ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU:
“CÂU TRUYỆN TRIẾT HỌC”
VÀ… TRIẾT HỌC
NHƯ MỘT CÂU CHUYỆN
Bùi Văn Nam Sơn
Thật tài t́nh và thú vị
khi Will Durant (1886-1981) đặt tên cho công tŕnh lịch sử
triết học của ḿnh là “The
Story of Philosophy”. Lịch sử triết học vốn
khét tiếng là khô khan và nhức đầu! Will Durant có cái
nh́n khác: nó rất hấp dẫn, lôi cuốn, nhất là với
những ai có tính ṭ ṃ, “ham chuyện” như chúng ta. Với
ông, ở đây ta có một câu
chuyện thật gay cấn và đáng để được
kể lại cho nhiều người nghe dưới h́nh thức
một câu truyện!
Viết lịch sử
triết học như một câu
truyện là nghệ thuật cao cường của tác
giả. Dễ hiểu tại sao “Câu truyện” này lại thành công ngoạn mục đến
thế! Từ khi ra mắt vào năm 1926, trong ṿng 40 năm
(1976), tác phẩm đă được tái bản đến
28 lần, và đến nay (đầu 2008) không biết
đă đến lần thứ bao nhiêu! Công tŕnh không chỉ
mang lại tiếng tăm rộng răi cho tác giả mà, từ
lần xuất bản đầu tiên, đă giúp tác giả
có đủ phương diện tài chính để cùng bà vợ
yêu (vốn là một học tṛ cũ khi W. Durant c̣n dạy học
ở New York) du khảo khắp năm châu ngay từ năm
1927, và trong suốt 40 năm trời, cùng nhau hoàn thành thêm công
tŕnh đồ sộ có một không hai: 11 tập cho một
“Câu truyện” rộng hơn: “The Story of Civilization” (New York –
1935-1975) (Câu truyện lịch sử văn minh (thế giới))
mà bản thân ông gọi là một “Integral History” (một “Tổng sử” của loài
người!). Các công tŕnh ấy – cùng với nhiều tác phẩm
khác cũng nổi tiếng không kém, nhất là các quyển “The Lessons of History”/Các bài học
của lịch sử, 1968 và Interpretation
of Life: A Survey of Contemporary Literature/Lư giải cuộc
đời: Tổng quan văn học đương
đại, 1970 – đă làm cho tên tuổi hai ông bà Will
Durant và Ariel Durant trở thành bất tử như một cặp
t́nh nhân-học giả tuyệt đẹp và hiếm có xưa
nay.
Tuy nhiên, Will Durant, xuất
thân là một ông nghè triết học của đại học
Columbia, Hoa Kỳ từ năm 1917, không chỉ khéo léo về
phương pháp viết lịch sử triết học như
một Câu truyện mà c̣n có đủ
thẩm quyền chuyên môn để hiểu bản chất
của lịch sử triết học (Tây phương) như
một câu chuyện. Đó
quả là một câu chuyện
đúng nghĩa v́ đầy những t́nh tiết éo le, những
thăng trầm kịch tính, những đường chim nẻo
nguyệt của tâm thức con người được
chưng cất ở mức độ đậm đặc
nhất. Và cũng chính v́ được chưng cất ở
mức độ đậm đặc nhất, nên tác giả
– với tư cách một nhà giáo chuyên nghiệp và hơn thế
nữa, một chiến sĩ xă hội ngay từ 1905 luôn đấu
tranh cho quyền lợi và quyền học vấn của người
lao động – thấy ḿnh có vai tṛ và trách nhiệm làm người
trung gian giữa cuộc “đại đối thoại” của
các “thốn tâm thiên cổ” (“tấc ḷng để ngh́n đời”)
ấy với quảng đại quần chúng. Trong Lời Tựa với nhan đề
“Về các lợi ích của Triết
học” (tiếc rằng không có trong bản dịch này),
ông viết: “Tri thức con người đă trở nên quá
rộng đến độ không thể xử lư nổi…:
kính viễn vọng phát hiện những ngôi sao và những
thiên hà mà đầu óc con người không thể đếm
xuể hay đặt tên; địa chất học nói về
hàng triệu năm, trong khi trước đây ta chỉ nghĩ
đến con số hàng ngh́n; vật lư học t́m ra cả
một vũ trụ trong nguyên tử, c̣n sinh vật học
t́m ra một tiểu vũ trụ trong tế bào; sinh lư học
phát hiện sự huyền vi khôn lường trong từng
mỗi cơ quan và tâm lư học trong từng mỗi cơn
mơ; nhân loại học tái tạo thời tiền sử
của con người; khảo cổ học khai quật
những đô thành đă bị tan thành mây khói và những xứ
sở đă bị lăng quên; sử học chứng minh bao
câu chuyện là sai… c̣n thần học th́ đang đổ vỡ…”.
“Tri thức con người
đă trở nên quá lớn đối với trí tuệ con
người. “Những sự kiện” đă thế chỗ
cho sự cảm thông và kiến thức – vỡ vụn ra
thành hàng ngh́n mảnh – không c̣n là sự minh triết được
tích hợp lại nữa rồi. Môn khoa học nào và chuyện
ngành triết học nào cũng phát triển một thuật
ngữ chuyên môn chỉ dành riêng cho một ít kẻ đặc
tuyển: người càng học rộng hiểu nhiều
càng không biết làm cách nào để giăi bày cho đồng
bào ḿnh những ǵ ḿnh đă học được".
V́ thế, với tấm
ḷng chân thành và cởi mở của một học giả đích
thực, W. Durant xác định rơ mục đích của quyển
sách này là làm cho người b́nh thường hiểu được
những ư tưởng cao xa của triết học. Ông xem
khoa học như là sự “phân tích”, c̣n triết học như
là sự “tổng hợp”. V́ thế, ông kết luận:
“Khoa học là sự mô tả kiểu phân tích, trong khi triết
học là sự lư giải kiểu tổng hợp. V́ lẽ,
một sự kiện không bao giờ là hoàn chỉnh trừ
khi được đặt vào mối quan hệ với một
mục đích và với cái toàn bộ. Khoa học mang lại cho ta kiến thức, nhưng
chỉ có triết học mới có thể cho ta sự
hiền minh”.
Sự “hiền minh” đối
với một người đọc b́nh thường như
chúng ta là không việc ǵ phải khổ sở ṿ đầu
bứt tóc trước những thuật ngữ tối tăm
và những lập luận rắc rối của các triết
gia! Nhưng cũng sẽ thiếu… hiền minh nếu bỏ
lỡ cơ hội được nghe kể một câu
chuyện tâm t́nh dài ḍng mà hấp dẫn, để ít ra được
an ủi rằng các đầu óc vĩ đại nhất
của nhân loại cũng có những băn khoăn, thắc
mắc chẳng khác ǵ ḿnh, chỉ có điều họ có thể
kết chúng lại thành một chuỗi lấp lánh những
hạt ngọc hiền minh đáng cho chúng ta suy ngẫm. Tôi
xin hiến ngay ở đây cho bạn đọc một vài
hạt ngọc dễ dàng t́m được trong bộ sách
này (Bộ sách gồm hai tập. Bản dịch này chỉ
mới là tập I từ Platon đến Nietzsche; tập II
giới thiệu triết học hiện đại Âu Mỹ
gồm các tác giả: Henri Bergson, Benedetto Croce; Bertrand Russell,
George Santayana, William James, John Dewey và một bài “kết luận”
rất ư vị khi so sánh hai “tính khí” khác nhau: Mỹ: cá nhân chủ
nghĩa và ham hố # Châu Âu: trầm tư và nghệ sĩ):
- Chắc ta đồng
ư với Plato rằng các
chính khách cầm quyền cần được huấn luyện
kỹ lưỡng như khi đào tạo một bác sĩ
y khoa!
- Aristotle: biết bao cuộc tranh luận dài ḍng có
thể tóm tắt thành một đoạn ngắn nếu
các kẻ tranh luận dám định nghĩa rơ ràng chữ
nghĩa của họ!
- Francis Bacon: Môn giả kim đă trở thành hóa học,
môn chiêm tinh đă trở thành thiên văn học và các câu chuyện
thần thoại về những con vật biết nói đă
trở thành môn động vật học!
- Spinoza: Thù ghét là thừa nhận sự yếu kém và
sự sợ hăi của ḿnh. Ta đâu có thèm thù ghét một kẻ
thù mà ta biết chắc là sẽ dư sức đánh thắng!
- Voltaire: Thượng đế tạo ra đàn bà
chỉ là để thuần phục đàn ông! (“mankind” ở
đây là “đàn ông” hay cả… nhân loại?!).
- Kant: đối diện với cám dỗ, ta có “mệnh
lệnh luân lư” ở trong ta như là lời mách bảo của
lương tâm!
- Hegel: Ư tưởng hay t́nh huống nào trong thế
gian cũng đều nhất định dẫn tới
cái đối lập của nó, rồi hợp nhất với
nó để tạo ra một toàn bộ cao hơn hay phức
tạp hơn!
- Schopenhauer: Dẫn đạo thế giới là ư
chí, v́ thế mà có nỗ lực, có bi kịch. Ư chí là bản
chất của con người!
- Herbert Spencer: sáng chế ra mấy chữ: “đấu
tranh sinh tồn” và “ưu thắng liệt bại”. Có thể
dùng chúng để giải thích mọi sự mọi vật!
- Nietzsche: Nếu thế, th́ sự cứng rắn sẽ
là đức tính tối thượng, c̣n yếu đuối
là sai lầm duy nhất!
- Henri Bergson: trước nay, ta chỉ là chiếc đinh
ốc trong cổ máy vô hồn; bây giờ, nếu muốn,
ta có thể tham gia viết một chương trong vở kịch
của sự sáng tạo!
- Benedetto Croce: Cái đẹp là sản phẩm tinh thần
về một h́nh ảnh (hay một chuỗi h́nh ảnh) chộp
được bản chất của sự vật được
nh́n thấy!
- Bertrand Russell: Hận thù và chiến tranh phần lớn
là do những định kiến và ḷng tin giáo điều!
- George Santayana: Các cuộc cải cách luôn có các kết
quả nước đôi, v́ chúng tạo ra các định
chế mới, mà hễ có định chế mới th́ ắt
có những sự lạm dụng mới!
- William James: Các kết quả sẽ trắc nghiệm
các ư tưởng!
- John Dewey: trong xă hội công nghiệp, nhà trường
nên là một công trường và một cộng đồng
thu nhỏ; nên dạy học bằng thực hành và bằng
việc “thử và sai”. Cần nhận thức lại về
giáo dục: giáo dục không đơn thuần là một sự
chuẩn bị cho sự trưởng thành mà như là một
sự tăng trưởng không ngừng của đầu
óc và một sự khai minh liên tục về cuộc đời”…
Bạn đọc c̣n có
thể t́m thấy nhiều hạt ngọc hiền minh hơn
nữa trong quyển sách này, và đó cũng đủ là lư
do để tất cả chúng ta biết ơn tác giả
và nhất là hai dịch giả Trí Hải và Bửu Đích
(Nha Tu thư và Sưu khảo, Viện Đại học Vạn
Hạnh, In lần thứ nhất, Sài G̣n, 1971) đă cung cấp
cho bạn đọc tiếng Việt một bản dịch
tuyệt vời.
Giáng sinh 2007