cũng như các chức năng nói trên không thể
được nêu một cách đầy đủ và rơ
ràng, nhất là đối với các khả năng lựa
chọn khác. Như thế, so với yêu cầu rất cao
của câu hỏi nhân quả, có thể nói ngay rằng sơ
đồ tiến hóa tỏ ra có năng lực giải
thích yếu hơn, khiêm tốn hơn, thường mang tính
hồi cố hơn là dự báo, nhưng lại rất
sinh động và lư thú như sẽ c̣n bàn đến ở
sau.
Từ
khi công bố tác phẩm vĩ đại này của Darwin,
thuyết tiến hóa đă được thừa nhận
rộng răi trong ngành sinh học, mặc dù từ sau Darwin,
c̣n có nhiều cách tiếp cận mới mẻ, đa
dạng, nhất là về tác động tổng hợp
của sự lựa chọn nội tại và ngoại
tại (chẳng hạn các điều kiện môi
trường và tố chất trong bản thân sinh thể)
hay về mối quan hệ giữa sự tiến hóa vĩ
mô và sự tiến hóa vi mô: quan hệ giữa các
bước nhỏ với các sự nhảy vọt lớn
trong diễn tŕnh tiến hóa.
Song,
học thuyết tiến hóa không chỉ làm đảo
lộn ngành sinh học mà c̣n làm thay đổi sâu sắc
quan niệm của ta về thế giới. Copernic đă
đẩy con người và quả đất từ trung
tâm vũ trụ ra ngoài vùng biên của một trong vô số
thiên hà. Bacon và Galilei đă loại bỏ nguyên nhân mục
đích để du nhập một cách lư giải thuần
túy nhân quả, và, từ đó, cơ giới hóa toàn bộ
thế giới không-thời gian. Ngay cả nguyên tắc phê
phán của lư tính trong h́nh thức của năng lực phán
đoán phản tư vừa nói trên của Kant cũng
chỉ c̣n giá trị “an ủi” và là sự thú nhận công
khai về tính hữu hạn của con người. Nói
một cách triệt để, thế giới đă hoàn
toàn bị tước bỏ hết mọi ư nghĩa tự thân. Từ khi Laplace
trả lời câu hỏi của Napoléon tại sao không
thấy có mặt Thượng đế trong mô h́nh vũ
trụ học của ḿnh rằng: Sire, je n’ai pas besoin de cette hypothèse-là! (Thưa Ngài,
tôi không cần đến giả thuyết ấy!), thuyết
tiến hóa được hiểu như là sự từ
khước và bác bỏ mọi khả thể mang lại
một ư nghĩa “siêu việt” nào đó cho thế giới.
Như
thế, các công tŕnh của Darwin
không đơn thuần là những công tŕnh khoa học. Dù muốn
hay không, chúng đă trở thành cơ sở cho các thế giới quan khác nhau.
Điều ấy không có ǵ lạ: khi một lư thuyết
khoa học không chỉ mô tả những tiến tŕnh lư hóa
mà c̣n có tham vọng giải thích mọi sự sống - từ
một lá cỏ cho đến con người -, nó tất yếu
đă đứng một chân trong triết học và đạo
đức học, hay ít ra, ẩn chứa tiềm năng
cho một thế giới quan.
Thật
thế, hiếm có công tŕnh nào có sức lan tỏa như của
Darwin. Nó thâm
nhập vào triết học, lư thuyết lịch sử, xă hội
học, lịch sử nghệ thuật, dân tộc học,
và tất nhiên, giữ vị trí trung tâm trong sinh học với
nhiều hướng phát triển mới mẻ về sau như
di truyền học, sinh học phân tử hoặc sinh học-xă
hội. Nó gây phân hóa ở bất cứ nơi đâu nó hiện
diện: với người này, nó là đại diện chân
chính cho tinh thần khoa học khai minh: lư giải mọi tiến
tŕnh trong tự nhiên bằng phương pháp khoa học, loại
trừ mọi yếu tố siêu nhiên; với người khác,
nó đồng nghĩa với chủ trương ưu thắng
liệt bại, mạnh được yếu thua, biện
minh cho lập trường tân-tự do, thậm chí cho chiến
tranh, cho chủ nghĩa phát xít, dưới danh hiệu không
mấy đẹp đẽ: “thuyết Darwin xă hội”.
Về
mức độ sôi nổi, gay gắt trong tranh luận, lẫn
các hệ quả chính trị lẫn xă hội của nó, Nguồn gốc các loài của
Darwin có thể
so sánh với Tư Bản của
Karl Marx và sự Thịnh
vượng của các dân tộc của Adam Smith. Một
nhà xuất bản ở Anh gần đây cho ra mắt bộ
sách “Books that Shook the
World”/Những quyển sách làm rung chuyển thế giới,
tác phẩm này thậm chí được xếp ngang hàng với
Kinh Thánh và Kinh Koran!
Bên
cạnh ư nghĩa “thế giới quan” của thuyết tiến
hóa, một đặc điểm khác là việc gắn liền
lư thuyết ấy với tên tuổi của bản thân Darwin. Trong thế kỷ
19, các môn đệ đều thường gắn tên ông với
các công tŕnh của chính ḿnh, tiêu biểu nhất là Asa Gray
(1876) và Alfred Russel Wallace (1889)(
).
Đến tận ngày nay, lư thuyết khoa học 150 tuổi
ấy vẫn c̣n được trích dẫn trong các tạp
chí chuyên ngành, là một điều hiếm có và lạ thường.
Tuy nhiên, việc viện dẫn đến Darwin
không có nghĩa là người ta hiểu giống nhau về
“thông điệp” của Darwin.
Họ thường đề xướng các lập trường
mâu thuẫn nhau, v́ ngay trong tác phẩm của Darwin cũng không thiếu những
chỗ hàm hồ và đa nghĩa. Đối với các tác
phẩm của ḿnh, ông nhiều lần bổ sung các kiến
thức mới, thêm bớt, sửa chữa do tiếp thu
các sự phê b́nh trong mỗi lần tái bản. Quyển Nguồn gốc các loài có tới
sáu ấn bản kể từ lần xuất bản thứ
nhất (1859). Quyển Nguồn
gốc con người (1871) có đến ba phiên bản
chính thức. Một ví dụ nổi bật: trang cuối Ấn
bản I của Nguồn
gốc các loài, Darwin cho rằng mầm mống của sự
sống bắt nguồn từ một số ít, mà cũng
có thể từ một h́nh thức nguyên thủy duy nhất,
tức để mở câu hỏi từ đâu vật chất
vô cơ có được sự sống, th́ ở ấn bản
thứ hai, ông lại đặt nó vào trong tay một “Thượng
đế sáng tạo”. Hai cách viết khác nhau một trời
một vực! V́ thế, hiếm khi các lư giải về Darwin lại hoàn toàn
nhất trí với nhau. Cái gọi là “Darwin
Industry” sản xuất hàng năm vô số sách vở,
tŕnh bày và lư giải thuyết tiến hóa đa dạng và phức
tạp như một chiếc kính vạn hoa. Khuôn khổ một
Lời giới thiệu chỉ cho phép chúng tôi - từ cái
nh́n của một người “ngoại đạo”, không thuộc
chuyên ngành sinh học - đề cập hết sức khái
quát về mấy điểm:
-
Darwin và lịch sử thuyết tiến hóa
-
Một số
nghi vấn chung quanh Darwin:
hiểu như thế nào về thuật ngữ “chọn lọc
tự nhiên” và “đấu tranh sinh tồn”? Darwin là một nhà vô thần? “Chọn
lọc tự nhiên” là một “định luật tự
nhiên”?
-
Các câu hỏi
ấy dẫn đến sự quan tâm chủ yếu của
người viết: việc mở rộng mô h́nh tiến
hóa trong sinh học sang các lĩnh vực hoàn toàn khác: từ
thuyết Darwin
xă hội cho đến “nhận thức luận tiến
hóa”. Như đă nêu trong nhan đề của bài viết, sự
tiến hóa đă trở thành một sơ đồ lư giải vượt ra khỏi
phạm vi nguyên thủy của nó: việc mở rộng ấy
diễn ra như thế nào? Phải chăng sự phê phán sơ
đồ nhân quả là lư do dẫn đến sự tán đồng
khá rộng răi đối với sự mở rộng này?
Và sau cùng, liệu có thể hiểu sơ đồ tiến
hóa như một sơ đồ lư giải mang tính siêu h́nh
học về lịch sử?
2. Darwin
và lịch sử thuyết tiến hóa
Con
đường dài gập ghềnh, gian khổ trong việc
nghiên cứu giới tự nhiên suốt hàng ngàn năm lắng
đọng lại một cách tưởng như dễ
dàng, đơn giản trong các sách giáo khoa hiện đại,
và đă trở thành kho tàng kiến thức phổ thông cho mọi
người. Bản thân Darwin
cũng đă bỏ công sức lần theo dấu chân những
vị tiền bối của thuyết tiến hóa. Trong Ấn
bản lần thứ 6 của quyển sách này (1872), thay cho
Lời tựa là một “Phác thảo
lịch sử về những tiến bộ trong các quan
niệm về nguồn gốc các loài”. Ông kể tên một
loạt người, trong đó có Aristoteles, Johann Wolfgang von
Goethe và Jean-Baptiste de Lamarck (mặc dù ông thú nhận: “thật
xấu hổ là đă chưa bao giờ đọc
Aristoteles!”(
)).
Ta thử lần theo vài dấu chân tiêu biểu:
2.1. Vũ trụ luận
của các triết gia Hy Lạp
-
Trong vũ trụ
luận của các triết gia Hy Lạp đă có những
cách tiếp cận mà nguyên tắc cơ bản rất giống
với thuyết tiến hóa hiện đại: từ ít
thành nhiều; từ cũ thành mới, với mức độ
phát triển cao hơn. Anaximander (611-547 tr. CN) đă nhận
ra một nguồn gốc chung của mọi h́nh thức sự
sống. Thales hiểu tồn tại và biến dịch ở
trong một ṿng tuần hoàn vĩnh cửu. Ngay ư tưởng
về một sự “chọn
lọc” những h́nh thức sự sống được
h́nh thành một cách ngẫu nhiên cũng không phải là điều
hoàn toàn mới, nó đă có nơi Empedokles. Nh́n chung, họ đều
quan niệm sự xuất hiện của sự sống
trên hành tinh này là kết quả của một sự phát triển
lâu dài từ đơn giản đến phức tạp
chứ không phải từ một hành vi sáng tạo duy nhất.
Các tư tưởng này – được
xem là tiến bộ theo cách nh́n ngày nay – đă mất ảnh
hưởng trong vài thế kỷ sau đó. Parmenides đặt
“tồn tại” vào tâm điểm nghiên cứu và qua đó,
đă ảnh hưởng sâu đậm đến Platon và
Aristoteles. Người ta không c̣n nhấn mạnh đến
sự phát triển mà xem mọi vật đă, đang và sẽ
tồn tại đều đă tồn tại một lúc
nào đó, ít ra ở dạng tiềm năng. Cái hoàn toàn mới
không thể tự phát triển mà không quy về cái ǵ đă
có từ trước. Nổi bật ở đây là quan niệm
của Aristoteles. Tác phẩm Historia
animalium vào thế kỷ IV tr. CN của ông – một trong
những tác phẩm để lại ảnh hưởng lâu
bền và sâu đậm nhất – h́nh dung giới Tự
nhiên được chia làm năm lĩnh vực: các thiên thể,
con người, thú vật, cây cối, và những ǵ không có
sự sống. Sự phân chia này được h́nh dung như
một cái khung cố định với những ranh giới
rơ ràng. Ông phát triển mô h́nh về một trật tự thứ
bậc. Tuy có những sản phẩm tự nhiên khó xếp
hẳn vào một thứ bậc, nhưng nh́n chung, giới
tự nhiên có h́nh thức của một chiếc thang, như
Charles Bonnet (Oeuvres d’histoire
naturelle et de philosophie, 1745) đă tán đồng.
Giống như Darwin, Aristoteles và Bonnet không phân chia
giới tự nhiên một cách tách bạch theo phạm trù mà
mô tả nó bằng những bước quá độ. Nhưng,
khác với Darwin,
- cho tới cuối thế kỷ 18 -, các bước quá độ
này không được hiểu như kết quả của
một tiến tŕnh lịch
sử. Các sự giống nhau là bộ phận của một
trật tự tự nhiên được sắp xếp
tinh vi, nhưng không phải là sản phẩm của lịch
sử. Theo quan niệm này, động vật hay thực vật
không biến đổi từ thế hệ này sang thế
hệ khác, trái lại, chúng giữ nguyên vị trí trong chiếc
thang cấp bậc, dù các bậc thang có tinh vi, phức tạp
đến mấy. H́nh ảnh chiếc thang cho thấy:
chúng không chuyển sang nhau. Việc đưa mô h́nh chiếc
thang này vào kích thước lịch
sử sẽ là công lao của J. B. Lamarck như sẽ thấy
ở sau.
2.2. Thời Trung cổ:
Dưới
sự thống trị của giáo hội Kitô giáo, mô h́nh tư
duy triết học tự nhiên của các triết gia cổ
đại bị đẩy lùi. Việc lư giải Kinh Thánh
(nhất là Sáng Thế Kư) theo nghĩa đen đă ḱm hăm sự
phát triển khoa học cho tới thời Phục Hưng. Leonardo
da Vinci (1452-1519) đă có tư tưởng thiên tài về sự
ra đời và phát triển của sự sống và về
sự đa dạng các giống loài. Ông làm việc với
những vật hóa thạch và nhận ra những sự tương
đồng giữa con người và giống linh trưởng:
một phát hiện thật táo bạo và nguy hiểm vào thời
điểm bấy giờ!
2.3. Các tiền bối trực
tiếp của Darwin:
Phong
trào khai minh với quan niệm mới mẻ về khoa học
(cùng phương pháp thuần lư và thường nghiệm nghiêm
ngặt) là bà đỡ cho việc h́nh thành thuyết tiến
hóa hiện đại.
-
Bước đi
đầu tiên, tuy chưa tự giác, là của Carolus Linnaeus
(Karl von Linné), bác sĩ và nhà nghiên cứu tự nhiên người
Thụy Điển (1707-1778). Ông phân loại sinh vật theo
giống (species) và loài (genus) như thể do Thượng
đế tạo ra và chưa có ư tưởng về sự
tiến hóa, nhưng chuỗi thứ tự của việc
ra đời các giống loài trong sự phân loại của
ông là cơ sở cho thuyết tiến hóa sau này.
-
Georg Louis
Leclerc Comte de Buffon (1707-1788) - đồng thời với Linné
- là người đầu tiên nêu rơ tính khả biến của
các giống loài. Khi các giống loài biến đổi, chúng
có thể cho ra đời những giống loài hoàn toàn mới.
Khởi điểm cho ư tưởng về một giống loài nguyên thủy chung cho tất
cả cũng được Buffon phỏng đoán từ
những sự trùng hợp rơ rệt về h́nh thái học
và sinh lư học của các giống loài khác nhau.
-
Về phương
pháp nghiên cứu, công trạng bất hủ được
dành cho Pierre Louis Moreau de Maupertuis (1698-1759) với phép tính xác xuất, một công cụ
không thể thay thế được cho đến tận
ngày nay trong lĩnh vực sinh học.
-
Song, như vừa
nói, tên tuổi trứ danh nhất, ngoại trừ Darwin, chính là Jean-Baptiste
de Lamarck (1744-1829). “Thuyết Lamarck” – được
đặt theo tên ông – là nỗ lực khoa học đầu
tiên xác lập sự h́nh dung về một sự tiến
hóa sinh học. Quyển Philosophie
zoologique (1809) của nhà nghiên cứu người Pháp này
chứng minh một sự thích nghi có mục đích của
kiểu di truyền (genotype)
với những điều kiện môi trường đặc
thù (vd nổi tiếng nhất là sự ra đời chiếc
cổ dài của hươu cao cổ: do thói quen phải nỗ
lực kiếm ăn ở những cành lá trên cao, những
biến đổi tuần tự trong genotype dẫn đến ra đời của chiếc
cổ cực dài trong phènotype /
kiểu h́nh bên ngoài(
)
ở các thế hệ sau). Học thuyết tiến hóa của
Lamarck dựa trên giả định rằng “tiến tŕnh
tiến hóa chịu ảnh hưởng lớn bởi sự
thích nghi với môi trường chung quanh”.
-
Tất nhiên, không
thể không kể đến vai tṛ của Thomas Robert Malthus
(1766-1834), nhà sử học và kinh tế chính trị Anh mà Darwin, trong Tự truyện của ḿnh(),
đă thú nhận rằng ḿnh chịu ảnh hưởng lớn.
Ngoài ra cũng phải kể đến ảnh hưởng
của Charles Lyell, nhà địa chất học, người
đă bác lại các giả định của Lamarck.
2.4. Công tŕnh của Darwin
Tuy
không phải là người đầu tiên tin vào một thế
giới khả biến chứ không tĩnh tại, Darwin giữ vai tṛ cực
kỳ quan trọng trong sự phát triển của một
thuyết tiến hóa phổ quát. Đóng góp lớn của
ông cho sinh học hiện đại là việc nêu bật ba
yếu tố tiến hóa cơ bản: sự sinh sản vượt mức, sự chọn lọc và sự thích nghi của cá thể. Dù ông chưa biết tới
các cơ sở phân tử của việc di truyền, và qua
đó, của sự đột biến, nhưng ông đă
phát triển một khung lư giải bao quát về sự ra
đời của các giống loài.
-
Theo Darwin, một
giống loài sinh sản nhiều hậu duệ hơn mức
cần thiết để duy tŕ ṇi giống (hyperproduction).
Những cá thể riêng lẻ ở thế hệ sau không
hoàn toàn giống nhau mà khác nhau ở những đặc điểm
nhất định (sự biến dị). Những cá thể
nào đă thay đổi Phenotype (kiểu h́nh bên ngoài) tỏ
ra thích nghi với môi trường sinh sống, sẽ có ưu
thế về sự “chọn lọc” so với những cá
thể c̣n lại, nghĩa là, có cơ may sống sót lớn
hơn trong cuộc đấu
tranh sinh tồn (chúng ta sẽ có dịp trở lại với
thuật ngữ khá “bất hạnh” này ở sau, xem 3.1) so với
những đồng loại không có sự “thích nghi”.
-
Tuy nhiên, điểm
quyết định là: sự biến đổi có lợi
này là có thể di truyền lại cho hậu duệ của
cá thể ấy. Như thế, những giống loài cá biệt
tuyệt nhiên không phải là những h́nh thức tĩnh tại,
bất biến qua hàng thiên niên kỷ, trái lại, sự kiện
này dẫn tới ư tưởng cho rằng sự đa dạng
của những giống loài hiện nay có thể quy về
một số ít, hay thậm chí về một h́nh thức
nguyên thủy duy nhất. Ta lưu ư hai điểm dị biệt
đáng kể giữa Darwin và Lamarck: Lamarck không chủ trương
một nguồn gốc chung của mọi giống loài; và
mặt khác, Darwin có cái nh́n mềm dẻo hơn trong quan niệm
về một sự phát triển hợp quy luật theo hướng
tiến lên cao hơn: trong mô h́nh của ông, nhiều giống
loài vẫn không hề biến đổi qua nhiều thế
hệ, cũng như có thể tuân theo nhiều con đường
phát triển khác nhau. Nơi Lamarck chỉ có một hướng
phát triển; nơi Darwin
có nhiều hướng, thậm chí không có hướng nào cả.
-
Vào năm
1871, Darwin đưa
“con người” vào trong khuôn khổ tiến hóa luận của
ḿnh(),
khi cho rằng nhiều sự biến đổi nhỏ nơi
những loài linh trưởng giống người rút cục
sẽ dẫn đến con người Homo sapiens (xem 3.2).
-
Song, v́ lẽ
Darwin chưa
kịp biết tới các cơ chế của sinh học
phân tử và các nguyên tắc di truyền (được Gregor
Mendel()
đặt cơ sở), nên đối với việc thích
nghi của cá thể với môi trường, ông đành trở
lại với học thuyết Lamarck.
2.5. Thuyết Tân-Darwin
Thuyết
“Tân-Darwin”, như tên gọi của nó, biểu thị sự
phát triển và mở rộng học thuyết của Darwin dựa trên các
thành tựu mới mẻ của thế kỷ 20. Trước
hết có lẽ là khả năng mô tả chính xác những
diễn tŕnh di truyền-phân tử dựa trên thành quả của
sự nghiên cứu cơ bản khi ta nói về sự đột
biến (mutation) và tái cấu trúc kiểu di truyền (genotype)
như là điểm quyết định của sự biến
dị. Đặc điểm tiếp theo là sự mở rộng
tư tưởng tiến hóa sang các ngành khoa học khác, chẳng
hạn vũ trụ học (và cả địa chất học).
Theo đó, các cơ chế tiến hóa không chỉ khả hữu
trong các hệ thống vi mô mà cũng có tác động trong
sự ra đời hệ thống vĩ mô. Đặt chất
liệu hữu cơ hay mầm mống đầu tiên – mà
ta gọi là sự sống – vào trong một hệ lư thuyết
khoa học có lẽ là nỗ lực táo bạo nhất trong
thế kỷ vừa qua. Theo đó, những phân tử vĩ
mô nào có khả năng tự nhân lên sẽ tỏ ra có năng
lực sống sót tốt hơn những phân tử không có
khả năng ấy. Sau cùng, chính những phân tử trước
lại có ưu thế trong sự chọn lọc, v́ cơ
chế tự nhân lên luôn được cải thiện bằng
những sự đột biến ngẫu nhiên, từ đó
h́nh thành nên cao điểm là hệ thống trao đổi
chất khép kín đầu tiên được gọi là đơn
bào. Người ta trở về lại với Buffon và khẳng
định rằng toàn bộ sự đa dạng của
những giống loài trong hệ sinh thái là trái đất
này được ra đời từ mầm mống đầu
tiên ấy của sự sống hữu cơ, và, đến
lượt ḿnh, lại được tác động bởi
những nguyên tắc tiến hóa, như đối với những
phân tử hữu cơ trước đó.
Như
thế, hai nguyên tắc chính yếu của sự tiến hóa
sinh học là sự đột biến và sự chọn lọc.
Nơi cả hai đều có sự tham gia của yếu tố
hay nguyên tắc ngẫu nhiên
mà phép tính xác xuất là công cụ phương pháp không thể
thiếu được. Có thể nói vắn tắt: thuyết
Tân-Darwin mang lại một h́nh ảnh có tính mô tả chính xác về Tự nhiên, tuy nó không thể
giải thích từng chi tiết một. Điểm mấu
chốt nhất là nó chưa thể giải thích được rút cục tại sao
những đột biến ngẫu nhiên lại có thể xảy
ra. Nhiều bí nhiệm của Tự nhiên đang phơi mở
dần, nhưng chưa phải đă đến lúc các nhà
khoa học tự nhiên, và nói riêng, các nhà sinh vật học,
có thể ca khúc khải hoàn.
3. Vài điều chung quanh Darwin:
3.1. Minh xác về khái niệm
“chọn lọc tự nhiên”
“Chọn
lọc tự nhiên” là một trong hai sợi chỉ đỏ
xuyên suốt thuyết tiến hóa của Darwin. Có ít nhất ba cách dùng chữ
nơi ông: natural selection (chọn
lọc tự nhiên); survival of
the fittest (sống c̣n của cái thích nghi tốt nhất)
và struggle for existence (phấn
đấu để sinh tồn). Do nhiều cách dịch và
cách hiểu khác nhau, ba chữ này đă gây nên không ít ngộ
nhận. Nhiều công tŕnh gần đây nỗ lực minh
xác về ba thuật ngữ này: thuật ngữ sớm nhất
là natural selection, dường
như được ông rút ra từ học thuyết của
Malthus (“Essay on the Principle of
Population”, 1798) vào năm 1838. Thuật ngữ struggle for existence cũng được
Darwin t́m thấy
nơi Malthus và nhà địa chất học Charles Lyell (Principles of Geology). Thuật ngữ
survival of the fittest nguyên là của
nhà xă hội học và triết học Herbert Spencer (Principles of Biology, 3 tập,
1864). A. R. Wallace khuyên Darwin sử dụng thuật ngữ
này của Spencer vào năm 1869 trong Ấn bản lần thứ
5 của quyển Nguồn
gốc các loài, đồng nghĩa với natural selection.
Darwin sớm cho thấy ông không thực sự
thỏa măn với cả ba thuật ngữ trên. Trong khi natural selection chỉ nói lên cơ
chế hay sự kiện: không phải mọi hậu duệ
của một giống loài đều sống sót th́ survival of the fittest dường
như biểu thị một tiêu
chuẩn cho sự chọn lọc. “Fitness” là một khái niệm mềm dẻo, v́ thế
dễ dẫn đến cách hiểu đơn thuần về
sức mạnh cơ bắp. Xu hướng này càng tăng
cường đến mức nguy hiểm khi “survival of the fittest” (dịch đúng
là: sự sống sót của cái thích nghi tốt nhất /
“thích giả sinh tồn”) được dịch sang tiếng
Đức thành “Überleben des
Stärkeren” (“sự sống sót của kẻ mạnh hơn”), xem giới Tự
nhiên như một trường giác đấu “mạnh được
yếu thua” trong bối cảnh một nước
Đức hiếu chiến, đang ra sức giành giật thuộc
địa với Anh, Pháp! Trong ấn bản lần thứ
6 của Nguồn gốc các
loài, Darwin đă chứng minh ngược lại: chính những
sinh vật to lớn, mạnh mẽ về thể xác, cơ
bắp, móng vuốt lại bị diệt vong do thiếu thức
ăn; những giống có cánh mạnh bị gió cuốn ra
biển trong khi những con bọ yếu ớt, bộ cánh
không phát triển lại sống sót().
Như thế, sự chọn lọc không đồng nghĩa
với h́nh dung thông thường về sức mạnh. Trong
khi survival of the fittest dễ
bị liên tưởng sai lạc th́ natural selection (mượn từ thuật ngữ của
ngành chăn nuôi) cũng dễ khiến ta nghĩ đến
một hành động có trí tuệ hay một sự lựa
chọn tự giác, rất gần với h́nh ảnh một
“bàn tay vô h́nh” hay một đấng sáng tạo can thiệp
vào Tự nhiên. Trong thư gửi cho Charles Lyell vào tháng 9,
1860, ông tỏ ra ân hận đă không dùng một chữ khác:
“Nếu có thể làm lại từ đầu, ắt tôi sẽ
dùng chữ “natural preservation”
(sự bảo tồn tự nhiên)().
Sau
cùng, chữ struggle for life cũng
“bất hạnh” khi nó lại được dịch sang tiếng
Đức là “Kampf um Dasein”
(chiến đấu cho sinh tồn), đi quá xa với nghĩa
của chữ struggle (phấn
đấu, nỗ lực) trong tiếng Anh. Thật thế,
Darwin hiểu selection là một
tập hợp những sự tác động qua lại giữa
thực vật, động vật và môi trường, trong
đó yếu tố giữ vai tṛ “chọn lọc” (môi trường,
đồng loại, kẻ địch ăn thịt…) là bất định, chứ
không thể được giản lược đơn
thuần vào sự “đấu tranh”, “chiến đấu”().
Tóm lại, ta cần cẩn trọng và có sự phân biệt
nhiều hơn khi t́m hiểu các thuật ngữ cốt lơi
của thuyết tiến hóa Darwin.
3.2. Khỉ và người
Gay
go nhất cũng như gây ngộ nhận và tranh căi nhiều
nhất trong học thuyết của Dawin là mối quan hệ
thân thuộc giữa người và khỉ. Stephen Jay Gould, nhà
cổ sinh vật học và nhà tiến hóa luận hàng đầu
của thế kỷ XX đă nêu câu hỏi đă từng
làm Darwin thắc
mắc: “Tại sao những ǵ xấu xa ở trong ta th́ bị
xem là di sản của khỉ, c̣n những ǵ tốt đẹp
là riêng của con người? Tại sao ta không đi t́m những
phẩm chất “cao quư” trong ta như là sự tiếp nối
với những con vật khác”?()
Trong
Nguồn gốc các loài
(1859), Darwin
chưa đề cập đến khỉ, càng chưa bàn
về con người. Nhưng từ 1859 cho đến
1871, ông tích cực quan sát, ghi nhận nhiều sự tương
đồng giữa người và thú vật, nhất là với
những thú vật nuôi trong nhà (trở thành phong trào rầm
rộ ở nước Anh đương thời nhờ đường
hàng hải quốc tế phát triển) và nhất là với
các loài linh trưởng (đười ươi, tinh
tinh…). Quyển Descent of Man /
Nguồn gốc con người (1871) cùng với Expression of the Emotions in Man and
Animals / Diễn tả xúc cảm nơi người và thú
vật, một năm sau đó (1872) đúc kết những
nhận định cơ bản của ông:
-
khác với
Ernst Haeckel, nhà động vật học người Đức
(1874), Darwin
không đặt con người ở vị trí trung tâm hay
cao nhất, trái lại, xem đười ươi và tinh
tinh là họ hàng gần gũi nhất của con người,
và con người chỉ là một giống loài bên trong giới
linh trưởng mà thôi.
-
khác với
Nietzsche (trong tác phẩm di cảo “Về sự thật và nói dối theo nghĩa ngoài
luân lư”, 1873), theo đó con người v́ yếu đuối
so với thú vật nên thi thố sức mạnh bằng sự
giả vờ, vuốt ve, dối trá, lừa đảo,
Darwin lại rút ra các đức tính tốt từ đó: thiện
cảm, t́nh yêu và sự hợp quần. (Về sau, Arnold
Gehlen()
xem con người là “sinh vật bất toàn”, v́ thế con
người ra sức phát triển định chế, tổ
chức để t́m chỗ dựa và sự an toàn; Frans de
Waal(),
chuyên gia về loài linh trưởng, nh́n thấy thêm các đức
tính như: trung thành, tin cậy, trắc ẩn và vị tha.
Như
thế, với Darwin,
sự tương đồng giữa con người và thú
vật không chỉ ở phương diện sinh lư học
hay cơ thể học mà c̣n cả ở trong bản tính, đầu
óc và “tinh thần”. Một phát hiện lư thú và hết sức
căn bản vào thời gian Darwin chuẩn bị quyển “Diễn tả cảm xúc nơi
người và thú vật”, làm thay đổi nhận định
quen thuộc trước đó: con vật cũng biết cười, một đặc
điểm tưởng chỉ là đặc quyền của
con người().
Như thế, họ hàng gần gũi giữa con người
và thú vật không tạo nên một dă thú mà mang lại một
con khỉ tươi cười! Trong khi những nhà tiến
hóa luận khác như Ernst Haeckel hay Thomas Henry Huxley không ngần
ngại xem những người châu Phi hay châu Úc là mắc
xích nối liền khỉ và người, th́ Darwin lại thấy những người
Anh đồng hương của ông giống với… những
thú vật nuôi trong nhà! Họ hàng thân thích với thú vật
không làm hạ giá con người, trái lại, Darwin đă “cao quư hóa” thú vật. Sự
nối kết giữa con người và thú vật không tạo
nên một con người mang thú tính, mà ngược lại,
một động vật mang tính người!
3.3. Darwin: nhà vô thần?
Tạm
gác lại sự ồn ào của cuộc tranh chấp, nhiều
khi rất quyết liệt giữa thuyết tiến hóa và
thuyết sáng tạo kéo dài măi cho đến ngày nay(),
ta thử đến với bản thân Darwin chung quanh vấn đề
này. Trước hết, ông không thể tán thành môn Thần học tự nhiên giáo
điều theo kiểu William Whewell, giáo sư ở Cambridge vào năm
1840 hay của William Paley, 1802: “Làm ǵ có sự ngẫu nhiên đối
với ta? Trong cơ thể con người, sự ngẫu
nhiên có chăng là ở vết tàn nhang hay nốt ruồi mà
thôi, chứ không bao giờ ở con mắt được!”().
Với Darwin, sự ngẫu nhiên - gắn liền với sự
chọn lọc - có chức năng then chốt trong sự
ra đời cái mới trong lịch sử tiến hóa. Ông
c̣n đi xa hơn: sự ngẫu nhiên không chỉ tác động
ở cấp độ trật tự hay sự phân loại
của tự nhiên mà cả đối với từng cá thể.
Ông không thấy có sự hoàn hảo nào trong thế giới
hữu cơ cả, kể cả nơi đôi mắt của
con người, để từ đó có thể quy về cho
một trí tuệ siêu nhiên: “Trong sự biến dị của
sinh thể hữu cơ và trong tiến tŕnh chọn lọc
tự nhiên, dường như chẳng có một kế hoạch
nào nhiều hơn so với hướng gió thổi!”().
Sự bất toàn của thế giới sinh vật không phải
là lư do để xem thường chúng: ông nghiên cứu hoa
lan, dây leo, côn trùng với tất cả t́nh âu yếm. Nhưng
sự chết chóc đau thương – trường hợp
cô con gái cưng của ông – làm ông sụp đổ ḷng tin
vào một Đấng sáng tạo ḷng lành! Tuy nhiên, như nhiều
đồng nghiệp của ḿnh, Darwin tự nhận ḿnh là một
người “bất khả
tri”, một khái niệm do Thomas Henry Huxley du nhập vào năm
1889. Khác với nhà vô thần luận, người “bất
khả tri” xem câu hỏi về sự tồn tại của
Thượng đế là không thể trả lời được.
Trong triết học, thái độ này có một truyền
thống lâu dài ngay từ thời Platon khi ông thuật lại
câu nói nổi tiếng của Protagoras, nhà biện sĩ vào
thế kỷ V tr. CN: “Tôi chẳng biết ǵ về thần
linh cả: họ tồn tại hay không tồn tại, làm
sao tôi biết được?”. V́ thế, một mặt Darwin chủ trương:
“thần học và khoa học nên đi riêng con đường
của ḿnh”(),
mặt khác, ông cũng không có xu hướng muốn biến
khoa học thành một định chế luân lư duy nhất
trong đời sống công cộng, khác hẳn thái độ
bài tôn giáo cực đoan của Ernst Haeckel. Khoa học t́m
cách trả lời câu hỏi “như
thế nào” chứ không có tham vọng trả lời câu hỏi
rốt ráo: “tại sao” và “có ư nghĩa ǵ”, vốn là một
nan đề triết học từ muôn thuở: tại sao lại có sự tồn
tại chứ không phải là không
có ǵ hết? Ngày nay, thái độ ấy của Darwin góp
phần vào việc giảm căng thẳng giữa tôn giáo
và khoa học, để cả hai thực sự góp phần
vào việc bảo tồn và trân trọng sự hiện hữu
“có một không hai” của các giống loài, một sự thật
mà không phía nào có thể nghi ngờ cả.
3.4. “Chọn lọc”: một
định luật tự nhiên?
Khi
nói về sự “chọn lọc” như một định
luật tự nhiên, ta thường nhập chung hai chuyện
vốn cần được tách rời nhau ra! Một mặt,
khái niệm “định luật tự nhiên” có ư nghĩa mô tả (bằng phương
pháp toán học hay thống kê) về những hiện tượng:
vd: sự rơi, không có ǵ nhanh bằng tốc độ ánh
sáng v.v… Điều ấy không chỉ cho phép ta mô tả mà
c̣n tiên đoán nữa, nhất
là dựa vào đó để tạo ra… máy hơi nước
hay máy bay. Đó là một nghĩa cơ bản của định
luật tự nhiên.
Nhưng
khi ta dùng khái niệm này đối với sự chọn lọc, ta lập tức
gặp phải một ư nghĩa thứ hai, mang màu sắc quy phạm (normativ): cái ǵ
đă là “định luật tự nhiên” th́ hầu như bất
biến, phải tuân theo. Đó chính là trường hợp đối
với thuyết “nhân măn” khét tiếng của Malthus: nếu
dân số tăng theo cấp số nhân mà sản xuất lương
thực tăng theo cấp số cộng th́ chiến tranh,
bệnh tật, đói kém là biện pháp tự nhiên để
cân đối lại. Hơn thế, các “định chế
tự nhiên” này là mẫu mực để con người làm
theo: không được tương trợ người nghèo!
Sự khắc nghiệt của Tự nhiên là tấm gương
cho sự khắc nghiệt của xă hội!
Ta
thấy ngay rằng ở đây sự nối kết giữa
hành vi con người và “định luật tự nhiên” tuyệt
nhiên không phải là một chuỗi nhân quả đơn giản
như sẩy tay th́ rơi xuống vực. Ngược lại,
quyết định chính trị hay việc ban hành luật
pháp là ở trong quyền hạn cân nhắc của chính con
người. Sự kết hợp giữa “định luật”
và “hành vi” theo kiểu Malthus là có tính quy phạm, nghĩa là:
nội dung của nó là một cái “phải là” chứ không phải cái “là”.
Trước
thế kỷ XVIII, phương Tây tin vào trật tự do
Thượng đế sắp đặt, th́ từ thế
kỷ XIX, người ta tin vào “quyền uy luân lư của tự
nhiên”: “tự nhiên” là tốt, “trái tự nhiên” là xấu!
Trong tiến tŕnh lịch sử này, thuyết tiến hóa, nhất
là hiện tượng “chọn lọc tự nhiên” giữ
vai tṛ quyết định. Friedrich Engels là người đă
sớm nhận ra điều ấy, ông viết: “Bên cạnh
học thuyết dân số của Malthus, toàn bộ học
thuyết của Darwin về đấu tranh sinh tồn chỉ
đơn giản là việc chuyển học thuyết của
Hobbes về bellum omnium contra omnes
[cuộc chiến tranh của tất cả chống lại
tất cả] của Hobbes và học thuyết kinh tế tư
sản từ xă hội vào cho giới Tự nhiên có sự sống.
Rồi sau khi người ta làm xong công việc giả tạo
ấy (…), họ lại chuyển các học thuyết ấy
từ giới Tự nhiên hữu cơ vào cho lịch sử,
và bấy giờ, khẳng định rằng người
ta đă chứng minh được tính hiệu lực của
chúng như là các định luật vĩnh cửu của
xă hội loài người”().
Ở
đây, Engels cho thấy thuật ngữ “đấu tranh
sinh tồn” đă nhiều lần bị chuyển dịch lĩnh
vực từ lịch sử tự nhiên sang kinh tế học
và lư thuyết về nhà nước. Trong quá tŕnh ấy, khái
niệm “định luật” bắt đầu chao đảo,
trộn lẫn cấp độ mô tả với cấp độ
quy phạm. Cái gọi là “định luật vĩnh cửu
của xă hội loài người” hoàn toàn không phải là bất
biến và bất khả thay đổi như định
luật trọng trường! Vậy, phải chăng sự
chọn lọc tự nhiên không phải là một định
luật tự nhiên?
Hơn
ai hết, chính Darwin
đă bàn kỹ về “tính định luật tự nhiên”
của thuyết tiến hóa. Bản thân ông đă giới
thiệu một Biểu
đồ (Diagramm) tiến hóa trong Nguồn gốc các loài (1859), như là một chuỗi
những đường giao thoa, bất định. Ông nói
rơ trong Ấn bản lần thứ 6: “Tuy nhiên, ở đây
tôi muốn lưu ư rằng tôi không hề muốn nói tiến
tŕnh diễn ra một cách hợp quy tắc và ổn định
như đă được tŕnh bày trong Biểu đồ,
cho dù bản thân Biểu đồ cũng đă tỏ ra phần
nào bất định”. Nghĩa là, ông c̣n muốn Biểu đồ
tỏ ra bất định và phức tạp hơn nhiều
nữa!
Lư
do khiến sự tiến hóa không phải là một con đường
thẳng tắp là ở tính
ngẫu nhiên của sự biến dị. Ta chỉ nắm
bắt được sự chọn lọc ở những
nơi nào sự biến dị tỏ rơ sức mạnh của
nó. V́ thế, đối với những nhà nghiên cứu
quen với những quy luật toán học trong thế giới
vô cơ, sự tiến hóa đầy hỗn loạn và bất
ngờ kiểu Darwin
không thể mang lại câu trả lời thỏa đáng. Chẳng
hạn nhà thiên văn John Herschel nhạo báng thuyết tiến
hóa của Darwin
là “law of the higgledy-piggledy” (quy luật của sự lung tung,
bừa băi!)().
Như
ta đă biết, Darwin
chưa giải thích được nguồn gốc của
sự biến dị. Ông cũng chưa giải thích được
tại sao một số đặc điểm là có thể
di truyền, c̣n các đặc điểm khác th́ không. Ông thú
nhận năm 1868 trong “Sự
biến dị của thú vật và cây cối”: “không thể
nêu rơ lư do cho sự khác biệt này”, và để sự việc
dừng lại ở đó.
150
năm sau Darwin,
sự ngẫu nhiên cũng
không thể được gạt bỏ ra khỏi sự
di truyền. Tuy nhiên, sự tiến hóa không thể diễn
ra tùy tiện, mà trong số ranh giới nhất định
nào đó, thường được các nhà sinh vật học
gọi là “những ước chế phát triển” (developmental
constraints). Nhưng, v́ không thể xác định rơ những
ranh giới này, nên cuộc tranh luận về vai tṛ của
ngẫu nhiên và tất yếu vẫn cứ tiếp diễn.
V́ không thể phủ nhận vai tṛ của sự ngẫu
nhiên, chính Darwin đă đưa ra một kết luận gây
“sốc” ngay trong Nguồn
gốc các loài, ấn bản 6: “Tôi không tin vào một quy
luật phát triển cố định”. Sự tiến hóa
không phải là tiến tŕnh hợp quy luật, và, nếu ta
hiểu câu nói trên của Darwin
theo nghĩa đen, th́ sự chọn lọc không phải là
một định luật tự nhiên! Khẳng định
trên của ông rơ ràng nhắm đến nghĩa “mô tả” của
khái niệm định luật: nếu hiểu định
luật tự nhiên theo nghĩa toán học, rơ ràng sự biến
dị lẫn sự chọn lọc không thuộc về loại
này. Một con vật khác với bố mẹ nó như thế
nào và được “chọn lọc” dựa vào những đặc
điểm ǵ là điều không ai có thể dự đoán được.
Ernst
Mayr, nhà sinh học tiến hóa nổi tiếng ở thế
kỷ 20, là người bàn kỹ nhất về tính quy luật
tự nhiên của thuyết tiến hóa. Theo ông, các hệ thống
sinh học khác căn bản với tất cả những
hệ thống không có sự sống khác, v́ thế “định
luật tự nhiên” ở đây buộc phải được
hiểu theo nghĩa khác (do có quá nhiều yếu tố ngẫu
nhiên của môi trường, của đồng loại, của
thiên địch làm tăng thêm tính phức tạp và tính
không thể dự đoán). Sinh vật là một cơ chế
“nhị nguyên”. Nó là vật chất, nên phải phục tùng
những định luật của vật lư học, hóa học,
nhưng nó cũng c̣n lệ thuộc vào các tiến tŕnh lịch
sử, dù đó là các quan hệ tương tác ở cấp
độ phát triển cá nhân (ontogenese) hoặc ở cấp
độ phát triển giống loài (phylogenese). Để mô
tả các tiến tŕnh ấy, không có những định luật
phổ quát, mà, theo E. Mayr, chỉ có
những “miêu tả lịch sử” (historical narratives)().
V́ thế, về bản chất, sinh học là một khoa học
lịch sử. Nhà sinh học - giống như nhà sử học
- tập hợp những thông tin từ lịch sử, dàn dựng
lại thành một kịch
bản và sau cùng, kiểm tra xem cách giải thích nào là trùng
hợp một cách khả tín, khả thủ (plausible) nhất
với những thông tin đă có. Thomas Henry Huxley, đồng
minh gần gũi với Darwin,
gọi phương pháp ấy là “tiên
đoán hồi cố” (“retrospective prophecy”): nhà nghiên cứu
phải tập luyện để có năng lực “nh́n những
ǵ mà mắt thường không thể nh́n thấy”. Trong các
khoa học vật lư, phương pháp này dường như
chỉ được áp dụng cho một số ít lĩnh
vực, chẳng hạn trong vũ trụ học và địa
chất học. C̣n trong sinh học tiến hóa, phương
pháp lịch sử lại là phương pháp cơ bản
và thích hợp. Và, cũng giống như mọi khoa học
lịch sử, nó khó có được những định
luật tự nhiên phổ quát đúng nghĩa để mô
tả các tiến tŕnh. Nói như Jay Gould, nhà tiền cổ
sinh vật học nổi tiếng: “Sự tiến hóa là một
suy luận không thể tránh được, chứ không phải
là một sự kiện trần trụi”().
Ngày
nay, có sự đồng thuận chung rằng sự chọn
lọc tự nhiên, cùng với sự biến dị, thúc đẩy
sự tiến hóa. 150 năm sau Darwin,
không có lư thuyết nào hiệu nghiệm hơn học thuyết
ấy. Nhưng, sự chọn
lọc diễn ra ở cấp độ nào là vấn đề
đang gây tranh căi sôi nổi:
-
Richard Dawkins,
nhà động vật học người Anh, trong tác phẩm
nổi tiếng: “Gen ích kỷ”
(1976) đề ra luận điểm nổi tiếng: sự
chọn lọc diễn ra ở cấp độ hệ gen
(genom). Theo Dawkins, hệ gen được “chương tŕnh
hóa” để tự nhân lên, c̣n sinh thể hữu cơ chỉ
là cái vỏ bọc hay cổ xe để thực hiện
chương tŕnh ấy: “con khỉ là một cổ máy lo việc
trường tồn của những gen leo cây; con cá là một
cổ máy lo việc trường tồn của những
gen dưới nước”().
Ta liên tưởng đến cách nói quen thuộc ở thế
kỷ 19 về một giới tự nhiên được
trang bị đến tận răng! Dawkins dùng hàng loạt
những ẩn dụ trong sinh học vay mượn từ
toán học và kỹ thuật: chương
tŕnh, sự điều khiển, cổ máy… Cơ sở
của chúng là một cách nh́n tất
định luận về Tự nhiên: hành vi không phải
là tự do mà là thực hiện một điều bắt
buộc. Hành vi chỉ tuân theo nguyên tắc tự-bảo tồn,
tức cái gọi là sự ích
kỷ của gen: “sự chọn lọc tự nhiên tạo
thuận lợi cho những gen nào điều khiển cổ
máy sống c̣n để tận dụng được những
lợi ích tốt nhất từ môi trường của
chúng”. Tuy nhiên, Dawkins cũng thừa nhận có những hiện
tượng tỏ ra không phục tùng quy tắc “ích kỷ”
ấy: nhiều sinh vật sẵn sàng hy sinh thân ḿnh để
báo động hay bảo vệ cho đồng loại, nhất
là hiện tượng nhận những sinh vật khác làm
con nuôi (adoption), một hành vi “có vẻ thật cảm động
nhưng lại trái với quy tắc, v́ nó phung phí thời
gian và năng lượng lẽ ra phải dành cho chính con
cái của ḿnh”().
Một lần nữa, ta gặp lại sự trộn lẫn
giữa tính mô tả và tính quy phạm của định
luật: giống như Malthus, ông vừa rút ra quy luật từ
Tự nhiên, đồng thời xem nó có tính quy phạm cho
hành vi!
-
Đang gây sôi
nổi hiện nay là quyển sách “Mật mă Darwin” / Darwins Code của Thomas Junker, nhà lịch
sử sinh học và Sabine Paul, nhà sinh học phân tử người
Đức, vừa mới phát hành nhân kỷ niệm 200 năm
ngày sinh Darwin (02.2009)().
Quyển sách đặt câu hỏi: phải chăng các định
luật của sự tiến hóa cũng có giá trị cả
cho lĩnh vực văn hóa? Theo hai tác giả, văn hóa, nghệ
thuật, tôn giáo, ba biểu hiện của tinh thần và sự
tự do của con người kỳ cùng chỉ là một
chiến lược sống
c̣n, chỉ là một bộ phận trong bản tính sinh học
của con người: chúng cần thiết cho sự tồn
tại và hạnh phúc như là những hằng số căn
bản (Grundkonstanten) trong viễn tượng của sự
tiến hóa, kể cả nơi hành động nghịch lư
như… đánh bom tự sát!
Ngược
lại với hai cách nh́n ít nhiều mang màu sắc duy khoa học
và tất định luận ấy, là quan điểm của
Stephan Jay Gould hay của Frans de Waal, chuyên gia về loài linh trưởng
của Ḥa Lan().
Qua ví dụ của ba con hổ con được một
chó mẹ nuôi lớn ở một vườn thú Thái Lan, De
Waal – cũng như Darwin trước đây – xem thái độ
vị tha, xă hội cũng là một ưu thế trong việc
sống c̣n. Nhưng, xa hơn, ông dành cho hành vi một không
gian rộng lớn hơn nhiều: “… động cơ nuôi
dưỡng con cái của giống loài khác vượt ra khỏi chức năng làm mẹ… Động
cơ thường có một đời
sống riêng, v́ thế nó không phải hoàn toàn tương
ứng với các ẩn dụ quen thuộc của khoa sinh
học luôn nhấn mạnh đến một cuộc cạnh
tranh sinh tồn tàn khốc”().
Như thế, De Waal nh́n thấy sự đa dạng và sáng
tạo trong hành vi của thú vật. Trong khi đó, ngược
lại, Dawkins chỉ thấy quy tắc và thuyết tất
định. Những phát hiện ngày càng nhiều về những
hành vi độc đáo của sinh vật (vd: chim cũng biết
dùng dụng cụ, khỉ biết rửa trái cây trước
khi ăn…) củng cố cho thuyết của Ernst Mayr()
trước đây về sự phức tạp của các
hệ thống sinh học. Vậy, nếu các hệ thống
sinh học không thể được mô tả đơn
giản trong h́nh thức những “định luật” th́
ta cũng không thể vội
vàng rút ra từ chúng những quy tắc có tính quy phạm.
Cuộc tranh luận xem sinh học là một khoa học độc
lập hoặc có thể được giản lược
vào các định luật vật lư vẫn c̣n tiếp diễn.
Điều cần ghi nhớ là: Darwin không bao giờ tin rằng sự
phát triển của sự sống có thể quy về một
định luật bất biến nào cả().
4. Việc mở rộng
thuyết tiến hóa sang các lĩnh vực khác
Sự
đột biến và sự chọn lọc – hai trụ cột
của thuyết tiến hóa – có sức hấp dẫn lạ
thường như một mô h́nh hai “pha” dường như
có thể được áp dụng vào mọi lĩnh vực!
Trong tâm lư học, trong lư thuyết về sự tiến hóa
văn hóa, trong xă hội học tôn giáo, nhân loại học
văn hóa và cả trong kinh tế học. Jean Piaget sử dụng
nó trong lư thuyết về sự phát triển của tư
duy trẻ em. Ngay cả sự phát triển kỹ thuật cũng
được đem ra so sánh với môn sinh học, thậm
chí được khai thác như là chiến lược cho
việc phát triển kỹ thuật, gọi là công nghệ học tiến hóa().
Các vấn đề giá trị cũng được xem
xét trong một môn đạo
đức học tiến hóa().
Với Karl Popper, ta lại có khái niệm về một thuyết
Darwin trong
khoa học luận, theo đó các khoa học được
thăng tiến nhờ sự đột
phá của những ư tưởng mới không được
dự báo trước và sau đó sẽ được cộng
đồng khoa học “chọn
lọc”().
Ta lại có môn nhận thức
luận tiến hóa hiểu như việc đặt ra câu
hỏi siêu nghiệm (transcendental), tức câu hỏi về
các điều kiện khả thể của nhận thức
qua việc các phạm trù nhận thức của ta thích nghi
với thế giới qua tiến tŕnh tiến hóa như thế
nào().
Tất
nhiên cũng có những tiếng nói ngược, nhưng
nh́n chung dường như sơ đồ tiến hóa đă
t́m được sự đồng thuận khá phổ biến.
Tất
cả các trường hợp trên đây đều có một
điểm chung: trong những lĩnh vực hoàn toàn khác
nhau về mặt bản thể học, người ta giả định một sự
phát triển có cấu trúc tương tự như trong lĩnh
vực sinh học. Vậy, sự
tương tự hay sự
loại suy (Analogie) giữ vai tṛ quyết định ở
đây. Sự tương tự - hay đúng hơn, sự
tương tự về tỉ lệ - là việc chuyển
một quan hệ “A với B” từ một lĩnh vực
này thành “C với D” trong một lĩnh vực khác:
A quan hệ với B trong lĩnh vực
L giống như C quan hệ với D trong lĩnh vực V
hoàn toàn khác.
Vậy,
ở đây ta chỉ so sánh các quan hệ với nhau chứ
không so sánh các lĩnh vực liên quan. Nói theo cách hiện đại,
chúng có cùng một cấu trúc,
và, trong thực tế, phần lớn những sự loại
suy là những loại suy về cấu trúc. Trước
đây, loại suy được chấp nhận như một
phương tiện chứng minh, bởi nếu thế giới
nối kết chặt chẽ với nhau và bản thân thế
giới là tấm gương soi cho ư chí của Thượng
đế th́ sự tương ứng, nếu có, chỉ
là sự phản ánh của cái Một làm nền tảng, xét
như nguồn gốc của tất cả. Ở thời
cận và hiện đại, người ta không c̣n chấp
nhận phương thức chứng minh ấy nữa, thậm
chí xem nó là phản khoa học, và, có chăng, chỉ có chức
năng hướng dẫn nghiên cứu (heuristic) trong việc
lập giả thuyết. Nói một cách chặt chẽ, như
cảnh báo của nhà khoa học luận Wolfgang Stegmüller, cần
phải hết sức thận trọng khi sử dụng
nó, bởi nó có thể là một cái bẫy dẫn đến
sai lầm. Đó là “nói một cách chặt chẽ” trong phạm
vi khoa học luận, c̣n trong thực tế, nó vẫn rất
được yêu thích. Lư do tại sao?
4.1. Phê phán “thế giới
quan” nhân quả
Nếu
tất cả đều trôi chảy, biến dịch th́,
nói như Heraclitus, ít nhất phải có một cái logos bất biến. Hay nói theo
kiểu hiện đại, nếu giả thử một
cái ǵ đồng dạng không bao giờ diễn ra theo quy luật,
ta ắt không thể nhận thức được ǵ về
thế giới cả. Nắm
bắt sự biến dịch bằng quy luật là tư
tưởng nền tảng của mọi khoa học thường
nghiệm. Ngay cả việc mở rộng thành quy luật
thống kê, chẳng hạn trong vật lư lượng tử,
cũng không thay đổi cơ bản cách nh́n ấy. Thắng
lợi của “thế giới quan nhân quả” lấy vật
lư học làm mẫu mực từ thời Phục hưng
đă buộc tất cả các khoa học tinh thần và khoa
học xă hội đều phải đồng ḷng với
nó. Việc ra đời của môn thông diễn học (Hermeneutics) vào thế kỷ 19
từ Schleiermacher đến Dilthey là nỗ lực đầu
tiên của sự bất phục tùng! Ngày nay, ta đă dễ
dàng hơn để thấy cả mặt ưu lẫn
khuyết của “thế giới quan” nhân quả: bên cạnh
kho tàng kiến thức đồ sộ nhờ nó mang lại,
ta cũng chứng kiến Thiên nhiên phong phú biến thành vật
chất đơn thuần, và cùng với nó, mọi sinh thể,
kể cả con người, cũng trở thành những cổ
máy. Thêm vào đó, nh́n ở giác độ những định
luật, ta chỉ c̣n có trong tay cái phổ biến thay v́ cái
cá biệt; cái thường tồn thay v́ cái độc nhất
vô nhị; cái sơ đồ thay v́ sự giàu có không thể
tát cạn của mỗi phút giây: giữa cuộc sống được
trải nghiệm với giới tự nhiên được
hiểu theo nghĩa khách quan, liên chủ thể có một vực
thẳm cách ngăn. Vả chăng, bản thân việc đi
t́m cái thường tồn trong tự nhiên cũng có tính lịch
sử, nghĩa là luôn gắn liền và phụ thuộc vào
những hệ h́nh tư duy (Paradigms). V́ thế, ngày nay, dường
như đang có một sự chuyển trọng tâm: thay v́
chỉ đi t́m những định luật của sự
biến đổi, người ta hướng đến bản thân cái đang biến
đổi. Thiên nhiên không c̣n được hiểu là vật
chất đơn thuần mà là một “thế giới cuộc
sống” hay một “sinh thế” (“Lebenswelt”) mà con người
phải nỗ lực bảo vệ; một cách nh́n “sinh học”
đang dần thay chỗ cho một cách nh́n nhân quả đơn
thuần. Như đă nói, môn thông
diễn học (môn học về việc “Hiểu”) đă
có bước đi đầu tiên, nhưng v́ lẽ đối
tượng của nó không phải là nghiên cứu về cấu
trúc của sự thay đổi lịch sử, nên nó không
có nhiệm vụ đưa ra câu trả lời về
“logos” của sự biến đổi, liên quan đến
sự h́nh thành mang tính lịch sử của những tiến
tŕnh đa dạng về sinh học, xă hội và văn hóa.
Phép biện chứng cũng
có những ưu điểm, nhưng trong sơ đồ
lư giải của nó, không có chỗ cho những hiện tượng
bị “phủ định sạch trơn” (chẳng hạn
sự diệt vong của toàn bộ nhiều giống loài
hay của những nền văn hóa), cũng như chưa
có đủ độ sáng rơ và rành mạch về khái niệm
để phát huy hiệu quả trong từng khoa học
riêng lẻ. Trong t́nh h́nh đó, không có ǵ lạ khi sơ đồ tiến hóa luận
– vay mượn từ môn sinh học tiến hóa – đang được
dành cho sự quan tâm và tán đồng sâu rộng.
4.2. Đặc điểm
của sơ đồ tiến hóa
Trong
việc mở rộng sơ đồ tiến hóa sang các lĩnh
vực khác, người ta không hề nghĩ đến việc
lấy môn sinh học làm nền tảng cho các lĩnh vực
ấy. Người ta chỉ đơn thuần mượn
sơ đồ của thuyết
tiến hóa, tức sự đột biến và sự chọn
lọc, như một sơ đồ lư giải theo phép loại
suy. Ở đây, rơ ràng sơ đồ tiến hóa có vai tṛ
như một sơ đồ lư giải có tính siêu h́nh học-lịch
sử, nhấn mạnh đến cách hiểu mới mẻ
về vị thế của con
người đối với thế giới().
Điều này sẽ rơ hơn khi ta so sánh cách nh́n mục đích luận, cách nh́n
nhân quả và cách nh́n tiến hóa luận về lịch
sử:
-
cách nh́n mục đích luận dựa
vào causa finalis (nguyên nhân mục
đích hay cứu cánh) kiểu Aristoteles không quy về một
sự giải thích nhân quả, v́ trong cách nh́n mục đích
luận, hiện tại được
quy định bởi tương
lai: mục tiêu của sự
biến đổi là có sẵn. Đó là cảm thức về
đời sống của thời Trung cổ Tây phương
luôn hướng đến một sự cố sẽ xảy ra trong tương lai: Ngày Phán xét cuối cùng. Ở
đây, lịch sử bao giờ cũng có nghĩa là thời tiền sử.
-
Ngược lại,
cách nh́n nhân quả mô tả hiện trạng từ bất
kỳ một trạng thái quá khứ nào đó để dự
đoán tương lai. Qua đó, quá khứ và tương lai,
về nguyên tắc, là giống nhau, v́ cả hai đều được
hiện tại soi sáng, và, tương lai không mang lại một
cái ǵ mới mẻ về nguyên tắc, bởi các quy luật
đă được khẳng định ngay từ hiện
tại. Trong cách nh́n này, con người được cung
cấp phương tiện để dự phóng tương
lai dựa vào kiến thức về những quy luật
nhân quả. V́ thế, cách nh́n nhân quả gắn liền với
ư tưởng về một sự tiến bộ do con người kiến tạo.
-
Cách nh́n tiến hóa luận khác căn
bản với cả hai cách nh́n trên: như đă nói ngay ở
đầu bài, nó chỉ giải
thích một cách hồi cố
(retrospektiv) (vd: các giống loài đă tiêu vong như thế
nào và các giống loài hiện nay có những đặc tính
ǵ). Thay sơ đồ nhân quả bằng sơ đồ
đột biến-chọn lọc và cùng với sự xuất
hiện tự phát của những sự đột biến
th́ tương lai và cái mới, về nguyên tắc, là để ngỏ, và có chăng
chỉ có thể dự đoán được “xu thế”
trong tương lai gần.
Như thế, sơ đồ tiến
hóa có năng lực giải thích yếu hơn sơ đồ
nhân quả nhưng lại có những ưu điểm vượt
trội: - nhấn mạnh đến tính không thể lặp
lại của sự kiện, đồng thời lư giải
được từng sự kiện riêng lẻ; - cho thấy
rơ rằng: để hiểu biết chính ḿnh, ta phải
quan tâm đến quá khứ. Nó thay ḷng tin vào một tương
lai xa vời (sơ đồ mục đích luận) lẫn
vào sự tiến bộ tuyến tính bằng một khái niệm
trung lập hơn về sự phát triển: có thể là
phúc mà cũng có thể là họa. Tất nhiên, sơ đồ
tiến hóa không dẹp bỏ sơ đồ nhân quả (cũng
như sơ đồ nhân quả không xóa bỏ sơ đồ
mục đích luận); nó chỉ cho thấy sự hạn
chế của hai sơ đồ trước. Một ví dụ
đơn giản: ta vẫn phải cần đến sơ
đồ nhân quả khi chế tạo động cơ của
xe hơi, nhưng sơ đồ ấy không thể nói ǵ về
mẫu xe trong tương lai, càng không thể nói về mẫu
xe cuối cùng!
4.3. Chấp nhận sự
ngẫu nhiên
Ở
đâu có sự đột biến, có cái mới không dự
báo trước được, ở đó phải chấp
nhận sự ngẫu nhiên. Sự ngẫu nhiên có nhiều nghĩa khác nhau:
-
sự trùng hợp
hay giao thoa của hai chuỗi nhân quả độc lập.
Ví dụ quen thuộc nhất: viên ngói rơi vào đầu!
-
không thể dự
báo v́ ta thiếu kiến thức chính xác về các điều
kiện xuất phát. Ví dụ tiêu biểu: ném con súc sắc,
trong đó mỗi ṿng quay đều diễn ra một cách
nhân quả.
-
sự ngẫu
nhiên thuộc bản tính của sự vật, được
hiểu như sự tự phát, vô nguyên nhân, vốn không có
chỗ đứng trong hai sơ đồ kia. Trái lại,
sơ đồ tiến hóa tiền giả định sự
hiện hữu khách quan của loại ngẫu nhiên này (giống
với cách lư giải của trường phái Copenhagen trong thuyết lượng
tử).
Đối
với sự ngẫu nhiên theo nghĩa thứ ba này, ta không
chỉ không thể tiên đoán loại h́nh và thời điểm
của sự đột biến sắp tới, mà c̣n do bản
thân sự việc, về nguyên tắc, là tự khởi,
theo nghĩa thiếu một nguyên nhân riêng biệt để
có thể tiên đoán được: sơ đồ nhân quả
HO không thể áp dụng ở đây, bởi không có quy luật
nào có thể phát biểu về sự xuất hiện của
sự đột biến cả. Và do đó, cái giá phải
trả là ta đành phải gát
lại yêu sách có thể giải thích thế giới hoàn toàn
bằng nguyên tắc túc lư (nguyên tắc nguyên nhân đầy
đủ của thời cận đại). Sự biện minh cho việc sử
dụng sơ đồ tiến hóa xuất phát từ một
nguồn suối riêng biệt: hành vi sáng tạo của con người trong các lĩnh vực
văn nghệ, lư luận, khoa học, kỹ thuật và đời
sống xă hội. Sự sáng
tạo, sự tự
khởi và sự tự do
là bản chất của tính nhân loại: sự tự khởi
- với tư cách là sự tự quyết - là tiền đề
của sự tự do; c̣n chính sự sáng tạo mới làm
cho con người trở thành Homo
faber, thành chủ nhân của văn hóa và văn minh. Như
đă biết, khi sơ đồ nhân quả c̣n thống trị
như trước đây, việc lư giải ba phẩm tính
nhân loại nói trên thường rất khó khăn; người
ta cần cầu viện tới sự tư biện triết
học; chẳng hạn:
- Spinoza: tự do là sự tất yếu được
nhận thức;
- Leibniz: tự do là sự “thấy trước” (praevisio) chứ không phải
là sự định
trước (praedeterminatio) của Thượng
đế; hay
- Kant: Tự do là h́nh thức đặc thù của
tính nhân quả từ Tự
do!
5. Thay lời kết:
Darwin nói về sự chọn lọc tự nhiên. Sơ đồ tiến
hóa luận trong lĩnh vực nhân văn và xă hội lại
nói lên sự chọn lọc
của con người. Sơ đồ này không nói lên một
sự tự khởi mù quáng: con người làm hoặc
không làm một điều ǵ là do chính ḿnh lựa chọn và
chịu trách nhiệm. Tất cả những hành vi ấy tiền-giả
định những quy phạm và giá trị; và chúng không thể
được phó mặc cho tṛ chơi của sự may rủi.
Chúng không thể được rút ra từ kiến thức
thường nghiệm, bởi kiến thức thường
nghiệm chỉ có tính mô tả chứ không có tính quy phạm.
Do đó, chỉ có chính con người là kẻ phải mang
lại một ư nghĩa cho
thế giới, bởi nếu không, ta không c̣n là con người
nữa. Ư nghĩa ấy có nguồn gốc nhân loại hoặc
siêu việt kỳ cùng lại cũng do chính con người
chọn lựa, dựa trên một quan năng thật độc
đáo: năng lực phán
đoán phản tư như cách mà Kant đă đặt
tên cho niềm tự hào lớn nhất của con người.
BVNS
03.2009