ĐÔI LỜI GIỚI
THIỆU
BÙI
GIÁNG VỚI “MARTIN HEIDEGGER VÀ TƯ TƯỞNG HIỆN
ĐẠI”:
CUỘC HÔN
PHỐI TƯNG BỪNG
“Không tự ḿnh bước tới bờ hương
chín
Th́ cơi mật không tụ về
trong trái”
M. H (G. G dịch)
Ít hay
nhiều, ta từng biết tới một Bùi Giáng Thi
sĩ. Với “Martin Heidegger và Tư tưởng Hiện
đại” – mà Nhà xuất bản Văn học chọn cho
tái bản – ta được gặp lại, hoặc
biết thêm một Bùi Giáng với kích thước mới:
một nhà “giải minh” (Hermeneutiker) không kém phần kỳ
đặc trong văn chương và triết học.
Tác phẩm
đồ sộ này ra đời từ khá lâu – 1963 –, là
một trong nhiều quyển cùng loại của ông đă
xuất bản trước 1975. Quăng thời gian gần 40
năm là thử thách khá khắc nghiệt đối
với bất cứ tác phẩm nào, nhất là loại sách
biên khảo vốn trực tiếp gắn liền với
một hoàn cảnh cụ thể, với nguồn tư
liệu và cách lư giải, cảm thủ của một
thời kỳ lịch sử nhất định. Về
các mặt đó, quyển sách này cũng không phải là
một ngoại lệ. Nhưng mặt khác, như ta
biết, trong văn chương và triết học, thời
gian thường không có sức mạnh vạn năng
để xóa nḥa tất cả; và kiến thức thuần
túy sách vở không giữ vai tṛ ǵ lớn lắm. Cái c̣n
lại – và có thể nhờ trải qua thử thách của
thời gian – chính là tâm hồn và cốt cách của tác
giả. Và ở đây, quả thực ta gặp
được một tâm hồn sâu thẳm với văn
phong khác tục của một Bùi Giáng “văn xuôi”.
Là một
“poeta doctus”, thi sỹ – uyên thâm hay triết gia – nghệ
sĩ, ông muốn thông qua nhiều tác giả và tác phẩm,
thử cùng ta t́m lối đi thẳng vào mạch ngầm,
t́m lại mối giao ḥa, thông ứng theo nghĩa “thanh khí
lẽ hằng” thường bị che lấp giữa
những tâm hồn lớn vượt qua khoảng cách
của kim cổ-đông tây. (“Tư tưởng hiện
đại”, đối với ông không được khu
biệt một cách chặt chẽ theo mốc thời gian,
mà bất cứ ai – từ Homère, Sophocle, Parmenides, Khổng
Tử, Nguyễn Du… đến Camus, Faulkner đương
đại – c̣n gây được xúc động cho
“người đời nay”, đều được ông
xem như những người bạn tri kỷ cùng
thời).
Từ
đó, ông kết tập “kim thanh, ngọc chấn”, cho
tiếng sắt, tiếng vàng chen nhau một cách kỳ
ảo để mời mọc ta vào tham dự cuộc Hôn Phối
Tưng Bừng (184), trong đó – dù sao – ngọn nguồn
lạch sông cho cuộc vuông tṛn vẫn là một lẽ
nhất quán: trong văn chương là chữ T̀NH, chữ
TÂM để phân biệt chân, giả; trong triết học,
là chữ NGỘ (mà ông tránh dùng) để phân biệt nông,
sâu. Nghệ sỹ và triết gia, con người sáng
tạo và con người suy tưởng, từ nhiều
chân trời cách biệt, hiếm khi được kết
nối, giao thoa trong một mối lương duyên kỳ
ngộ. Cho nên, dù hiểu ông hay đồng t́nh với ông
đến mức độ nào, thiết tưởng chúng
ta đều trân trọng một nỗ lực cảm
thụ và suy tư độc sáng như thế, góp phần
làm phong phú thêm di sản của các tác giả Việt Nam quá
cố trong cuộc giao lưu với các nguồn văn hóa
nước ngoài.
Thoạt
nh́n nhan đề sách, ta h́nh dung một chuyên luận
rất khô và rất nặng bàn về mối quan hệ qua
lại giữa Heidegger và “tư tưởng hiện
đại” hoặc thử xét các tác giả hiện
đại tiêu biểu theo cách nh́n của Heidegger. Thực
ra ta có thể t́m thấy những điều đó,
nhưng dưới một ánh sáng khác và một bầu khí
ngôn ngữ khác.
Triết
gia ở nước Đức xa xôi kia chỉ gợi
hứng cho tác giả gặp lại chính ḿnh. Ông gặp
được nét đồng điệu ở cách
đặt vấn đề “thiết lập Vĩnh
Thể trên ḍng Tồn lưu” tuy khó hiểu nhưng không quá
xa lạ với truyền thống suy niệm Đông
phương. Và trước hết, là xẻ chia cảnh
ngộ chua xót: các khuôn mặt lớn trong lịch sử
văn chương và tư tưởng Đông Tây ít
nhiều đều là nạn nhân của những ngộ
nhân, ngộ giải làm rụng tía rơi hồng, “không c̣n
thấy cây lá ở trên đầu, không c̣n thùy dương
dăm trùng quan mây vắng” (55).
Con
đường của tư tưởng thường
rất tŕ trọng (theo nghĩa đen: chậm chạp và
nặng nhọc) v́ phải dần dần vượt qua
các ngộ nhận, khai quang các thông đạo, tất
cả là nỗ lực để chuẩn bị cho những
cuộc đối thoại nghiêm chỉnh và chân thành mai
hậu.
Nếu
Heidegger dành cả đời để làm điều
đó bằng: “cái điệu nói nh́ nhằng, quanh quẩn,
oái oăm như biểu dương một mối sầu
hùng vĩ. Một đoạn trường hàm ẩn trong
một điệu tái tân thanh” (61), th́ Bùi Giáng dùng tiếng
Việt duyên dáng của Nguyễn Du để “tạo âm
vang và dư vang, hé mở những cánh cửa, trao tay cái ch́a
khóa” với sự thận trọng v́ “sợ rằng khó mà
kết hợp đằm thắm, trong một nét phác
họa, những bao nhiêu tâm t́nh sâu kín, theo
một-đường-ánh-sáng-của-tổng-hợp-vội-vàng
sẽ gây ảnh hưởng cho giao thoa” (337) và mong
“người đọc, người xem có đặt chút
tinh thành để đón nhận dư vang, dư
hưởng của những tiếng nói (…) kia không” (535),
hầu cùng nhau tạo nên bầu khí dịu dàng “đầy
sương bóng” cần thiết cho đối thoại.
Không có
được người như Kim Thánh Thán chỉ cho ta “phép
đọc” Thủy Hử, ta hăy cứ thử đến
với Bùi Giáng bằng tấm ḷng rộng mở. Ta có
thể bắt đầu từ đâu cũng
được. Hoặc đi ngay vào phần giới
thiệu tư tưởng Heidegger (47-283), để từ
đó tỏa rộng ra. Hoặc tại sao không lần
giở những trang kể chuyện thần thoại Hy
Lạp hồn nhiên, thơ mộng rồi vui vẻ
bước vào những chương “bay bổng tuyệt
với” giới thiệu Kierkegaard, G. Marcel… trước khi
gặp Camus, Faulkner, Shakespeare, Nietzsche… bi tráng rồi hăy dừng
lại ở phần Heidegger trong mối tương quan
rối rắm với Sartre… để củng cố
một lối nh́n. Mỗi phần đều có cái duyên
tự tại và kết hợp lại nhất khí. Hay nói
như Henry Corbin: “… L’oeuvre est là qui témoigne pour lui – même, qui
annonce sa présence…” (1) (… Tác phẩm nằm đấy, tự
nó nói lên…).
Tác phẩm
“nói lên” những ǵ? Thật khó “men lối lá cồn
để vạch một lối về, tóm thâu những
“đề mục” giữa những làn tơ nhảy múa”!
Ta đành thử tạm làm quen với ông trên vài chủ
đề chính luôn nấu nung xuyên suốt qua các tác phẩm
của ông – hoặc trào dâng trong văn xuôi hoặc thành
ẩn ngữ trong thi ca –:
1. Những
ngộ nhận trong văn chương và triết học
thường là hậu quả tai hại của một
lề lối suy tư “bất cận nhân t́nh”, “sổ sàng vén
tóc nắm tay” v́ đă sử dụng “lư tính” một cách
vội vàng, nông cạn.
2. Đó là
những biểu hiện bên ngoài của một sự
khủng hoảng sâu xa hơn nơi bản thân những
nền triết học là đứa con tinh thần của
một thời đại tha hóa. Tha hóa và những con
đường khác nhau “đồng quy nhi thù đồ”
cùng hướng về một mục đích “ḥa giải”,
“khắc phục tha hóa” là mạch ngầm mănh liệt
của lịch sử tư tưởng: hành đạo và
đạt đạo trong Tam giáo Đông phương,
học thuyết biện chứng trong triết học
cổ điển Đức dẫn tới Hoelderlin, Hegel
và Marx… Ở đây, ông giới thiệu con đường
của Heidegger trong viễn tượng đối
thoại với những con đường khác. Trên con
đường này, ẩn hiện bóng dáng đặc
biệt của Hoelderlin, người thi sỹ - triết
gia sẽ được Heidegger ra công minh giải và Bùi
Giáng diễn dịch lại trong nhiều tác phẩm về
sau của ông (2). Hoelderlin với quan niệm độc
đáo về bản chất và vị trí của ngôn ngữ
thi ca sẽ âm thầm làm người giữ nhịp cho
cuộc đối thoại mà Heidegger mong muốn mở ra.
3. Về
điểm I, không ǵ bằng nghe tác giả Bùi Giáng trực
tiếp lên tiếng qua một vài trích dẫn ngẫu nhiên.
Về điểm II, rắc rối hơn, xin góp đôi
lời đề dẫn và ghi chú để giúp các bạn
đọc vốn ít thời gian, dễ theo dơi.
I. Ông
khởi đầu từ một nhận xét: “… Ngàn năm, trong
địa hạt văn chương chỉ có Một
Sự Kiện: cái “décalage tragique” (lạc điệu bi
thảm) giữa những người sáng tác dành hết tâm
hồn trong tạo phẩm và người học giả
vừa ph́ phà điếu thuốc vừa lật vội
trang văn. Một bên mang tâm thức hay tâm ư, tâm năo hay tâm
t́nh, tâm can của cá nhân ḿnh thao thức theo hồn Logos
thế kỷ, c̣n bên kia để tinh thần chi phối
bởi kinh sử miệt mài. T́m đâu ra một sự
tương giao ở một cơi bờ hiu hắt?”. Đó là
một lối đọc sách “không gây được xao
xuyến cho chúng tôi, không dục chúng tôi bàn hoàn thao thức
muốn lên đường t́m kiếm lại hoặc Camus,
Faulkner, hoặc Woolf…”.
Với
Albert Camus, chẳng hạn: “Bạn đọc sẽ
nhận thấy nhiều nhà phê b́nh đă ngộ nhận
tư tưởng Camus một cách thật tai hại ngu si.
Sở dĩ Camus thường nói đến cuộc
đời phi lư, nói đến nghĩa sa mạc hư vô
của tồn sinh, không phải để rồi ca
ngợi tán dương hành động điên cuồng
của những “héros absurdes” (các nhân vật “người
hùng” phi lư), như Caligula, như Martha v.v… (3). Trước
sau, Camus chỉ có một mối ưu tư đau
đớn: đẩy tư tưởng hư vô
đến cùng độ, đẩy hư vô chủ
nghĩa đến cuối đường, để chúng
ta nh́n rơ những hậu quả gớm guốc của nó.
Có thể, th́ sau đó ta mới đủ sáng suốt
đưa “tinh thần phản kháng” của ḿnh ra mà
chọn lại lối đi về, vượt qua hư vô
chủ nghĩa, chống lại những oái oăm của
thế sự, t́m lại những thăng bằng giữa
đảo điên, chinh phục lại cái tự do chân chính
của con người vốn thường bị lạc
lối giữa mê cung” (562).
V́ lẽ,
“cả hai (Caligula – Martha) cùng thuộc ṇi khát vọng
tuyệt đối, chối bỏ cuộc sống lấp
lơ theo nhân tuần, cả hai cùng sáng suốt nhận chân
bộ mặt gớm guốc của tồn sinh, và cùng
quyết liệt mưu toan phá hoại để t́m lại
một bảng giá trị mới. Nhưng rốt cuộc, cả
hai cùng phản bội cuộc sống v́ đă quên một
điều: Khả năng của con người có
hạn, da máu của con người và thần kinh của
con người không thể chịu đựng mọi
thứ thử thách...”. Ông dẫn thêm câu của Nietzsche: “Nói
suông về mọi hành động vô luân th́ dễ, nhưng
liệu có đủ sức chịu đựng
được chúng không?”.
Từ
đó, “ta cũng nhận thấy rằng, Ngộ nhận
(tên vở kịch với nhân vật Martha nói trên) mang quá
nhiều âm vang. Ta không thể thu hẹp ư nghĩa tác
phẩm của Camus trong nhận định: ngộ
nhận chỉ là một rủi ro hy hữu. Không. Ngộ
nhận của Camus đúng là âm thanh của tiếng
đời bi thương dằng dặc. Tiếng đoạn
trường kim cổ của nhân sinh. Và nói riêng ra, nó c̣n
mang đủ sắc thái đặc biệt của xă
hội Âu Châu trong ṿng nửa thế kỷ nay” (531).
Với
William Faulkner: “Cái khát vọng miên man của Faulkner là t́m
về với cái thời gian
viên măn”. “Từ đó, Faulkner muốn rằng tất
cả những điên đảo, âm u, quỷ loạn trong
tác phẩm của ḿnh (“The sound and the fury” – Âm thanh và
cuồng nộ) phải hé mở một ảnh
tượng bát ngát của Thiên Đường. Cái
métaphysique (siêu h́nh học) của ông c̣n hoài mong cái éthique
(đạo đức, đạo đức học) trong
viễn tượng một cái ontologie (bản thể
học) gần gũi với h́nh nhi thượng Khổng,
cái đạo của Lăo Trang, cái nụ cười bất
tuyệt của Phật pha cái hăi hùng tê buốt của
Pascal” (419-420).
“Ư
hướng đức lư của những tác phẩm
lớn là ư hướng tất nhiên, không bao giờ
thiếu. Và chính nó là cội nguồn kỳ bí của tác
phẩm lớn. Nhưng có điều: nghệ sĩ
tầm thường th́ đem đức lư làm hại tác
phẩm, bởi v́ ngay cái đức lư họ quan niệm
đă hỏng tự ban đầu. Họ làm ta khó chịu.
Đối với nghệ sĩ lớn, không vậy.
Đây là điều rất dễ hiểu: kẻ trung nhân
dĩ hạ vớ vào đâu làm hư tới đó. Kẻ
trung nhân dĩ thượng, trái lại. Họ kết
hợp hồn nhiên cái chân, cái thiện, cái mỹ vào nhau
như là ăn và uống vậy” (347).
Cho nên,
“gương mặt Camus sau này sẽ nằm sát bên h́nh
ảnh Faulkner trong văn học thế giới để
biểu trưng cho sự cố gắng phi thường
của con người kỷ nguyên này chống lại
những hăm dọa khủng khiếp ŕnh rập xô
đẩy nhân gian vào đường tuyệt diệt”
(564). Tóm lại, “Camus đă sống với thời
đại, hiểu trọn vẹn bi kịch của
thời đại, thừa sáng suốt để nhận
ra những điểm “sơ hở” cần thiết
của Nietzsche, những tơi bời mănh liệt của
Dostoievsky, những lời rời ră của Kafka… và
đủ can đảm để lùi về phía sau, cam ḷng
chịu để đời ngộ nhận thái độ
của ḿnh và chậm răi b́nh tĩnh nói tiếng nói muôn
đời của nhân loại khát vọng tự do và công
chính” (585).
Trích
dẫn đă dài, nhưng khó có thể tự ngăn ḿnh thu
nhặt thêm khá nhiều những nhận định sâu
sắc như thế rải rác trong sách của ông. Đây
là một ít: Quyển sách hay không phải v́ lạ. “Thử
xin hỏi: có ǵ mới lạ trên trái đất ngh́n
năm? Một người nông dân lam lũ thời xưa,
có lẽ đă sống hết mọi bi kịch to và
nhỏ của thân phận làm người. Và ngôn ngữ phô
diễn tâm t́nh, cách đây ngót 30 thế kỷ, đă
được những Homère và những chàng Hy Lạp lang
thang xưa kia tận dụng mọi khả năng. Duy có
điều: mỗi thời đại trong cảnh
huống của ḿnh, phải “sống” lại tấn
tuồng nhân thế và “cử” ra những đại
diện – tạm gọi là nghệ sĩ – để bày
tỏ theo giọng điệu ḿnh. Nếu ta có sống
thật, ắt ta nhận ra được âm vang và dư
vang của họ. Ta đă nghe bằng tai hay mắt?”
(534-535) “Toute l’invention consiste à faire quelque chose de rien”. Tất
cả phát sinh, sáng tạo là ở chỗ: dựng lập
lên một cái ǵ bằng những vật liệu không
đâu. Không đâu, bởi v́ chúng tầm thường
lắm: vui, buồn, thương nhớ, ân hận, hoang
mang… Có ǵ là mới là lạ?
Những
Euripique, Homère, ngàn năm vẫn mới. Mỗi lần
trở về với họ, trong ṿng tồn sinh lận
đận, mỗi lần lại cảm thấy ḿnh
tiếp xúc với thâm để cội nguồn của
tư lự nhân gian” (535).
Từ
nhận định đó, ông trở về với văn chương
dân tộc: “ Mọi lời của Nguyễn Du đều
chứa đủ dư vang siêu h́nh của một niềm
hoài vọng (…) Phải luôn luôn nhớ rằng: những
tiếng dặm phần,
đường mây, ngơ hạnh của Nguyễn Du cũng
như mọi ngôn ngữ khác của thiên tài đều mang
nhiều ư nghĩa hiu hắt mênh mông. Đoạn
trường giữa hân hoan. Xa vắng nhớ nhung nằm
giữa lộng lẫy. Muốn suy tư đúng lối
không thể không lên đường dâu biển mấy
cuộc trải qua, giấn ḿnh vào sinh ra tử, mấy
lần đọ mặt với lá cỏ hư không vắng
lặng đoạn trường”.
Câu trích
dẫn sau cùng mang ư nghĩa cốt yếu để
hiểu quan niệm sáng tác của ông: “mỗi thời
đại trong cảnh huống ḿnh, phải “sống”
lại tấn tuồng nhân thế…”, “muốn suy tư
đúng lối, không thể không lên đường dâu
biển mấy cuộc trải qua…”. Hoelderlin và Bùi Giáng sau
giống nhau quá: họ đều lấy sự nghiệp
sáng tạo (thi ca) để bảo chứng cho tư
tưởng của ḿnh, rồi lấy chính cuộc
đời riêng (“gẫm chông gai ấy ai từng
đạp qua”, thơ B.G) bảo chứng cho thi ca. Họ
không “làm” nghệ thuật theo nguyên nghĩa của chữ
“Art” là cái ǵ “giả tạo”, “thêu thùa”, họ sống
thật “với” và “trong” nghệ thuật, tư
tưởng. Mở rộng ra, xin lưu ư: sự trải
nghiệm rất đau đớn trong đời sống
và tâm thức nơi một cá thể (ontogenèse) phản ánh
thu gọn của quá tŕnh đào luyện lâu dài xét trên b́nh
diện cả giống loài (polygenèse) là điều kiện
thiết yếu để khắc phục tha hóa, một
chủ đề lớn thường được
nhắc đi nhắc lại, đặc biệt trong
triết học Đức từ Lessing, Herder, Kant
đến Hoelderlin, Hegel, Heidegger qua các từ hệ trong
như trải nghiệm (Erfahrung), đào luyện (Bildung)…
c̣n được trở lại trong các trang sau.
Thiếu
sự trải nghiệm ấy, những ngộ nhận c̣n
gây hậu quả trầm trọng hơn nhiều trong
lĩnh vực triết học. Ở đây, ông chỉ nêu
và phân tích khá kỹ một vài trường hợp
điển h́nh như giữa Sartre, J. Wahl với Heidegger
để từ đó liên tưởng đến biết
bao trường hợp tương tự trong lịch
sử dài dằng dặc của triết học.
Có những
ngộ nhận do ác ư không đáng nói làm ǵ. Có những
ngộ nhận do không đạt đến
được độ cao cần thiết ngang nhau
để cùng tiếp tục suy tư là điều
thường gặp. Có những ngộ nhận do bị
làm “tù binh” trong ṿng vây của lề lối suy tư của
chính ḿnh. Đó là điều mà Heidegger muốn truy nguyên và
phơi bày ra khi ông phê phán cả nền siêu h́nh học Âu
Châu hàng ngh́n năm ngộ nhận bản thân triết
học Tây Phương. Sự ngộ nhận khiến cho
Physis trở thành cái Idea, chân lư (Aletheia) thành sự nghiệm
đúng. Logos trở thành mệnh đề, thành các phạm
trù của tư duy lư niệm, khiến cho Hữu thể (das
Sein) luôn bị khách thể hóa thành
một vật thể (das Seiende), và vật thể chỉ
c̣n trơ lại là một đối tượng nghiên
cứu, một đồ vật, một món hàng hóa, một
giá trị trao đổi đơn thuần. Ông gọi
đó là sự “lăng quên hữu thể” (Seinsvergessenheit), v́ qua
quá tŕnh khách thể hóa, người ta đă quên mất nhờ
đâu mà có thể khách thể hóa, đă không c̣n biết “nghe
ra từ độ suối khe” (4) khi hữu thể tự
phơi mở ra cho con người trong kết hợp uyên
nguyên với thời gian.
Đó
cũng là trường hợp điển h́nh khác mà Bùi Giáng
có nhắc qua khi ông dẫn nguyên văn lời của Merleau
Porty trách người khổng lồ Hegel đă “nhầm
lẫn dị thường đối với tư
tưởng Đông Phương”, xin tạm dịch: “Hegel
và những kẻ theo ông không thừa nhận tư
tưởng Đông Phương xứng danh triết
học v́ xem tư tưởng ấy c̣n xa lắm mới
vươn tới tŕnh độ Khái niệm”… Quan niệm
về tri thức của chúng ta (Tây Phương, ND)
vốn quá nghiệt ngă khiến cho mọi lối tư duy
khác hoặc bị xem là những phát họa sơ khai của
khái niệm hoặc bị coi thường là phi lư tính” (5).
Vấn đề đáng được nghiên cứu riêng
biệt và cặn kẽ, và thực ra, không chỉ tư
tưởng Đông Phương mà cả tư
tưởng cổ đại Hy Lạp và của các
tiền bối của ông đều được Hegel
mang ra đánh giá dưới ánh sáng và trong khuôn khổ
của “phép biện chứng Tinh thần” vừa rất sâu
sắc ở mặt này, vừa không khỏi ít nhiều
bất công, khiên cưỡng ở mặt kia. Tuy nhiên,
đây là những lầm lẫn có thể có của kẻ
thiên tài, là “quyền được sai lầm” của các
triết gia lớn mà người đời sau cần
biết tôn trọng.
C̣n một
loại ngộ nhận nữa mà Bùi Giáng rất sợ – và có
lẽ ai cũng vậy – là từ những kẻ ít
nhiều tự xưng là môn đệ hoặc gần
gũi “lắng theo là lắng theo cái vành ngoài, không biết
tới cái vành trong nung nấu” (539). Họ làm cho mảnh
đất màu mỡ của suy tư bị sa mạc hóa.
“Thật quả không ngờ đức Khổng mà cũng
gặp ông Tổ Siêu thực ở giữa một Sầu
Thành… Sa mạc của Đức Khổng tê buốt trong
những tiếng “Đồi, Nuy, Hoại” (6), kẻ nào là
chính danh thủ phạm gây ra? (398).
Đức
Khổng giận dữ nêu đích danh, đó là “lũ nho
hương nguyện”, bọn giặc của Đức.
(Hương nguyện, đức chi tặc dă, Luận
ngữ - thiên Dương Hóa 17). Nếu không thể t́m
được những bậc chí thành, th́ ông thà giao du
với những kẻ “cuồng, quyến”, v́ dù sao,
“cuồng” c̣n có óc cởi mở, cầu tiến; “quyến”
c̣n có chút lương tâm để có lúc biết dừng.
(“Cuồng giă tiến thủ, quyền giă hữu sở
bất vi”, Luận ngữ - thiên Tử Lộ 13). Bùi Giáng
gọi chung đám “hương nguyện hiện
đại” là “học giả hư ngụy”. Nơi đây
không có sự tranh luận ṣng phẳng về học
thuật, nói ǵ đến đối thoại v́ những
cơ sở của đối thoại bị thủ tiêu
từ trong trứng nước. Chỉ có sự giả trá
lộng hành. Họ không những làm cho lạc lối mà c̣n
nguy hại hơn, khiến cho người đi sau chán
ngán, xa rời và ngoảnh lưng lại với chính Con
đường. Bùi Giáng chia sẻ lời nói trầm
trọng của Heidegger: “Sa mạc lớn dần. Nghĩa
là hoang tàn lan rộng. Hoang tàn gớm guốc hơn tàn phá.
Hoang tàn c̣n ghê tởm hơn tận diệt. Tận diệt
là tàn phá những ǵ được xây dựng từ
trước tới nay, c̣n hoang tàn chặn đứng con
đường tương lai của sinh trưởng và
ngăn cản mọi Cuộc Xây Dựng Mai Sau” (398).
Công
cuộc “tái tạo”, v́ thế, cần thiết và khó
khăn. Nếu một lúc nào đó, – trong cái thế
giới gảy đổ này (le monde cassé nói theo G. Marcel) – người
ta “không c̣n sức lực để vươn lên ngang tŕnh
hạn của thế giới hoằng đại của
tinh thần: thực hiện thế giới tinh thần
một cách chân chính trong tâm thức ḿnh”, th́ theo Heidegger,
chẳng c̣n cách nào hơn là chịu khó “suy tư một cách
suy tư hơn chút nữa” (denkender Denken) bằng sự
“chiêm nghiệm tinh thành” (Andenken). Trong ư đó, Bùi Giáng, trong
các quyển sau, có khi mượn lối nói của Thiền
gia “bách xích can đầu hoàn tu cánh tiến nhất bộ”
(chót vót cây sào trăm thước, nên gắng thêm một
bước chân nữa), hay như ở đây, ông kêu
gọi: “xin linh hồn tuyết bạch của Suy Tư hăy
đăm chiêu hơn chút nữa, lúc đi về trong
Cổ Lục bên đèn”. V́ lẽ “dư vang của Văn
là dư vang của vô ngôn. Vô-suy-tư là cái ẩn kín nằm
trong lời ẩn kín” và “Cái phần Bất-Suy-Tư trong
trang-sách-giới-hạn, kẻ đọc sách phải
mở phơi nó ra” (543).
Ông thích thú
t́m gặp điều hiếm hoi đó trong “ḍng giao cảm
giữa người bàn luận và người sáng tác,
giữa triết gia con đẻ của hiện
tượng luận và người thi sĩ “témoin du
spirituel” (nhân chứng của siêu linh): như Heidegger bàn
tới thơ của Hoelderlin hoặc G. Marcel bàn tới
thơ Rilke” (337). Thi nhân gặp thi nhân là tự nhiên như
Nguyễn Du nhớ Đỗ Phủ: “Dị đại
tương liên không sái lệ” (Sống khác thời nhau
nhưng thương nhau luống rơi nước
mắt). Giữa triết gia và thi nhân th́ khác, khó hơn.
Phải hoằng đại như Khổng Tử
đọc Kinh Thi. Hoặc cần “mang đủ trong ḿnh
mạch thơ của xứ Đức động
nguồn v́ trời Hy Lạp ngàn xưa đă dậy
bừng trong Hoelderlin, Nietzsche thế kỷ trước. Cũng
v́ lẽ đó mà không ai nói về thơ với những
lời phi thường như Heidegger khi ông bàn tới Hoelderlin”.
“Thi nhân và triết nhân đứng trong ngôn ngữ là
đứng trên hai chóp núi xa biệt vô cùng nhưng ṿi
vọi như nhau nên cùng đón nhận như nhau mọi
sương tuyết phiêu bồng hiu hiu về với Chị
- Chị Kiều là thiên thu Hồn Logos” (399). Câu văn “phiêu
bồng” của ông d́u ta về một phương trời
của những cuộc tao ngộ lạ thường.
II. Platon
nghi ngờ khả năng nhận thức chân lư của thi
ca, nên ông muốn đuổi hết thi sĩ ra khỏi
nước cộng ḥa lư tưởng của ông (17) mặc
dù – hoặc chính v́ – triết của ông mới thực là
một trường ca vĩ đại tràn ngập hồn
thơ! A. G. Baumgarten, người được vinh
hạnh là cha đẻ của từ “mĩ học”
hiện đại, mới thực sự đứng
hẳn trong truyền thống duy lư, dứt khoát xem thi ca chỉ
là “quan năng nhận thức hạ đẳng” (Facultatis
cognoscitivae inferiores) (8).
Ta
đột ngột gặp Hoelderlin với khẳng
định ngược lại: “Thi ca (…) rồi sẽ
trở lại như lúc khởi nguyên: là người
thầy của nhân loại; v́ rằng chẳng phải
triết học, cũng chẳng phải lịch sử mà
chỉ riêng nghệ thuật thi ca mới trường
tồn hơn tất cả mọi ngành nghệ thuật
khác” (9). Heidegger th́ xem Hoelderlin là “Thi sĩ của Thi sĩ”,
không phải để ca ngợi cá nhân nhà thơ mà muốn
nói điều sâu xa hơn: “Tại thể - người
của chúng ta trở thành kẻ mang sức sống, kẻ
hiện thân cho sức mạnh của thi ca” (Unser Dasein zum
Lebenstraeger der Macht der Dichtung”). Minh giải điều này
vượt khỏi khuôn khổ của bài viết, chỉ
xin lưu ư: “Thi ca” nói ở đây được hiểu
theo nghĩa rất rộng. Trong sách này, như đă nói, Hoelderlin
chỉ mới ẩn hiện và sẽ hiển lộ
nhiều hơn ở các quyển sau, nhưng cũng chủ
yếu ở phần thi ca qua sự minh giải cao xa, khó
hiểu của Heidegger. Do đó, để dễ theo dơi
văn mạch và chuẩn bị cho việc t́m hiểu
Heidegger trong quyển sách này, tưởng cần dừng lại
đôi chút ở phần triết học, tức cơ
sở tư tưởng của Hoelderlin c̣n ít
được giới thiệu, dù chỉ trên vài nét
chấm phá:
1. Hoelderlin
(1770-1843) (10) là người bạn “nối khố” chung
trường, chung pḥng với Schelling và Hegel khi c̣n trẻ.
Đều là những khuôn mặt lớn của triết
học cổ điển Đức, họ giống nhau
ở khởi điểm, khác nhau ở cuối
đường và cùng gây ảnh hưởng lớn lao.
Nếu ta
đồng ư với J. F. Lyotard (11) - một tác giả tiêu
biểu của trào lưu “hậu hiện đại”
(post-moderne) ngày nay – rằng ba tiêu điểm đặc trưng
của thời “hiện đại” (tạm hiểu là
thời cổ điển, phân biệt với “tâm thức
hậu hiện đại” từ những năm 70 của
thế kỷ này) là “phép biện chứng của Tinh
thần, giải minh học về ư nghĩa và sự
giải phóng cho chủ thể tư duy và lao động”,
th́ Hoelderlin quả thuộc về truyền thống
ấy. Cả ba đặc trưng trên đều có trong
tác phẩm của ông, nhất là đặc trưng
đầu tiên vốn thường được gắn
liền với tên tuổi Hegel dù ông mới là người
thực sự có công đầu. Quan niệm của ông
về động lực tự đào luyện
(Bildungstrieb) của giống loài, huyền thoại về Tinh
Thần nguyên thủy tự tha hóa trong thế giới
vật chất rồi qua quá tŕnh phát triển biện
chứng của lịch sử mà tự nhận thức
chính ḿnh – tuy là thành quả suy tư chung với Hegel khi c̣n
trẻ và sau này được Hegel phô diễn rực
rỡ, – nhưng các nghiên cứu mới đây cho thấy
về điểm này, Hegel đă học được
rất nhiều ở Hoelderlin hơn là ngược
lại. Truyền thống tư duy về lịch sử
theo phong thái Hegel bắt nguồn từ Hoelderlin nhiều
hơn người ta tưởng.
2. Ông tư
duy theo mục đích luận. Tinh thần con người
và lịch sử nói chung đều hướng về
một mục đích. Toàn bộ tồn tại đều
mang tính tiến tŕnh. Sự sống tự vận
động theo một ṿng quay ly tâm (exzentrische Bahn). Khởi
nguyên là một “thời đại hoàng kim”, xét ở góc
độ lịch sử giống loài đó là trạng thái tự
nhiên với sự ḥa điệu nguyên thủy; xét ở
lịch sử cá thể là tuổi ấu thơ hồn
nhiên, thơ dại. Giai đoạn phát triển tiếp
theo là sự tha hóa tất yếu (theo nghĩa vừa
tất nhiên vừa cần thiết) của sự cá
thể hóa, sự phân liệt chủ thể - khách thể,
sự phân đôi giữa con người và tự nhiên. Nơi
cá thể, đó là giai đoạn phản tư, biểu
hiện ở sự Khai sáng cho thấy con người không
c̣n là một với thế giới vật thể chung
quanh. Con người lớn lên, đồng thời mang
trọn nỗi đau của sự cá thể hóa với
ḷng hoài mong trở về với trạng thái sơ nguyên.
Đây chính là thời đại của chúng ta,
được Hoelderlin gọi ẩn dụ là “đêm
trường", là “thế dạ” trong cách dịch
của Bùi Giáng (die Nacht). Để thắng vượt
nỗi đau ấy, con người t́m kiếm mọi
nẻo đường để khắc phục tha hóa,
“ḥa giải” với thiên nhiên, với người khác, với
chính ḿnh, với cái siêu linh, trên một tŕnh độ khác,
cao hơn, không giản đơn, để “đạt
thân”, ở chốn “quê nhà đích thực không c̣n sự
thống trị u tối nào”.
Lư luận
về lịch sử theo kiểu biện chứng –
tiến tŕnh được hệ thống hóa một cách
duy tâm nơi Hegel – hay cải tạo một cách duy vật
nơi Marx sau này – đă t́m thấy những bước
đi đầu tiên trong các tác phẩm của Hoelderlin.
Và Heidegger,
trong cách đặt vấn đề về hữu thể có
khác hơn, nhưng cách giải đáp của ông về
việc khắc phục tha hóa – hiện hữu đích
thực/không đích thực (eigentlich/uneigentlich), có ư
thức về sử tính của hữu thể/lăng quên
hữu thể (seingeschichtlich/seinsvergessen) – cũng không
khỏi lấy cảm hứng từ cách tiếp cận
này.
3. Hoelderlin
khác với Hegel, bạn ông, ở kết luận: ông không
tin rằng cơ sở hiện thực tối hậu
của tri thức, tức nền móng của hệ
thống triết học có thể đạt
được bằng một động tác của tư
duy. Cả hai ông đều chung một tiền đề: mọi
phát biểu về cái Toàn thể đều phải hợp
với lư tính, nhưng với Hoelderlin, chưa thể có
một phát biểu nào như thế, nhất là nếu
chỉ dựa vào lư tính đơn thuần. Nếu Hegel tin
rằng ḿnh đă nắm chắc cái Toàn thể trong tay – Lư
tính của ông đă thoát ly chủ thể cá nhân, đứng
hẳn trong miếng đất của cái Tuyệt
đối và triết học là biểu hiện tối cao
của cái Tuyệt đối – tức Lư tính – tự nhân
thức chính ḿnh, th́ Hoelderlin chỉ xem đó là một
dự báo (die Ahnung) c̣n phải chờ bản thân Lư tính
kiểm nghiệm. Trước cả Nietzsche, Dilthey và
trước rất xa Horkheimer, Adorno và các nhà “hậu
hiện đại”, ông lo ngại trước tính “công
cụ” của lư tính: “Từ giác tính đơn thuần (der
Verstand), không thể có triết học, v́ triết học
là cái ǵ sâu xa hơn nhiều những tri thức hữu
hạn về cái hiện tồn. Từ lư tính đơn
thuần (die Vernunft) cũng không thể có triết học,
v́ triết học c̣n là cái ǵ khác hơn là đ̣i hỏi mù
quáng một sự tiến bộ không ngơi nghỉ
để kết hợp rồi tách rời các vật
liệu khả giác” (12). Nếu triết học không là ǵ
khác hơn là tư duy thuần túy lư tính, th́ so với thi ca,
nó lại bất cập: không thể đặt nền cho
đạo đức học. Từ lư tính đơn
thuần, không thể rút ra lư tưởng nhân đạo
hoặc thực tiễn cuộc đời. Lư tính không
tự đặt nổi nền cho chính ḿnh, cũng không
thể mang lại mục đích cho cuộc sống. Không
mang lư tưởng lại cho lư tính, thậm chí nó sẽ
trở thành công cụ khủng bố bạo tàn. (Hegel
về sau cũng có phân tích sâu sắc mặt này trong
“Hiện tượng học Tinh thần”). V́ thế, nó
chỉ là quan năng hạng nh́, cần được
định hướng bởi “cái đẹp của tinh
thần và của trái tim”. Chúng ta phải huy động toàn
bộ khả năng nhận thức của con
người nếu muốn mang lại chân lư và ư nghĩa
cho cái Toàn thể. Toàn bộ năng lực ấy của
con người, theo ông, chính là nghệ thuật thi ca theo
nghĩa rất rộng. Là đứa con của thời
Khai sáng, hẳn nhiên ông chỉ chấp nhận một tri thức
có thể đứng vững trước sự kiểm
tra của Lư tính theo nghĩa Trí tuệ (Ratio), ông không thể
đi giật lùi trước sự Khai sáng như các nhà
lăng mạn, điều ông muốn là một sự “khai sáng cao hơn” mà Hegel cho rằng
đă trở thành sự thật trong triết học của
ḿnh. Cho nên, với Hoelderlin, tự do có nghĩa là tự giải
thoát khỏi những rào cản của nhận thức, là
vươn tới cái c̣n Bỏ Ngỏ (das Offene).
H́nh tượng
điển h́nh của ông, v́ thế, là Hyperion, tên nhân vật
chính trong tác phẩm lớn của ông, là h́nh tượng con
người tự đào luyện, bị tha hóa và không ngừng
tự khắc phục tha hóa. Hyperion luôn bị đánh mất
thiên đường của ḿnh – qua h́nh ảnh “đoạn
trường" của nàng Diotima – và phải nỗ lực
không ngừng để lên đường t́m lại. Tên tức
là người: Ion (tiếng Hy Lạp) là kẻ lữ hành,
Hyper là quá mức độ. Hyperion, Hyper-Ion: người lữ
hành miên viễn, kẻ trường lữ.
4. Như
đă nói, “thi ca” (Dichtung, Dichtkunst) được Hoelderlin
bàn cặn kẽ theo nghĩa hẹp lẫn nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, phản đối mỹ học duy lư của
Baumgarten, ông cho rằng, chính thi phẩm đóng vai tṛ ḥa âm, điều
tiết (Akkord) cho các năng lực tinh thần khác của
con người, nó điều tiết cả cảm tính, giác
tính và lư tính (các khái niệm này được hiểu theo
nghĩa của Kant). Theo nghĩa rộng, thi ca phản ánh tính
cách “hyperpol” của tinh thần con người luôn có khả
năng suy tưởng vượt ra khỏi ranh giới của
kinh nghiệm, nó tạo nên các bước nhảy vọt về
chất trong tư duy, tạo ra được cái chỉnh
thể (Einheit) mà tư duy phản tư (trong đó, chủ
thể, khách thể và hành vi phản tư tách rời nhau) không
thể thực hiện (xem thêm (13)). Từ tiền đề
duy tâm khách quan, Hoelderlin xem thi ca là sự tái tạo về mặt
cấu trúc quy luật vận động của Tinh thần,
và Tinh thần cần thông qua thi sĩ (với Hegel là triết
gia) như công cụ tất yếu để tự nhận
thức. Cả các quan hệ xă hội, văn hóa, và mối
liên lạc giữa con người và tự nhiên tự chúng
đă là “những tác phẩm nghệ thuật” do “thiên nhiên”
tạo ra theo bản chất của con người. Triết
gia – Thi sĩ có cả nghĩa vụ góp phần thực hiện
lư tưởng xă hội, mang tri thức của ḿnh ra phục
vụ cho tự nhiên và xă hội theo lư tưởng của
cái đẹp (xem thêm (14)). Cả tôn giáo – về bản chất
cũng mang tính thi ca (15). Điều đó không có nghĩa rằng
tôn giáo và thi ca là một, càng không phải chuyển thi ca
thành đức tin tôn giáo mà v́ cả hai có cùng cấu trúc ẩn
tàng.
Mỗi bài
thơ (Gedicht) cũng mang cấu trúc của Tinh thần như
một tái tạo: nó mang tính “đối lập-thống nhất”
để chuyển được cái “đối lập-thống
nhất” là thành tựu của Tinh thần ở bên ngoài làm
chất liệu bên trong cho một toàn thể biện chứng.
Hegel cũng nh́n nhận nghệ thuật, tôn giáo, triết học
đều có cùng nội dung là cái Tuyệt đối, nhưng
ông phân cấp “cao thấp”: nghệ thuật phản ánh cái
tuyệt đối bằng cảm quan (Anschauung), tôn giáo bằng
biểu tượng (Vorstellung), và triết học bằng
tư tưởng thuần túy (reine Gedanke) một cách tách rời.
Hoelderlin muốn kết hợp lại thành một chỉnh
thể, hay như cách nói của ông: “Huyền thoại – (tức
nghệ thuật thi ca) phải mang tính triết học để
mang lại lư tính cho quần chúng, c̣n triết học phải
trở thành thi ca để làm cho các triết gia biết cảm
xúc” (16).
Muốn vậy,
phải đi t́m Ngôn ngữ mới. Hoelderlin ư thức sâu sắc
về mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ.
Trong “Mnemosyne”, ông xét t́nh trạng tha hóa hiện nay của
con người – giai đoạn đối lập biện
chứng quyết liệt, trực tiếp trong đời
sống của giống loài và của từng cá thể, – đồng
thời cũng là sự tha hóa của Ngôn ngữ:
“Chúng ta chỉ là những kư hiệu
trống rỗng, vô nghĩa lư
chúng ta dửng dưng vô cảm và
gần như đánh mất hết ngôn ngữ về
nơi xa lạ” (17).
Ngôn ngữ
ṃn cũ rút giảm cái mới của Kinh nghiệm mới
vào ngôn ngữ của cái cũ, cái đă biết, rồi quên
lăng đi. Ông quyết tạo ra một ngôn ngữ thi ca mới,
một cung điệu mới (Sangesart) bắt buộc phải khác với ngôn ngữ trước
nay. “Bắt buộc” v́ đây là yêu sách nội tại, chứ
không phải để “lập dị”, tương ứng
với giai đoạn phát triển hiện tại của
tri thức và đời sống. Ông cho rằng, về khách
quan, con người đang sống trong những điều
kiện cho phép họ vươn tới nhận thức đầy
đủ về chính ḿnh và về thế giới; về chủ
quan, ông tin vào năng lực giải minh (hermeneutisches
Vermoegen) của con người: “Con người có thể đặt
ḿnh vào hoàn cảnh người khác, có thể làm cho thế
giới của người khác thành thế giới của
chính ḿnh” (18) mà ông gọi ẩn dụ là cuộc “hội thoại”
(Gespraech) (19). Con người đủ trưởng thành
cho đối thoại. Và ngôn ngữ tương ứng mới
làm cho cuộc đối thoại thành tựu.
Thi ca, như
thế, có tác dụng thanh tẩy (Katharsis): người thi
sĩ sống trọn vẹn bi kịch của thời đại
(kiểu nói khác của Hegel: “triết học thấu hiểu
thời đại ḿnh bằng tư tưởng”), xem bi kịch
là điều kiện phát triển tất yếu của đời
sống, truyền đạt cho người cùng thời để
họ không sợ hăi trước bước đi khủng
khiếp của lịch sử, làm tăng thêm sức sống
để chào đón thời đại mới.
Thời đại
mới nói ở đây là “thời đại hoàng kim” được
khôi phục, là sự Trở-Thành-Một (Eins-Werden) với
cái đă bị tha hóa (kể cả với nội tâm bị
tha hóa của bản thân ta) trong một trạng thái “Tỉnh
thức hoàn toàn của Tinh thần”, một “Hiện tại
miên trường của cái Ở đây và Bây giờ” (volle
Geistes – Gegenwart), trong đó, Quá khứ và Tương lai đều
được vượt bỏ (aufheben) một cách biện
chứng. (Như ta biết, về sau, Heidegger sẽ đi
sâu vào điểm tinh túy này một các âm u, kỳ tuyệt
như thế nào trong phân tích của ông về Thời gian.
Các nhà Thiền học cũng có thể gặp ở đây
ít nhiều sự tương ứng…).
5. Như có
nói qua ở trên, trong khi Hegel tin rằng đă đạt được
chân lư qua hệ thống triết học của ḿnh th́ với
Hoelderlin, chân lư c̣n ở phía trước. Đây là điểm
khác cơ bản về nhận thức luận giữa ông
và Hegel đồng thời cũng có chỗ khác với trào
lưu “hậu hiện đại” hiện nay đang muốn
xem ông như một đồng minh. (Chúng tôi cũng có gợi
qua việc thử đọc thơ Bùi Giáng theo kiểu “hậu
hiện đại” trong bài viết nhỏ cách đây mười
năm (20)).
Trào lưu
“hậu hiện đại” (với các tên tuổi như
Lyotard, Derrida, Deleuze… ở Pháp và M. Frank, W. Welsch… ở Đức)
bất tín nhiệm mọi loại hệ thống triết
học dựa trên lư tính để vươn tới cái Toàn
thể mà họ gọi là những “chuyện hư cấu
khổng lồ”. Triết học hậu hiện đại
đi đến kết luận giống như Hoelderlin về
sự bất lực của lư tính đơn thuần, nhưng
Hoelderlin rút ra từ đó những hệ quả khác hẳn,
ở đây chỉ xin nói lướt qua hai điểm chính:
Nếu các
triết gia hậu hiện đại tập trung phê phán
Hegel ở chỗ Hegel xem cái chân lư chỉ có thể là cái toàn
thể (Das Wahre ist das Ganze) th́ cũng là đă đả kích
chính tiền đề mà Hoelderlin có chung với Hegel.
Hoelderlin giữ vững nguyên tắc về cái toàn thể, ông
chỉ muốn nói: Các quan năng khác – ngoài lư tính – có thể
cảm nhận nhiều điều hơn lư tính, do đó,
thi sỹ dự cảm được
cái toàn thể mà người ta không thể phủ nhận
một cách đơn giản chỉ v́ chưa được
lư tính kiểm nhận. Ngăn cấm không cho phát biểu về
cái Toàn thể th́ cũng tức là lại muốn đặt
mọi quan năng khác dưới sự điều chỉnh
độc đoán của lư tính. Hoelderlin không hướng về
cái phi lư tính thần bí (irrational) hay phản lư tính
(antirational), h́nh như ông muốn hướng tới cái siêu
lư (metarational).
Trong khi phê
phán quan niệm về cái Toàn thể trong triết học cận
đại, các nhà hậu hiện đại lại viện
dẫn lối tri thức phản tư của thời khai
sáng, bác bỏ mọi cái ǵ không kiểm chứng được
(ví dụ: các giá trị tối cao, bản thể tuyệt đối,
ư niệm, Tinh thần tuyệt đối…). Hoelderlin th́ rất
hoài nghi khái niệm lư tính rất tĩnh tại của thời
khai sáng. Theo ông, thật là vô lư khi cho rằng những ǵ tri thức
con người đă đạt được đến
nay là không thể vượt qua được nữa, xét
về mặt lịch sử. Ông nói đến “tiếng gọi
hướng về cái Bỏ Ngỏ” (Der Ruf ins Offene), về
kẻ “lữ hành miên viễn” là nói ẩn dụ về niềm
hy vọng rằng lịch sử và cả tri thức con
người, là chưa hoàn tất. Tinh thần con người
– như đă dẫn – có tính “hyperpol”, nó tiếp tục suy
tư, t́m kiếm. Đồng thời năng lực “hyperpol” ấy
chỉ phát huy được nếu con người được
kích thích để vượt lên quá sức ḿnh. Chân trời
không phải tự phơi mở ra cho những người
thụ động, tinh thần con người phải luôn
tỉnh thức, sẵn sàng đón nhận những kinh nghiệm
và h́nh thái suy tư phá vỡ hạn độ hiện có. Bổ
sung cho sự phản tư thông thường, cần một
h́nh thái “phản tư mang tính thi ca” (poetische Reflexion).
Câu thơ nổi
tiếng của Hoelderlin: “Con người, sống trên mặt
đất, như một thi sĩ” (Dichterisch, auf der Erde,
wohnt der Mensch) là hiểu theo nghĩa đó.
6. Chúng ta
đă dừng lại khá lâu – tuy rất sơ sài – với
Hoelderlin như một sự chuẩn bị tối thiểu
để bước vào với Heidegger trong quyển sách này.
Giống như rời thế giới vật lư của Newton để bước
vào thế giới lượng tử, đọc Heidegger rất
khó. Bùi Giáng t́m thử một lối vào bằng ngôn ngữ và
“cung điệu mới” của riêng ông. Xin dành sự tinh khôi
trọn vẹn mời bạn đọc tự cảm nhận
và đánh giá. Đúng như G. Figal nhận định: “Điều
khó phủ nhân là: Sau Heidegger, không thể hiểu được
triết học Âu Châu thế kỷ 20 mà không biết tới
Heidegger” (21) và “Nếu người ta muốn suy tư khác ông th́ trước hết
hăy suy tư với ông đă
(22). Qủa vậy, không có ông th́ triết học hiện
sinh của J. P. Sartre khó h́nh thành cũng như Đạo đức
học của E. Lévinas; H. G. Gadamer
cũng không phát triển được giải minh học
triết học (philosophische Hermeneutik), Michel Foucault và J.
Derrida chắc cũng sẽ viết khác nếu không tiếp
cận với ông. Ông cũng là triết gia thế kỷ XX
có cái nh́n mới mẻ về lịch sử triết học:
nhờ ông mà các tác giả cổ điển như Platon,
Aristotle, Kant, Hegel được – và cần được
– đọc lại theo kiểu mới. Không có ông th́ các di văn
ít ỏi của Parmenide và Heraklit chỉ c̣n là đồ cổ.
Nietzsche, Kierkegaard, Dilthey… nhờ ông mà được giới
triết học trọng thị trở lại. Ông phục
hồi triết học trong mối gắn bó mật thiết
với truyền thống, đồng thời gợi mở
nhiều cách lư giải lư thú độc đáo. Cũng v́ thế,
đọc ông càng khó nếu trước đó không nắm
vững ít nhiều Hegel, Husserl, Dilthey, Hoelderlin, Nietzsche, E. Juenger, nhất là Platon và Aristote.
Đặc điểm
chủ yếu của thời đại chúng ta – theo ông – là
xu thế hướng về tính khách quan của đối
tượng mà ít khi chịu suy nghĩ về ư nghĩa và điều
kiện khả thể từ đâu có xu hướng đó.
Xu hướng này bắt nguồn như một bước
tiến bộ từ việc xem con người có vị trí
ưu tiên tuyệt đối trong vũ trụ. Điều đó
trở thành hiển nhiên kể từ thời cận đại,
khi “con người” chứ không phải “Tinh thần” trở
thành đối tượng chính của triết học (đặc
biệt từ Feuerbach) song đồng thời mọi cái c̣n
lại chỉ hiện diện như đối tượng,
như vật thể luôn là “đối thủ” cần bị
khuất phục của tư duy và hành động của
con người. Đó lại chính là “di hại” lâu dài của bản
thân truyền thống siêu h́nh học “lăng quên hữu thể”,
luôn làm cho hữu thể bị chết cứng như một
vật thể, dù được mang danh hiệu nào: Sự
Thiện tối cao, Thượng Đế, Tinh thần tuyệt
đối, Ư chí cường lực… Cách nh́n một chiều
ấy gây nên tổn hại gấp đôi: thế giới
quanh ta ngày càng bị vật hóa, lùi xa ta; c̣n ta trơ lại
trong cái trục chủ thể trống vắng, mất hết
ư nghĩa (ví dụ như trong một quan niệm y học
máy móc xem con người toàn diện của bệnh nhân chỉ
như một thể xác đơn thuần. Cơ cấu tâm-thể
toàn diện bị đổ vỡ hoàn toàn).
Người
ta đă hiểu lầm câu nói nổi tiếng của
Protagoras “con người là thước đo của vạn
vật” theo nghĩa thuần túy “duy chủ thể” của
thời cận đại mà quên rằng câu nói ấy cũng
ngụ ư về tính hữu hạn của tri thức con người.
Tri thức ấy thiết yếu gắn liền với một
thực tại toàn diện, không thể “đối tượng
hóa” hết được. Ngay Kant cũng c̣n hiểu tự
do theo nghĩa tự cưỡng chế chính ḿnh
(Selbstzwang), xem chính ḿnh là đối tượng, là “đối
thủ” phải chinh phục. Ngược lại, khái niệm
tự do đích thực của cổ Hy Lạp là con đường
thênh thang hướng về cái Bỏ Ngỏ (das Offene), nó t́m
chọn cái cần cho ḿnh trong sự phong phú xinh tươi
của thế giới. Cũng thế, ư thức không có nghĩa
là cái ǵ tự tại, tự cô lập mà luôn kết hợp
hữu cơ với những ǵ ư thức hướng về.
Cũng như ư thức, ngôn ngữ đan dệt một làn
da sống động, ấm áp bao quanh thế giới, không
phải là sản phẩm khô khan của trừu tượng
hóa, mà cũng chia sẻ khổ vui với thế giới.
Heidegger muốn
vượt qua, – ông nói nhẹ nhàng hơn – muốn “cho qua”
(“verwinden” thay v́ “ueberwinden”) cách nh́n củ để hướng
tới – bằng cách trở về (Rueck-tritt) với sự
hồn nhiên đầy ngưỡng mộ đối với
thế giới (Weltfroemmigkeit) đă bị đánh mất, bị
lăng quên, từ đó làm cho thế giới trở lại là
nơi con người có thể “cư ngụ” được,
thành “ngôi nhà” êm ái, c̣n con người biết nâng niu bảo
vệ, làm kẻ mục đồng “canh giữ” cho “quê hương”
đích thực của ḿnh.
Điều dễ
hiểu là cách đặt vấn đề như trên (đă
bị quá giản lược) của Heidegger đă tác động
mạnh mẽ đến tâm thức của người Tây
phương hiện tại, từ việc cần nh́n nhận
lại những di sản văn hóa và tư tưởng của
quá khứ đến việc chọn thái độ trước
những yêu cầu bức bách của đời sống hiện
đại: sự khủng hoảng sâu sắc trong tâm lư cá
nhân trước sức ép ngày càng mănh liệt của cuộc
sống vật chất, quan hệ phức tạp giữa
con người với thế giới kỹ thuật và môi
trường sinh thái, giữa nền văn minh Tây phương
trong cuộc đối thoại và ḥa nhập với các nền
văn hóa khác.
Đồng thời
cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề lư luận
và thực tiễn, nơi đó câu hỏi vẫn c̣n nhiều
hơn câu trả lời. Ở đây chỉ xin nhắc qua
vài điểm khá gần gũi với chúng ta:
Với mỹ học hiện
đại:
Heidegger và
tiếp sau ông là Gadamer – từ nguồn cảm hứng với
Hoelderlin – đă và tiếp tục gây nhiều tranh luận sôi
nổi trong mỹ học, chủ yếu xoay quanh vấn đề
tương quan giữa nghệ thuật và chân lư. Người
nghệ sĩ – hay nghệ thuật nói chung – có “ưu thế”
đặc biệt nào trong việc tiếp cận chân lư? Nếu
có, th́ từ đâu “biết” được điều ấy
nếu không phải lại từ tư duy triết học?
Và triết học sẽ làm ǵ hay tự “đào nhiệm” để chuyển
việc “bất khả” ấy cho mỹ học như R.
Bubner đă trách (23)? Có thể lại trở về với
sự “phân công” trước đây: triết học “phụ
trách” chân lư, c̣n mỹ học đến với những
“kinh nghiệm thẩm mỹ” như Kant nói? Nhưng “kinh
nghiệm thẩm mỹ” không tiếp cận với chân lư
sẽ đi về đâu? Tóm lại, Kant, Hegel, Heidegger vân c̣n
gây nhiều âm vang và bối rối trong việc đi t́m nền
tảng cho lư luận mỹ học hiện đại.
Với chủ nghĩa Marx:
Marx và
Heidegger – mỗi ông từ những tiền đề và giác
độ khác nhau – đều đặt vấn đề
tha hóa một cách sâu sắc. Heidegger nhận định: “Điều
mà Marx, khởi đi từ Hegel, nhận ra sự tha hóa của
con người trong một ư nghĩa thiết yếu và quan
trọng, bắt nguồn từ sự mất quê hương
(Heimatlosigkeit) của con người thời cận đại.
Sự mất quê hương này là thân phận của Hữu
thể bị chính h́nh thái của siêu h́nh học tạo ra,
củng cố và che đậy. V́ lẽ Marx, qua việc nhận
thức sâu sắc sự tha hóa, đă đạt đến
chiều kích căn cơ của lịch sử, cho nên quan
niệm mác-xít về lịch sử hơn hẳn các loại
sử luận khác. Song bởi cả Husserl lẫn Sartre đều
không nhận chân được tính bản thể của sử
tính trong Hữu thể, cho nên cả hiện tượng luận
lẫn chủ nghĩa hiện sinh không đi vào được
một chiều kích mà chỉ trong đó mới có thể mở
ra cuộc đối thoại bổ ích với chủ nghĩa
Marx” (24). Cái “chiều kích” đối thoại trong viễn
tượng đặt vấn đề hữu thể một
cách triệt để ấy đến nay vẫn c̣n để
ngơ.
Với triết
học đông phương:
Gadamer viết:
“Heidegger luôn cố gắng dùng những khái niệm truyền
thống của lối tư duy Tây phương – Âu Châu để
phơi bày những kinh nghiệm nguyên khởi của Dasein
(Tại thể-người) c̣ bị ẩn khuất” (25), đồng
thời “cũng không có ai dám mạo hiểm như ông, thử
dùng những khái niệm bất quy ước trên một nền
móng khá chao đảo, khi ông là người đầu tiên tiếp
thu các kinh nghiệm của các nền văn hóa khác, nhất
là của Châu Á, kể cả của Thiền học, như
là những khả năng mang lại kinh nghiệm mới
cho chính chúng ta (người Tây phương, ND)” (26).
V́ thế,
không lạ ǵ khi đọc Heidegger, nhất là các tác phẩm
về sau của ông, ta dễ gặp đâu đó nhiều
thuật ngữ rất quan trọng có chút ǵ gần gũi,
thậm chí trùng hợp với thuật ngữ khá quen thuộc
của triết học Đông phương. Chỉ xin nêu vài ví
dụ điển h́nh: “Der beweegende Weg”, “Das Geringe”, “die
Gelassenheit”, “das Weltgeviert”… gợi đến các chữ: “Đạo”,
“Huyền Tẩn”, “vô vi”, “Tứ phương" (Thiên, Địa,
Nhân, Tự nhiên – hay Thần) của Lăo học; “die Lichtung”,
“das Gelaeut der Stille”… gợi đến các chữ “chiếu
diệu”, “mặc như lôi” (im lặng sấm sét) trong Phật
học, nhất là chữ mấu chốt “das Ereignis ereignet”
gợi chữ “Sinh Sinh” trong Dịch học… Các từ này quả
nhiên không phải là sản phẩm của truyền thống
tư duy Hy Lạp quen thuộc – dù theo ông, đó mới chính
là phần vô ngôn, “bất suy tư” (Im-Pensé, Un-gedachte) ẩn
tàng trong thời Hy Lạp cũ.
Nhờ thế,
có khi chúng ta lại có vẻ dễ cảm thụ tư tưởng
của ông hơn một số không ít người đọc
Tây phương quen với lối tư duy Hy Lạp truyền
thống thường thiên về t́nh khách quan nhằm thắng
vượt đối tượng của chủ thể
nhận thức.
Nhưng chính
ở đây cũng dễ dẫn tới ngộ nhận về
một sự đối thoại giản đơn bằng
cách đồng nhất hóa dễ dăi. Chính ông lưu ư chúng
ta: “sự khác biệt trong cách hành xử với thế giới
làm cho việc đối chiếu các luận điểm của
triết học Tây phương và Đông phương có lúc trở
thành bất khả. Ai làm như thế th́ chỉ là xuyên tạc.
V́ lẽ các tiền đề quá khác nhau” (27). Nhắm đến
các độc giả Tây phương, ông c̣n nói: “Tôi cho rằng,
người ta chỉ có thể chuẩn bị cho một sự
“chuyển hướng" (Umkehr) ở ngay tại vùng đất
mà nơi đó thế giới kỹ thuật hiện đại
đă h́nh thành, chứ không phải bằng cách tiếp thu
Thiền học Phật giáo hay các kinh nghiệm tâm linh nào khác
của Đông phương. Để chuyển hướng, người
ta cần sự hỗ trợ của bản thân truyền
thống Âu Châu với cách tiếp cận mới. Suy tư
chỉ có thể chuyển hóa bằng suy tư có cùng nguồn
cội và đặc tính” (28).
Theo truyền
thống tư duy Tây phương – Âu Châu, ông không chịu dừng
lại ở một vài “tri kiến” nhất thành bất biến,
mà tiếp tục tra hỏi, chịu thất bại và lại
tra hỏi tiếp. Sự chuẩn bị cho đối thoại
là khó khăn và lâu dài. Như trái cây tự ḿnh chín tới, thời
gian là cần thiết để Tây phương cảm thụ
thêm những “kinh nghiệm suy tư” (Denkerfahrungen) mới
ngay trên mảnh đất của họ. Và Đông phương
cũng cần thời gian để thực sự làm quen lối
tư duy Hy Lạp, tránh thái độ tự măn hời hợt,
ngây thơ và bằng con đường Lư tính thông qua sự
đào luyện - nói như
Hegel - của một “nỗ lực khổng lồ của
khái niệm” (Anstrengung des Begriffs), tức của tư duy lư
luận.
Xin kết
thúc bằng một lời tâm sự của tác giả Bùi Giáng:
“kẻ viết mấy gịng này, vẫn ân hận: đầu
ba thứ tóc, bốn thứ sương, pha mười loại
gió tuyết… c̣n đủ th́ giờ chăng để theo đuổi
đến đâu? Xin ngồi lại bên đường.
Trao lại chừng này là cây gậy và một ít hành trang. Thiếu
thốn nhiều? Khuyết điểm lỗi lầm c̣n lắm?
Nhưng cái cốt yếu – tin chắc là có đủ rồi.
Cái cốt yếu giúp nhau trên con đường đi t́m trở
lại để bước đến cùng cái nẻo riêng
tài hoa ḿnh chọn lựa – đúng hơn: cái lối riêng mà Định
mệnh đă phó thác riêng cho tài hoa mỗi người”
(783).
Ông khiêm tốn
và thành thật. Trong ṿm trời khô khan của triết học,
người ta nghiêm nghị và đăm chiêu quá, nhất là
các triết gia Đức, họ ít biết cười. Ông nắm
tay dẫn họ vào cuộc hôn phối. “Cuộc hôn phối
nào? Là Càn lấy Khôn, Trời cưới Đất, Gió Mộng
gả Sóng biển cho rừng. Tồn thể đi về
trong câu hỏi là của lời câu hỏi cưới xin; môi
miệng em thốt lời, là Lời Khói hương phụng
hiến” (765). Câu văn trầm mặc của Heidegger trở
nên tưng bừng qua tay Bùi Giáng. Ông đưa “gió mộng”,
“khói hương" vào triết học, và như thường
lệ, dắt cả Chị Kiều, Em Thúy vào chơi để
nhờ Chị Em góp tiếng cười giải thoát trước
những “công án” vỡ đầu. Công ông chỗ đó.
Chúng tôi mạo
muội làm việc quá sức ḿnh là viết mấy lời
giới thiệu nôm na này, để thay mặt các thân nhân của
cố tác giả, xin tạ tấm ḷng liên tài của Nhà xuất
bản Văn học đă cho in lại sách ông.
Bùi
Văn Nam Sơn
Tháng
5-2000
-------------------------------------------
Chú
thích:
(1) Henry
Corbin, Lời tựa quyển “Siêu h́nh học nhập môn” của
Heidegger do ông dịch ra tiếng Pháp.
(2) Xem “Lời
Cố Quận”, “Lễ Hội Tháng Ba”… Bùi Giáng diễn dịch
“Erlaueterungen zu Hoelderlins Dichtung” (Minh giải về thơ Hoelderlin)
của Heidegger: (GA4, 1981). Tác phẩm của Heidegger: “Toàn tập
Heidegger” (Gesamtausgabe, (viết tắt: GA) xuất bản từ
1975, NXB Vittorio Klostermann, Frankfurt/M).
(3) Caligula:
tên vở kịch và cũng là nhân vật bạo chúa La Mă của
Camus
Martha: tên nhân
vật nữ trong vở kịch “le Malendendu” (Ngộ Nhận)
của A. Camus, Martha muốn “đổi đời”, cùng mẹ
mở hắc điếm đầu độc khách trọ
để cướp bóc. Một hôm nàng giết nhầm anh
ruột của ḿnh…
(4) Lời
một bài hát của Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
(5) M. Ponty,
Signes, dẫn theo BG., (II. 106)
(6) Lời
than của Đức Khổng: “Thái Sơn kỳ đồi hồ!
Lương mộc kỳ hoại hồ! Triết nhân kỳ
nuy hồ!” (Núi Thái sơn mà đổ sao, cây gỗ tốt
mà hỏng sao, bậc triết nhân mà nguy sao?).
(7) Platon,
Politeia, 595a-608b.
(8) A. G. Baumgarten,
Aesthetica, Frankfurt/O. 1750-58, 630.
(9) F.
Hoelderlin, StA III, 1; 298.
(10) Tác phẩm
của Hoelderlin: - Toàn tập (Saemtliche Werke, Stuttgart, 1943-1985,
viết tắt StA).
- Toàn tập
(Saemtliche Werke, Frankfurt / M 1976, viết tắt FHA).
(11) J. H.
Lyotard, Das postmoderne Wissen, Graz
/ Wien 1986, tr. 13 (Nguyên tác tiếng Pháp: “La condition postmoderne”).
(12)
Hoelderlin, StA, 1; 298.
(13) Theo
Hoelderlin, triết học chỉ xuất hiện ở những
nơi nào có cảm thức về sự ḥa điệu
(Harmonie). Triết học đúng là bắt đầu từ
sự ngạc nhiên nghi ngờ nhưng ư thức về mâu
thuẫn và sự khiếm khuyết, tức cái “đại
nghi” chỉ có thể phát triển nếu con người đồng
thời cũng có cảm thức về sự hoàn hảo,
sự hoàn thiện. Cho nên, v́ cổ Hy Lạp cảm nhận
sâu sắc về cái “Một vô hạn” (FHA XI; 681) nên mới
nêu được quan niệm “HEN DIAPHERON HEAUTO”, tức “Cái
Một nằm trong sự tự phân ĺa”, tức “bản chất
của cái đẹp” (FHA XI; 681), cơ sở tối hậu
của vạn vật.
Xem thêm: “Nếu
phản tư không bao giờ có thể nắm bắt được
cái nguyên ủy của chính nó là ǵ, th́ phản tư cũng
bất lực trong việc vượt bỏ những phân
ly giữa cái Tôi và thế giới. Chỉ có nghệ thuật
là có thể làm hiển lộ điều mà không tư duy
hay hành động nào có thể làm được: tính thống
nhất nguyên thủy của tồn tại. Trong nghệ
thuật, bằng “thẩm mỹ”, sự thống nhất
của chủ thể và khách thể mới trở thành thực
tại, điều mà bằng “lư luận” chỉ có thể
làm được trong một tiến tŕnh vô tận”. (G.
Kurz, Mittelbarkeit und Vereinigung. Zum Verhaeltnis von Poesie, Reflexion und
Revolution bei Hoelderlin. Stuttgart
1975, tr. 64).
(14) Trong
Hyperion, bằng cách diễn tả bóng bẩy, Hoelderlin nêu ư
này rất sớm: Chỉ khi nào con người truy t́m chân lư
với tinh thần khao khát và với sự nhạy cảm đầy
tỉnh thức của toàn bộ cảm quan, họ sẽ
cảm thụ được cái đẹp phơi mở
ra ngay trong những ǵ vi tế nhất, v́ chúng đều là
biểu hiện của sự ḥa điệu vũ trụ
(FHA X, 209). (…) Trong cái đẹp, con người nhận ra
mối tương thông của toàn bộ thực tại.
Tri thức không có mục đích tự thân, mà có chức năng
thực tiễn trong đời sống. Con người phải
dùng tri thức của ḿnh để cải tạo t́nh trạng
hiện tồn của xă hội và cải tạo tự nhiên
theo lư tưởng được phơi mở ra trong cái đẹp
(FHA X, 212). (Sau này Marx cũng có cách nói gần tương tự:
“… con người nhào nặn vật chất theo quy luật
của cái đẹp…” (Bản thảo kinh tế - triết
học năm 1844).
(15) Henning
Bothe, Hoelderlin, Hamburg 94, tr. 54-56.
(16), (17),
(18), (19) Hoelderlin, StA IV, 1, 298; StA II, 1, 195; FHA XIV, 45; StA, III, 536
(20) Vài nét về
Bùi Giáng, Tưởng nhớ Thi sĩ Bùi Giáng, NXB Trẻ,
1999 (tr. 32).
(21) Guenter
Figal, Heidegger, Hamburg 92, tr. 8.
(22) Sđd,
tr. 9.
(23) Ruediger Bubner:
Aesthetische Erfahrung, Frankfurt / M 1989
Xem thêm: Positionen
der Aesthetik, C. Helferich, Muenchen 1998
(24) Heidegger, GA
Bd 9, tr. 339
(25), (26)
Hans – George Gadamer, Heideggers Wege, Tuebingen 1983 tr. 31 và tr. 64.
(27) dẫn
theo H. W. Petzet, Begegnung und Gespraeche mit M. Heidegger 1929-1976,
Frankfurt/M, 1983, tr. 185.
(28) dẫn
theo E. Fraentzki, Der missverstandene Marx,
Pfullingen 1978, tr. 264.