Bùi Văn Nam Sơn
VÀI NÉT VỀ BÙI GIÁNG
(Đôi lời tiếp dẫn)
Ngô dữ Điểm dă
Khổng Tử
Viết đôi lời hay nhiều lời về Bùi
Giáng không bằng đọc Bùi Giáng. Đọc Bùi Giáng không
bằng giao du với Bùi Giáng. Giao du với Bùi Giáng không
bằng sống như Bùi Giáng. Mà sống như Bùi Giáng th́ thật
vui mà thật khó vậy.
Hiếm có tác giả nào mà khi ta đọc đôi câu
cũng có thể cảm thụ được cái tinh
thể của toàn bộ văn nghiệp đồ sộ,
nh́n một hành vi mà thấy được phong độ
dị thường của cả b́nh sinh. Một giọt
nước mang cả lượng hải hàm của
đại dương, nói như nhà Phật. Các bậc thâm
trầm ngày xưa gọi đó là Mở cửa thấy
núi, một khí xuyên suốt (Khai môn kiến sơn,
nhất khí quán hạ), Phương Tây bảo rằng
Văn là Người. Quả ở đây, Người
trở thành Văn, Văn với Người không hai.
Anh Giáng là sao Văn Khúc
“hạ giáng” vào cửa họ Bùi ta chăng? Là một Thi
Quỉ hay Thi Tiên có một không hai trong nền Văn Dân
tộc? Là một bậc La Hán tự phát nguyện trở
thành xác thịt để khóc cười an ủi chúng sinh?
Khen hay chê, thích hay không, Anh vẫn thuộc vào loại thiên
tài không định nghĩa được (génie indéfinissable)
làm bằng một thứ nguyên liệu rất hiếm, là
một giống chim lạ rất dễ tuyệt chủng
mà Trời Đất – không nỡ làm dứt mạch
Văn, làm cạn ṇi T́nh – lâu lâu lại cho phục sinh
một lần. Thứ nguyên liệu ấy rất nhẹ
đồng cân nên ít bám bụi, lung linh sương bóng (hốt
hề hoảng hề), khó nắm bắt mà lại cũng
rất kềnh càng, quá cỡ thợ mộc, nếu ta không
chịu khó gắng sức lên một tí th́ không đo
lường được:
Hỏi
tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi
quê? Rằng mộng ban đầu đă xa
Gọi
tên rằng một, hai, ba
Đếm là diệu
tưởng, đo là nghi tâm.
Bốn câu tự giới thiệu gợi ta nhớ
đến René Char, một thi sĩ lớn của Pháp:
Je
parle de si loin
Comment
m’entendez-vous?
(Tôi
nói từ cơi rất xa
Ngài nghe tôi như thế nào?)
Nếu Thính là nghe ở ṿng ngoài, c̣n Văn
là lắng tai Chung Kỳ, nghe được ở bề
sâu, bề xa th́ nghe tiếng thơ Bùi Giáng giống như
nghe một cơn mưa từ ngàn
thu trước, đến hôm nay mới rớt
hột trở về. Nguồn thơ ấy u huyền,
bí nhiệm như một mê cung chỉ tự giải mă
với người đồng điệu. Nó sâu xa, hùng
hậu mà hồn nhiên, trong sạch và ngộ nghĩnh
như những bài kệ khẩu chiếm của các
Thiền Sư. Nó cưỡng bức ngôn ngữ một
cách dữ dội, không thương tiếc để giúp cho
ngôn ngữ tự bộc lộ năng lực sinh hoá không
cùng, từ đó khơi mở ra một chân trời
với thi ca nhân loại: môt hồn Thơ rất cổ
kính đồng thời lại mang tâm thức hiện
đại, đúng hơn, hậu hiện đại
(post-moderne), nơi đó mọi ư, mợi lời
đều đa tầng, đa nghĩa, đa chức
năng, nhằm bộc lộ cho được một cái
ǵ rất Sơ Nguyên, Đơn Giản, song đă trải
qua biến dịch nên phong phú, điệp trùng.
Hồn thơ ấy, bắt đầu từ
những ǵ rất trần thế, không ít đau buồn
từ thuở nhỏ:
Bước xa bờ cỏ, xa
đường thương yêu…
… Tóc
xanh kỳ hẹn sai ngày
Khóc
ngang ngửa mộng canh dài mấy phen…
… Giă
từ khi bước chân ra
Chết
từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn...
…
Tuổi thơ nhiếp dẫn sai miền
Đổ
xiêu phấn bướm, phi tuyền vọng âm…
Và khi
lớn lên chứng kiến:
Hăi hùng bi kịch đồi tranh
Trùng quan vó ngựa tế nhanh trong
mù
Thây người nát ở phía sau
Ngh́n thu khép mắt khổ đau
khôn hàn
lại
trở thành nguồn thơ nghịch ngợm nhất, vui
vẻ nhất xưa nay:
Tôi nói điệu điên rồ
Ấy
là vui vậy.
Bùi quân bước được vào Hoan hỷ
địa, sau khi đă khóc ngang ngửa mộng,
đă rú như beo rống, như hùm đổi hang
trong những trận tung hoành bút mực. Sư tử biến thành hài nhi. Nhân loại mới nói cười như trẻ
nhỏ. Quá tŕnh chuyển hóa và đạt đạo
của Bùi Giáng là tiêu biểu cho ư thức và tinh thần
thời đại mà anh đă gặp gỡ, chia xẻ
với những nhà tư tưởng và nghệ sĩ
lớn Đông Tây.
Cái Vạn Vật nhất thể ở
khởi nguyên chưa phân ly th́ c̣n hàm hỗn nhưng đầy
sức sống. Biểu hiện nơi con người là các
bậc Thánh Hiền c̣n nguyên khối: họ là nhà thơ, nhà
tư tưởng, nhà hành động. Huyền thoại và
lư tính c̣n chan ḥa vào nhau. Song, lô-gich tất yếu của
sự phát triển thúc đẩy sự phân ly, mang lại
sự phồn tạp và cả những nguy cơ, thảm
họa: sự phân ly giữa Lư Tính (Apollon) và Đam Mê
(Dionysos), giữa Tư Duy và Mơ Mộng, giữa Đông
và Tây, giữa Cơ Giới và Tự Nhiên... Sự phân ly
ấy c̣n trầm trọng khi con người thời đại
xem sự phân ly là tự nhiên, lăng quên mất nguồn
suối nguyên thủy và nhất là không t́m ra phương
thuốc cứu nguy. Sa mạc lớn dần, chủ
nghĩa hư vô lan tràn khắp chốn:
Trần gian bất tuyệt một lần.
Nghe triều
biển lục xa dần non xanh…
Màu hoang đảo
từ đây em sẽ ngó
Cát xa bờ tơ chỉ rối chiêm bao
Làm sao nối lại non xanh và biển lục,
giữa cát và bờ? Làm sao chuẩn bị cho một
cuộc đối thoại tái hợp nhất thiết
phải có giữa Đông và Tây? Làm sao bắt lại
nhịp cầu tương giao, tương ứng giữa
thi ca và tư tưởng, hai lĩnh vực vốn
hoạt động theo quy luật riêng ở hai đầu
vực thẳm mà lại có mối quan hệ tàng ẩn thâm
thiết ở cội nguồn?
Cành Lương
mộc băo bùng về vây hăm
Sầu Thái Sơn
cô tịch lạnh liên miên
Hoài vọng
uổng bên nỗi đời thê thảm
Hờn núi sông xin tái lập xanh miền.
Tái lập lại một miền tương ứng
xanh tươi sức sống nguyên sơ (Anh cùng em đi
hái lộc xanh đầu) để núi Thái Sơn không
bị sụp đổ, cành Lương mộc không bị
huỷ hoạinhư
lời thở than và mong mỏi của Đức Khổng
ngày xưa là đi lần theo con đường của
Tăng Điểm Tắm sông Nghi, hóng mát ở
đền Vũ Vu, rồi ca mà về
theo nghĩa sâu xa là thoát khỏi chấp trước vui vẻ,
trở về nguồn cội với trí tuệ bao dung
rộng mở:
Đời
xiêu đổ nguồn xưa anh trở lại
Giữa
hư vô em giữ nhé ngần này.
Hiểm
hoạ dập dồn. Cần một cứu tinh. Như
mọi nhà nhân bản, Bùi Giáng lên tiếng kêu cứu và báo
động. Cứu tinh chính là trí tuệ bao dung, mềm
dẻo của Nguyên Lư Mẹ, của Thiên Tính Nữ tràn
ngập, rộn ràng trong thơ Bùi Giáng. (Theo quan điểm
phân tâm, kẻ nói nhiều, nói công khai và không nguỵ trang
về tính nữ lại là kẻ không c̣n bị ẩn
ức mà đă t́m được con đường thanh
tẩy, giải thoát). Bởi v́ Phật Tổ có thể
giải ngộ cho ta, nhưng Quan Âm mới ra tay cứu
khổ; Phục Hy kiến lập quy củ, nhưng Nữ
Oa mới chịu khó vá trời chở che con cháu. Âu Cơ,
Thúy Kiều, Monroe, Kim Cương, Phùng Khánh... đều là biểu tượng
của Huyền Tẫn như
thế cả:
Mẹ xin chiếu cố sa mù cho
con
Nói những điều nghiêm trọng như vậy
bằng ngôn ngữ thần
thông du hư, v́ ngôn ngữ là quê chung của Thi Ca và Tư Tưởng
và cũng là biểu tượng đẹp đẽ
nhất của Mẹ: nó sinh sôi vô hạn, sinh hóa vô lường
và luôn ẩn mật, tinh tế ở cả phần vô ngôn,
ẩn ngữ. Ngôn ngữ biểu hiện ra nơi Bùi Giáng
bằng ngụ ngôn, hoa ngôn, chi ngôn... để gói ghém
những ǵ uyên nguyên, sâu kín mà ngôn ngữ thông thường
của khái niệm bị cực hạn không hàm chứa
nổi:
Nguyên h́nh Nữ Chúa trên ngày phù du
Nữ Chúa là sức mạnh cứu khổ
cứu nạn của Mẹ, làm Ngôi Lời cho nhân thế.
Có thể hiểu tại sao các tác phẩm cổ kim qua ng̣i
bút dịch thuật tài hoa của Bùi Giáng đều là
những cơ hội để được tái tạo
theo nguyên nghĩa chữ Dịch là chuyển hoá nhằm
bắt nhịp cầu Ô Thước như đă nói trên
kia. Trong tay người thợ xoàng th́ phiên dịch, sao chép
ba lần là mất gốc (tam sao thất bản). Trong tay
người thợ thiên tài, nó được nâng lên ba
lần để có thể hợp giao với nhau ở
phương trời mới. Kinh A Di Đà trang nghiêm; kinh Hoa
Nghiêm th́ bay bổng, rực rỡ muôn màu, nhưng cả hai
đều nhất lí, chỉ tuỳ theo căn cơ
của mỗi người.
Bùi Giáng là Tiếp Dẫn Đạo Sư trong
ngôn ngữ Việt Nam
hiện đại.
Văn nghiệp phong phú, anh hoa phát tiết của Bùi
Giáng chắc sẽ c̣n làm tốn nhiều giấy mực
của người đời sau.
Nhưng riêng cái huệ tâm và nguồn vui từ bi bất
tuyệt của anh Giáng là phước huệ dư dụ
dành cho họ Bùi ta vậy. Hăy biết ơn anh.