Đọc lại
“BÀN VỀ TỰ DO”
của John Stuart Mill
…
“Khảng khái bi ca thiệt thượng tồn”…
(Khảng
khái bi ca, lưỡi hăy c̣n…)
Phan
Châu Trinh
1. Một tác phẩm
kinh điển trong kho tàng của triết học chính trị
thế giới lần đầu tiên được dịch
ra tiếng Việt, và, thật đáng ngạc nhiên một
cách thích thú, chỉ vài tháng sau khi được in (12.2005) –
như là một trong các dịch phẩm “đầu tay” của
NXB Tri thức thuộc Tủ
sách Tinh hoa Tri thức thế giới –, bản dịch đă
được tái bản (03.2006) và chắc hẳn sẽ
không phải là lần tái bản duy nhất! Tác phẩm tương
đối ngắn (260 trang), được dịch chính
xác, rơ ràng, lại được giới thiệu, phân tích
và đánh giá qua “Lời Nhà
xuất bản”, “Lời Giới thiệu” của GSTS
Nguyễn Trọng Chuẩn và “Lời
Bạt” (“Về tác giả và tác phẩm”) của dịch
giả Nguyễn Văn Trọng đă giúp ích rất nhiều
cho người đọc trong việc t́m hiểu tác phẩm.
Bài viết sau đây của chúng tôi chỉ là phần “nối
điêu”, thử đặt tác phẩm nói trên trong toàn cảnh
tư tưởng của tác giả, nhất là trong các tác
phẩm về chính trị và xă hội của ông như một
cố gắng để tự học thêm, đồng thời
để góp vui vào tập Kỷ
Yếu kính mừng GSTS Đặng Đ́nh Áng thượng
thọ 80 xuân.
2. Là một “thần đồng”
có học vấn rất cao và có nhiều thành tựu trong
nhiều ngành khoa học khác nhau (lôgíc học, khoa học luận,
luật học, kinh tế chính trị…), J.S.Mill là tác giả
được học giới đặc biệt quan tâm và
ngưỡng mộ. Vào thế kỷ 19, Thủ tướng
Anh Gladstone đă gọi ông là “vị
Thánh của thuyết duy lư”. J. S. Shapiro, năm 1943, gọi
ông là “người phát ngôn hàng
đầu của chủ nghĩa tự do trong thế
kỷ 19”. Mười năm sau, Karl Britton, người viết
tiểu sử của Mill, viết: “Mill tạo nên một ảnh hưởng đến
tư duy triết học trong và ngoài nước mà ít có nhà tư
tưởng hàng đầu nào khác có thể vượt qua được”.
Leopold von Wiese, nhà xă hội học Đức, gần đây
lại cho rằng: “Trong lịch
sử tư tưởng Âu Châu hiện đại, chỉ
có một số ít các học giả được nhiều
ngành khoa học xem trọng như trường hợp của
Mill”.
Thế nhưng, công bằng
mà nói, suốt một thời gian dài, công cuộc nghiên cứu
về Mill chưa đánh giá hết tầm quan trọng của
ông, nhất là đối với các tác phẩm chính trị
và xă hội đang c̣n nóng bỏng tính thời sự. Phải
chờ đến Thế chiến II khi cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa phát xít trở nên gay gắt, người
ta mới thực sự tái phát hiện “vị Thánh tông đồ
này của tự do”. Nghiên cứu về Mill được
“phục hưng” từ sau khi Thế chiến II kết
thúc: các tác phẩm của ông được dịch ra nhiều
thứ tiếng, nhiều công tŕnh nghiên cứu chuyên đề
về ông được công bố dồn dập; “Toronto
University Press” ấn hành toàn tập khảo chứng đầu
tiên về ông năm 1963, và, từ 1965, được bổ
sung bằng ấn bản định kỳ: “Mill News
Letters”. Có thể nói, về nhiều phương diện, công
cuộc nghiên cứu về Mill thật sự được
bắt đầu lại, đặc biệt là đánh giá,
phân tích và suy ngẫm về cống hiến của Mill trong
việc phê phán Nhà nước và xă hội trong thời đại
Victoria cùng với những bài học có thể rút ra từ đó
và không chỉ cho thế giới Tây phương.
Bản thân sự kiện trên
đây nói lên điều ǵ? Thứ nhất, các khái niệm
nền tảng của triết học chính trị-xă hội,
mà nổi bật hàng đầu là khái niệm “tự do”, đều
là các khái niệm trừu tượng, nhưng người
ta chỉ thường đề cập đến chúng và thực
sự quan tâm trở lại với chúng trong những hoàn cảnh
cụ thể, khi chúng - với tư cách là các giá trị - đang
bị thách thức và có nguy cơ bị xâm phạm. Thứ
hai, các khái niệm ấy vừa kêu đ̣i hành động
thực tiễn, vừa đồng thời tiền giả
định một sự “thức tỉnh” về lư thuyết.
Trong chừng mực đó, “bàn về Tự do” bao giờ cũng
là một “thực tiễn lư luận”, một “vấn đề sinh tử”
(tr. 17)
chứ không phải là “lư thuyết” hay “tư biện” suông.
Trong cảnh gông xiềng bị đưa đi đày ở
Côn Lôn, cụ Phan vẫn tin vào “cái
lưỡi hăy c̣n” của ḿnh, tức tin vào nó như là vũ
khí hành động để kêu đ̣i tự do và thức tỉnh
quốc dân!
Trong lịch sử tư tưởng
về “Tự do”, ở phương Tây, ta bắt gặp ba
“mô h́nh” lư luận tiêu biểu làm cơ sở cho hành động
thực tiễn:
- cứu
văn sự Tự do trước sự tất yếu của
Tự nhiên để đặt nền tảng cho hành động
thực hành (luân lư) và khẳng định “phẩm giá bất khả xâm phạm” của con
người (Kant).
- hiện
thực hóa Tự do như là tiến tŕnh lịch sử
tất yếu (Hegel),
và,
- minh
định phạm vi và ranh giới của Tự do dân
sự trong mối quan hệ cá nhân-xă hội v́ sự tiến
bộ và phát triển của đời sống cộng đồng
(Mill).
Hai “mô h́nh” trước dựa
trên một “lư tính” (rationality) mang màu sắc triết học
và siêu h́nh học (“siêu nghiệm” nơi Kant; “siêu h́nh học
tư biện” nơi Hegel). “Mô h́nh” thứ ba của Mill - để
mượn một thuật ngữ của J. Habermas - dựa
trên một “lư tính phương
pháp”,
tức t́m cách giải quyết vấn đề “trong cộng đồng
những người công dân của một nhà nước
dân chủ và trong một hệ thống pháp quyền”5.
Đặt tác phẩm
“Bàn về Tự do” trong tổng
thể các tác phẩm triết học của Mill, ta thấy
tư tưởng chính trị và xă hội của ông xoay
quanh các khái niệm trung tâm sau đây: a) tính công lợi (utility); b) tự do; c) giáo
dục; d) dân chủ; e) chủ nghĩa xă hội; và f)
chủ nghĩa đế
quốc. Do khuôn khổ của bài viết, chúng ta sẽ
không đi sâu vào nội dung từng khái niệm mà chủ yếu
t́m hiểu cơ sở lập luận của chúng.
3. Tính công lợi:
- Học
thuyết xă hội của Mill dựa trên hai nguyên tắc nền
tảng: nguyên tắc công
lợi và nguyên tắc tự do. Nguyên tắc tự do lại
đặt cơ sở trên nguyên tắc công lợi, và nguyên
tắc công lợi, đến lượt nó, lại lấy
quan niệm về “hạnh
phúc” làm tiền đề, với luận điểm chủ
yếu: giá trị luân lư của
hành vi và quy tắc hành vi phải được đánh giá
dựa theo tiêu chuẩn: chúng mang lại ích lợi ǵ cho hạnh phúc của những cá
nhân có liên quan. Trong chừng mực đó, tác phẩm “Bàn về Tự do” cần được
t́m hiểu trong quan hệ chặt chẽ với đạo đức học
của Mill. Luận điểm ấy mang lại bốn hệ
luận:
- hành vi và quy tắc hành vi được
đánh giá không phải từ bản thân chúng mà từ các kết
quả do chúng mang lại.
- các kết quả được
đánh giá từ ích lợi của chúng.
- đánh giá về ích lợi dựa
trên hạnh phúc của con người.
- hạnh phúc này không chỉ liên quan đến
cá nhân mà đến toàn thể mọi người.
Do đó, nguyên
tắc công lợi – như là tiêu chuẩn cho giá trị luân
lư của hành vi và quy tắc hành vi – có hai chức năng:
- chức năng của một tiêu chuẩn để quyết
định và chọn lựa những hành vi và quy tắc
hành vi nào tối đa hóa sự
ích lợi cho hạnh phúc tập thể.
- không chỉ là tiêu chuẩn
để quyết định và chọn lựa mà c̣n là “quy phạm” của luân lư: luân
lư là tổng thể những quy tắc hành vi mà việc tuân
thủ chúng có thể mang lại ích lợi tối đa cho
hạnh phúc tập thể.
Như thế,
trong chức năng này, nguyên tắc công lợi là điều
kiện cần và đủ để xét một quy tắc
hành vi có thuộc về lănh vực luân lư hay không. Nói khác đi,
các quan niệm luân lư nào không thỏa ứng được
tiêu chuẩn này th́ không được xem là “luân lư”.
Đi vào cụ thể, cần phải xác định thế
nào là “ích lợi cần tối đa hóa” cho hạnh phúc tập
thể. Sidgwick (1874), trong “Các
phương pháp của Đạo đức học”,
phân biệt giữa “thuyết công lợi về tổng số
những ích lợi” (gọi tắt: TS) với “thuyết công
lợi về ích lợi b́nh quân theo đầu
người” (TB). Trong “TS”, tổng số ích lợi cho hạnh
phúc của mọi cá nhân là đại lượng cần
phải được tối đa hóa, ngược lại
với việc tối đa hóa ích lợi b́nh quân đầu
người trong “TB”. Bao lâu số lượng người
không thay đổi, hai thuyết ấy không có sự khác
nhau, tức không có sự dị biệt về lượng
giữa hai nỗ lực tối đa hóa. Nhưng, khi số
lượng người là một biến số, th́, về
nguyên tắc, trong “TS”, hạnh phúc tập thể có thể
được tăng lên mà vẫn giữ nguyên mức ích
lợi b́nh quân. Ngược lại, trong “TB”, ích lợi b́nh
quân chỉ tăng lên bằng cách gia tăng ích lợi cho từng
cá nhân riêng lẻ. Bentham – chủ trương thực hiện
“hạnh phúc lớn nhất cho số lượng người
lớn nhất” mặc nhiên chủ trương thuyết
“TS”. Ngược lại, thuyết công lợi của Mill có
thể xem là thuộc “TB”, v́ ông xem trọng việc sinh đẻ
có kế hoạch. Như thế, Mill chủ trương rằng:
dựa vào nguyên tắc công lợi, giá trị luân lư của
hành vi và quy tắc hành vi phải được xem xét trong
quan hệ với ích lợi b́nh quân đầu người
cho hạnh phúc tập thể.
- V́ lẽ
nguyên tắc công lợi tiền giả định rằng
hạnh phúc tập thể là tiêu chuẩn duy nhất cho việc đánh giá luân lư về hành
vi và quy tắc hành vi, nên Mill cần nỗ lực chứng
minh rằng hạnh phúc tập thể là điều đáng
phấn đấu như là mục đích tối cao của
hành động. Để giải quyết vấn đề
này, ông phân biệt hai loại mục tiêu của hành vi: - những
mục tiêu không có giá trị tự thân mà chỉ là phương tiện để
đạt được hạnh phúc, chẳng hạn: tiền
bạc hay sự giàu có; - những mục tiêu có giá trị tự
thân, như là những bộ
phận cấu thành của hạnh phúc: chẳng hạn,
đức hạnh và sức khỏe, tức những ǵ
không thể được quy giảm thành phương tiện.
Tất nhiên, khái niệm “hạnh
phúc” của Mill gặp không ít vấn đề. Một
mặt, Mill cố ư sử dụng khái niệm này trong một
nghĩa rất rộng nhằm mô tả được mọi
mục đích của hành động. Nhưng, trong trường
hợp ấy, rất khó nhận diện hay phân biệt được
những hành vi và quy tắc hành vi nào có lợi hay có hại đối
với hạnh phúc tập thể. Mặt khác, như
Skorupski phê phán,
khái niệm của Mill về hạnh phúc không thích hợp để
mô tả trọn vẹn mọi
mục đích được dự kiến trong mọi hành vi. V́ thế Skorupski
xem chủ trương của Mill ít nhiều rơi vào thuyết
quy giảm và cho rằng bên cạnh hạnh phúc, cần tính
tới những mục đích khác nữa trong việc mô tả
những mục tiêu hành động.
Dù các luận
cứ phản bác này là chính đáng, ta cũng không nên “vơ
đũa cả nắm” để phản đối thuyết
công lợi như là một thứ “triết học con lợn”
(“pig philosophy”) như cách kết án nặng nề của
Carlyle.
Sự kết án này xuất phát từ chỗ hiểu khái niệm
“sự sung sướng” –
qua đó định nghĩa khái niệm hạnh phúc – đơn
thuần là khoái lạc cảm tính. Ta đồng ư với
Carlyle và nhiều nhà phê phán khác rằng loại hạnh phúc ấy
không phù hợp để được xem như là tiêu chuẩn
cho việc đánh giá luân lư về hành vi và quy tắc hành vi,
bởi nó không khác mấy với sự thỏa măn thú tính,
do đó, là thấp hèn về mặt chất lượng và
giản lược luân lư thành một công cụ để
thỏa măn các nhu cầu sinh vật. Thật ra, sự phê
phán này chủ yếu nhắm vào loại h́nh thuyết công lợi
sơ kỳ với đại diện tiêu biểu là Jeremy Bentham trong tác phẩm “Dẫn nhập vào các Nguyên
tắc của luân lư và ban bố quy luật” (1780).
Trong tác phẩm này, Bentham phát triển quan niệm về “bài toán hạnh phúc” – có vai tṛ
như nguyên tắc công lợi của Mill – như là tiêu chuẩn
để đánh giá luân lư về hành vi và quy tắc hành vi,
trong đó chủ yếu xem trọng phương diện
“lượng” hơn là phương diện “chất” của
sự sung sướng. V́ thế, Bentham cho rằng: giả
định rằng hai hành vi cùng tạo ra một lượng sung sướng hay
khoái lạc như nhau th́ hành vi trí tuệ, tinh thần cũng
được xét ngang hàng với hành vi đơn thuần
cảm tính. Ở đây, nhất thiết phải nhận
rơ sự dị biệt và chuyển hóa rất cơ bản
về thuyết công lợi giữa Bentham và Mill. Mill cũng
sử dụng công thức của Bentham về “hạnh phúc
lớn nhất cho số lượng người lớn
nhất”. Ông cũng hiểu hạnh phúc là sự sung sướng
(pleasure) và sự vắng mặt của đau khổ
(pain). Hành vi là đúng khi nó có mục đích hỗ trợ
cho hạnh phúc và là sai khi tạo ra cái đối lập với
hạnh phúc. Nhưng, trái ngược với khái niệm hạnh
phúc – có thể đo lường được về lượng
và hướng đến tri giác cảm tính đơn thuần
– của Bentham, Mill chủ trương một khái niệm
hạnh phúc được dị biệt hóa về chất.
Ông dành cho “niềm vui của trí tuệ, của t́nh cảm
và của sự tưởng tượng cũng như của
những cảm nhận luân lư” một chất lượng
cao hơn hẳn khoái lạc đơn thuần cảm
tính. Với Bentham, bản thân con người cùng lắm chỉ
có khả năng nhận định điều ǵ là có lợi
cho hạnh phúc của bản thân ḿnh. Thuyết công lợi
của Bentham dễ dàng biến thành một thứ chủ
nghĩa cá nhân thô thiển. Chính ở đây, Mill xa rời
Bentham (và cả với cha của ông, một môn đệ
trung thành và nhà diễn giải Bentham). Mill áp dụng khái niệm
hạnh phúc không chỉ cho những cá nhân riêng lẻ mà c̣n
luôn nghĩ đến hạnh phúc của những người
khác, thậm chí cho “toàn bộ nhân loại”. Trong “Tự truyện”,
ông viết: “Chỉ có hạnh
phúc những ai hướng ư nghĩa cuộc sống vào
một đối tượng khác hơn là hạnh phúc
của cá nhân ḿnh: đó là hướng đến hạnh phúc
của những người khác, hướng đến việc
cải thiện nhân loại” (improvement of mankind). Xét trong bối
cảnh lịch sử cụ thể, học thuyết của
Bentham giới hạn rơ rệt trong phạm vi tầng lớp
trung lưu tư sản, trong khi thuyết công lợi của
Mill bao hàm cả giai cấp công nhân, lao động đang
h́nh thành trong ḷng cuộc cách mạng công nghiệp đương
thời. Học thuyết ấy mang kích thước xă hội
rộng lớn hơn nhiều. Trong lănh vực chính trị,
như ta sẽ đề cập trong tiểu mục “Dân chủ”
ở sau, Mill không chỉ vận động – giống như
Bentham – cho một sự cải cách hiến pháp và quyền
bầu cử để tăng cường sức mạnh
của tầng lớp trung lưu tư sản. Các đề
nghị của ông c̣n nhắm đến một sự cải
cách xă hội bao gồm cả tầng lớp lao động
đông đảo. Khác với Bentham, Mill đă có sự nhạy
cảm trước những biến đổi của xă hội
và thời cuộc mà cuộc cách mạng công nghiệp đă
báo hiệu.
Về mặt
lư luận, việc áp dụng nguyên tắc công lợi nơi
Mill không tiền giả định một nhận thức
tiên nghiệm nào cả như
nơi Kant, trái lại, tiền giả định một
nhận thức thường
nghiệm ở cả hai phương diện: a) một
mặt, sự dị biệt về chất giữa các loại
h́nh “sung sướng” chỉ có thể được xác định
một cách thường nghiệm; b) mặt khác, trong những
trường hợp cụ
thể khi áp dụng nguyên tắc công lợi, cần có đầy
đủ “thông tin” về sự sung sướng và đau
khổ của những cá nhân có liên quan thông qua các khảo
sát thường nghiệm. Ở đây, lại nảy sinh
hai khó khăn: - khó khăn trong việc so sánh ích lợi ở “bên trong con người” (intrapersonal) để xác định
chính xác đâu là các trạng thái sướng khổ về
chất và lượng; - khó khăn trong việc thông báo và so
sánh ích lợi giữa những
con người với nhau (interpersonal). Hai khó khăn này cho
thấy nguyên tắc công lợi khó có thể được
sử dụng để xác định chính xác sự ích lợi của những hành vi hay
những quy tắc hành vi khác nhau. Tuy thế, nó vẫn có thể
được sử dụng như một trợ thủ
để định
hướng cho việc lựa chọn và quyết định.
- Sau khi
xác định nội dung và chức năng của nguyên tắc
công lợi cũng như đặt cơ sở cho nguyên tắc
này bằng học thuyết về “hạnh phúc”, Mill tiếp
tục bàn về mối quan hệ, - hay đúng hơn về
sự xung đột và nghịch lư có thể có -, giữa
khái niệm công lợi và khái niệm công bằng theo cách hiểu thông thường.
V́ công bằng và tự do là hai khái niệm đồng đẳng,
nên vấn đề đặt ra ở đây cũng sẽ
có giá trị trong việc t́m hiểu khái niệm “tự do” ở
sau. Khi bàn về mối quan hệ giữa công bằng và
công lợi, Mill t́m cách biện giải trước chất
vấn: không phải mọi hành vi và quy tắc hành vi được
đánh giá tích cực về luân lư dựa theo nguyên tắc
công lợi đều nhất thiết là công bằng theo
các quan niệm thông thường. Đó là trường hợp
giả định khi hạnh phúc tập thể có thể được
tăng lên nhưng lại vi phạm các quan niệm thông thường
về sự công bằng v́ các hành vi giới hạn hay thậm
chí triệt tiêu quyền hạn của những người
khác. Liệu hạnh phúc tập thể có thể được
tối đa hóa khi những người vô tội bị hy
sinh? David Lyons
nêu một ví dụ: cả một đoàn người th́
không được phép đạp lên băi cỏ v́ sẽ làm
hỏng nó, nhưng nếu một số ít người th́
không sao. Vậy, xét về mặt hạnh phúc tập thể
và giá trị luân lư của nguyên tắc công lợi, việc
cho phép một số ít người đạp lên băi cỏ
là tốt hơn so với việc không cho phép ai cả? Nhưng,
sự ưu đăi ấy lại là “đặc quyền đặc
lợi” cho một số ít người và khó được
gọi là công bằng! Trong các trường hợp ấy,
nguyên tắc công lợi – như là “tiêu chuẩn cho sự
công bằng và không công bằng” – trở nên khả nghi về
hai phương diện: - nội hàm của khái niệm
“công bằng” và “công lợi” có chỗ dị biệt: có những
hành vi và quy tắc hành vi có lợi đối với hạnh
phúc tập thể nhưng lại không công bằng theo các
quan niệm luân lư thông thường; - thuyết công lợi
không thể mang lại giá trị tuyệt đối, vô-điều kiện cho các
nguyên tắc luân lư v́ giá trị của chúng phụ thuộc
vào sự hữu ích đối với hạnh phúc tập
thể tùy lúc, tùy nơi, trong khi yêu sách của các nguyên tắc
luân lư là phải được tuân thủ trong mọi t́nh huống.
Mill ư thức
rơ rằng vấn đề trên đây – như sẽ tái diễn
đối với khái niệm tự do – là “khó khăn duy nhất và thực sự của
triết học luân lư công lợi” (Sđd, tr. 111). Ông chưa
t́m ra được giải pháp thật thỏa đáng cho
vấn đề này ngoại trừ cách viện dẫn đến
“lương tri thông
thường” (common sense)
của con người trong khuôn khổ một “thuyết vị kỷ ôn ḥa”.
Theo Mill, dựa vào lư trí, ai ai cũng có thể nhận ra được
“lợi ích riêng hợp t́nh hợp lư” của chính ḿnh. Nhận
thức này giả định rằng mỗi cá nhân – như
là một phần tử của xă hội – nhất thiết
phải quan tâm đến việc vun bồi hạnh phúc tập
thể cho xă hội ḿnh đang sống, v́ chỉ có như
thế, lợi ích cá nhân ḿnh mới được bảo đảm.
Nói cách khác, nhận thức về lợi ích riêng “hợp
t́nh hợp lư” nằm trong nhận thức về điểm
chung, tương đồng giữa lợi ích riêng và lợi
ích chung, trái ngược lại với một thuyết “vị kỷ cực đoan”.
V́ thế, Mill chủ trương: các nghĩa vụ về
sự công bằng chỉ có giá trị ràng buộc khi căn
cứ vào tính hữu ích đối với đời sống
xă hội hài ḥa và đối
với hạnh phúc cộng đồng, và: “Mọi người
đều có quyền được
đối xử b́nh đẳng, trừ khi một lợi
ích tập thể được thừa nhận đ̣i hỏi
điều ngược lại” (tr. 109 và tiếp). Một “lợi ích tập thể
được thừa nhận” không phải là cái ǵ
“tiên nghiệm” mà là thường nghiệm và dựa vào sự
đồng thuận nào đó. Sự đồng thuận ấy,
nếu có, là tùy thuộc vào các yêu cầu khác nhau của các
quan hệ xă hội. Như thế, tuy Mill không thể đảm
bảo được tính giá trị vô-điều kiện
của các nghĩa vụ luân lư và không hoàn toàn chứng minh được
tính “vạn năng” của nguyên tắc công lợi, nhưng
quan niệm của ông cũng tỏ ra ít “không tưởng”
nhất và mang đậm màu sắc thực tiễn, “duy thực”
trong tinh thần của đạo đức học
Aristotle.
Một vấn
đề khác trong quan hệ giữa công lợi và công bằng
là vấn đề phân
phối công bằng ích lợi tập thể cho những
cá nhân có liên quan. Dù Mill luôn nhấn mạnh rằng khi xét đến
ích lợi tập thể của những hành vi và quy tắc
hành vi, cần đồng thời quan tâm đến hạnh
phúc của mọi người
có liên quan, nhưng ông không đề ra phương thức và thể
thức phân phối ích lợi tập thể này. Nếu
chỉ xuất phát từ ích lợi tập thể th́ việc
phân phối b́nh quân hoặc phân phối ưu đăi không được
đặt ra một cách nghiêm chỉnh. Trong chừng mực
đó, thuyết công lợi của Mill c̣n thiếu sự
chính xác và cần được bổ sung bằng các nguyên
tắc phụ trợ để đảm bảo sự
phân phối công bằng.
Tóm lại,
thuyết công lợi của Mill là “thuyết tự nhiên về đạo đức
học” (ethical naturalism) v́ trong cách tiếp cận ấy,
các khái niệm giá trị và các mệnh đề quy phạm
về luân lư được định nghĩa và đặt
cơ sở bằng các khái niệm và mệnh đề mang
tính mô tả: giá trị luân lư của hành vi và quy tắc hành
vi được xác định phụ thuộc vào ích lợi
của chúng đối với hạnh phúc tập thể.
Và v́ Mill xem đạo đức học công lợi của
ḿnh như là một khoa học thường
nghiệm, không có yêu sách nào về nhận thức tiên nghiệm cả, nên nó nhất
trí với thuyết tự nhiên về nhận thức luận
của ông
(nằm ngoài phạm vi của bài viết này).
Mặt
khác, các khó khăn nan giải được đề cập
sơ lược trên đây không làm lu mờ tầm quan trọng
về triết học của thuyết công lợi nói chung.
Tuy cần phải bổ sung hay điều chỉnh về
nội dung cho nguyên tắc công lợi, nguyên tắc ấy –
do tính duy thực và ít không tưởng của nó – vẫn có
thể được sử dụng với chức
năng giới hạn như là nguyên
tắc trợ giúp nghiên cứu (heuristic): trong những
trường hợp phức tạp về luân lư và xă hội,
nó giúp ta triển khai các
đề nghị và các
chọn lựa khác nhau trong mục tiêu hợp lư là tối
đa hóa “hạnh phúc của những cá nhân có liên quan”.
4. Tự do:
Ngay trong
khói lửa của Thế chiến II, J. S. Shapiro, năm
1943, đă nhận định: “Thậm
chí đến ngày nay, tác phẩm “Bàn về Tự do”
vẫn giữ nguyên giá trị như là biểu hiện tốt
nhất và hoàn chỉnh nhất về niềm tin vào sự
tiến bộ của nhân loại bằng sự tự do
tư tưởng. Trong mọi nước và mọi
thời, chưa có quyển sách nào tŕnh bày rơ ràng và bảo
vệ kiên quyết cho học thuyết về tự do cá
nhân đến như thế”.
Để t́m hiểu cơ sở lập luận của “học
thuyết về tự do cá nhân này”, bên cạnh tác phẩm “Bàn về Tự do”, ta nên tham
khảo thêm chương cuối tác phẩm: “Principles of Political Economy”/“Các
nguyên tắc của kinh tế chính trị học” của
ông ra đời mười năm trước đó.
4.1 Tự do là những quyền
tự do:
Trung tâm điểm
của “Bàn về Tự do” là
mối quan hệ của cá nhân đối với xă hội.
Luận điểm xuất phát: tự do chính trị lẫn
xă hội của cá nhân đang bị đe dọa v́ ngày càng
bị xă hội giới hạn. Theo Mill, sở dĩ tự
do này cần phải được bảo vệ trước
sự can thiệp của xă hội v́ nó là điều kiện
cơ bản cho sự tiến bộ xă hội và, do đó,
cho hạnh phúc của cộng đồng chứ không v́ một
mục đích nào khác. V́ thế, Mill đề ra một
nguyên tắc – tạm gọi là “nguyên
tắc tự do” – để xác định ranh giới
của quyền lực hợp pháp và hợp lư của xă hội,
theo đó, tự do cá nhân chỉ được phép bị
giới hạn với điều kiện giúp cho xă hội
tự bảo vệ và bảo vệ những
người khác. Một sự xác định ranh giới
rất lôgíc nhưng thật không dễ dàng và đơn giản
để thực hiện!
Mill hiểu
thế nào là “tự do”? Ông không bàn một cách trừu tượng
về “khái niệm” tự
do như nhiều triết gia khác mà bàn về “những quyền tự do
cụ thể” như ông khẳng định ngay từ đầu
tác phẩm: “đề tài
của luận văn này không phải là điều
được gọi là Tự do của Ư chí (…) mà là
Tự do Dân sự hay là Tự do xă hội”… (tr. 17). Theo
Mill, ba quyền tự do sau đây của cá nhân nhất thiết
phải được bảo vệ: 1. tự do lương tâm và tự do ngôn luận; 2.
tự do trong việc chọn lựa lối sống; 3.
tự do lập hội.
Tự do
lương tâm (thật ra không khác mấy với “tự do
ư chí”!) là điều kiện tiên quyết nhưng không đủ.
Tư tưởng phải được tự do bộc
lộ và diễn đạt ra bên ngoài, tức phải có tự
do ngôn luận. Như Mill sẽ luận giải (xem: 4.3.1),
ông xem tự do ngôn luận (và tự do thảo luận,
tranh luận) là sự tự vệ hiệu quả chống
lại sự độc đoán của “công luận” do nhà
nước hay một nhóm xă hội lèo lái. Ông không sợ ǵ
hơn là “sự chuyên chế của xă hội đối với
cá nhân” (ám chỉ “bộ máy áp bức tinh thần” của giai
cấp trung lưu thời đại Victoria). Tự do khỏi “sự
khủng bố của xă hội” cũng quan trọng không
kém tự do thoát khỏi sự áp đặt của nhà
nước. Tự do ngôn luận – bao gồm sự khoan
dung đối với những ư kiến dị biệt và tự
do đi t́m chân lư – là điều kiện tiên quyết cho sự
tiến bộ xă hội.
Nhưng,
tự do không chỉ giới hạn trong phạm vi “tinh thần”.
Khi Mill nói về tự do, ông luôn nghĩ tới sự tự
do phát huy nhân cách và tính cách – được ông gọi chung
là “cá tính” (individuality) trong
môi trường xă hội và tự nhiên, thể hiện
trong lối sống của mỗi người. Đồng
thời tự do ấy không chỉ hướng đến
cá nhân mà gắn liền với cộng đồng xă hội.
V́ thế, ông chủ trương sự tự do lập hội
và kết đoàn – không chỉ cho tầng lớp trung lưu
tư sản mà cả cho nhân dân lao động. Ông ủng hộ
tích cực phong trào hợp tác xă và công đoàn đương
thời. Trước khi bàn về chức năng và cơ sở
lư luận của “nguyên tắc tự do” nơi Mill, ta nên lưu
ư đến tư tưởng của ông về các ranh giới
tất yếu của tự do:
- tự do chỉ có thể trở
thành hiện thực trong một cộng đồng văn
minh.
- nó cũng chỉ áp dụng được
cho những con người “đă trưởng thành về
các năng lực”, tức không áp dụng một cách máy móc
cho trẻ em và những người bị thiểu năng
về trí tuệ. Nhưng, khác với nhiều nhà tư tưởng
đương thời, Mill hoàn toàn ủng hộ quyền
tự do toàn vẹn cho phụ nữ và các tầng lớp
thấp trong xă hội. (“Bàn
về Tự do”: tr. 34-35 và tiếp).
Sự e
ngại của ông trước “sự độc tài của
đa số” ngày càng đe dọa tự do xă hội và chính
trị của cá nhân xuất phát từ các yếu tố và
nhận định sau đây:
- tư tưởng (Thanh giáo) chính thống
của thời đại Victoria đối với vấn
đề luân lư yêu sách sự tuân thủ nghiêm ngặt và triệt
để: “trong thời
đại chúng ta, từ giai cấp cao nhất cho đến
thấp nhất của xă hội, ai ai cũng phải
sống dưới con mắt của một sự
kiểm duyệt thù địch và đáng sợ”.
- trong tiến tŕnh công nghiệp hóa,
các điều kiện sống ngày càng tương đồng
khiến cho không chỉ lối sống mà cả lối suy
nghĩ cũng trở nên rập khuôn: “…đọc, nghe, nh́n cùng những thứ giống
nhau, đi đến cùng một nơi, hy vọng và lo âu
về cùng một thứ…”.
Mill tỏ
ra lo ngại trước sự
phát triển này, v́ một mặt, ông đồng ư với
Wilhelm von Humboldt rằng “tự
do và tính đa dạng của những hoàn cảnh bên ngoài” là
hai điều kiện cơ bản cho sự phát triển
của con người và sự tiến bộ của xă hội.
Mặt khác, theo Mill, sự phát triển này gây tổn hại
đến tự do của cá nhân v́ nó dẫn đến chỗ
“cá tính” không c̣n được xem như là giá trị nữa, không c̣n sự ủng hộ nào
của xă hội đối với tính độc đáo và
tính không xu thời.
V́ thế,
Mill cũng là một trong số rất ít các nhà tư tưởng
sớm nh́n ra mặt trái và nhược điểm của
thể chế dân chủ thường có xu hướng đè
nén các nhóm thiểu số về mặt chính trị lẫn
xă hội. Ở điểm này, ông chia xẻ tầm nh́n xa
với Alexis de Tocqueville (khi điểm sách “Về nền dân trị ở Mỹ” (1835/40) của
Tocqueville)
và không tin tưởng mấy vào học thuyết tự do
kinh tế (“laisser faire”) của Adam Smith và David Ricardo trong
truyền thống chủ nghĩa tự do (sơ kỳ) của
Hobbes và Locke. Với Mill, dân chủ quả là h́nh thức
chính thể duy nhất hợp lư v́ nó dựa trên sự tự
do và b́nh đẳng của người công dân. Nhưng,
theo ông, nó cũng chứa đựng nguy cơ tiềm tàng
v́ nền dân chủ khó điều ḥa giữa tự do và
b́nh đẳng. Ông đưa ra hai suy nghĩ:
+ người
ta thường xem nhẹ nguy cơ đè nén các nhóm thiểu
số bởi các thể chế dân chủ, v́ thế không thấy
sự bức thiết phải bảo vệ thiểu số.
Nguyên do là ở quan niệm cố hữu và đơn giản
của chủ nghĩa tự do sơ kỳ, xem chế độ
dân chủ là “của dân, do dân và v́ dân”, theo đó dân chủ
là thể chế chính trị ít nguy hiểm hơn cả bởi
một nhân dân tự cai trị th́ không thể hành động
chống lại các lợi ích của chính ḿnh. Mill nhận
ra rằng, dân chủ – cũng như mọi h́nh thức cai
trị khác – đều có khả năng đè nén thiểu
số bởi đa số thống trị: “nhân dân cai trị không phải lúc nào cũng
đồng nhất với nhân dân bị cai trị, và
sự tự cai trị không phải là sự cai trị của
mỗi người đối với chính ḿnh mà là sự
cai trị mỗi người bởi mọi người
khác”.
+ khác với các
h́nh thức cai trị khác, nền dân chủ không chỉ có
quyền lực chính trị mà có cả quyền lực xă hội.
Do đó, “công luận” do nhóm cầm quyền chi phối có
thể thực thi một sự “chuyên chế của đa
số”: … “một sự chuyên
chế xă hội c̣n đáng sợ hơn so với nhiều
h́nh thức áp bức chính trị khác”.
V́ thế,
trong “Các nghiên cứu về
chính thể đại diện”/“On representative Government” (1861,
hai năm sau quyển “Bàn
về Tự do”), ông chủ trương thiết lập
một nền dân chủ đại diện nhằm tăng
cường ảnh hưởng chính trị của các nhóm
thiểu số bằng các
định chế ổn định cũng như bảo
vệ chúng bằng chính “nguyên
tắc tự do” trước đây nhằm minh định
các ranh giới can thiệp của xă hội.
Vậy,
theo Mill, đâu là các chức năng của nhà nước
dân chủ? Dù hết sức e ngại sự lạm dụng
quyền lực của nó, ông không tán thành quan niệm “nhà nước
tối thiểu” của chủ nghĩa tự do sơ kỳ.
Song song với việc hạn định ranh giới cho nó
như sẽ bàn kỹ hơn ở sau, Mill dành cho nhà nước
nhiều chức năng – thậm chí có cả quyền hạn
chế tự do cá nhân – để thực thi nhiệm vụ
tăng cường “hạnh phúc” của nhân dân. Trong Chương
V quyển “Các nguyên tắc
của kinh tế chính trị học”, ông dành cho nhà nước
các quyền hạn chế tự do của công dân như
sau:
a) Nhà
nước có quyền cưỡng bách phụ huynh phải
cho con cái đến trường. Giáo dục và đào tạo
– như sẽ c̣n bàn ở mục 5 – là các điều
kiện quan trọng nhất
cho việc thực thi thể chế dân chủ. Khai sáng bằng
giáo dục là điều kiện tiên quyết cho sự tự
giải phóng của con người trong tự do. Tuy nhiên,
trong giáo dục, nhà nước chỉ nên có vai tṛ hỗ trợ.
Nhà nước không tự ḿnh nắm lấy giáo dục mà
chỉ đảm bảo cơ sở tài chính và định
chế để cho mọi công dân – không kể nguồn gốc
xuất thân – đều được hưởng nền
giáo dục tự do. Ngoài ra, nhà nước c̣n có nhiệm vụ
hỗ trợ văn hóa, khoa học và nghiên cứu, nhất
là sự phát triển các trường đại học.
b) Nhà
nước có quyền định thời gian lao động
của công dân để ngăn ngừa sự bóc lột và
bảo vệ sức khỏe của người lao động.
c) Nhà
nước khuyến khích việc di dân tự do để
giảm bớt áp lực dân số và các nguy cơ của nạn
nhân măn (ông chịu ảnh hưởng ít nhiều của người
đồng thời là Malthus).
d) Nhà
nước có quyền giám sát mối quan hệ của công
dân với môi trường và với thế giới động
vật, chống lại việc lạm sát và đối xử
tàn bạo với thú vật. Ông đứng trong truyền
thống pháp định về các “hội bảo vệ thú
vật” ở Anh từ 1821.
Danh sách
các biện pháp hạn chế tự do cá nhân được
liên tục bổ sung theo các lần tái bản quyển “Các nguyên tắc của kinh
tế chính trị học”. Như thế, Mill không chủ
trương một khái niệm tự do cá nhân vô hạn độ,
trái lại, gắn chặt nó với các yêu cầu của sự
phát triển xă hội.
Tuy nhiên, băn
khoăn lớn nhất của ông trước sau vẫn là
nguy cơ hạn chế và kiềm tỏa sự phát huy “cá
tính” bởi các cấm kỵ, quy ước, bộ máy quan
liêu và “công luận”. Quyển “Bàn
về Tự do” tập trung vào vấn đề này bằng
cách xác định và biện minh chức năng của
“nguyên tắc tự do”.
4.2 Chức năng của “nguyên
tắc tự do”:
Với
nguyên tắc tự do (xă hội chỉ được phép
giới hạn tự do của cá nhân nhằm mục đích
tự bảo vệ và bảo vệ những thành viên khác),
Mill không đề ra một điều kiện đủ, hay cần và đủ mà chỉ đề ra điều
kiện cần, cho phép xă hội
có quyền hạn chế tự do của con người.
Ông chỉ muốn nói: xă hội chỉ
được giới hạn tự do cá nhân khi phải bảo vệ những
người khác. Ông không nói: trong mọi
trường hợp liên quan đến việc bảo vệ
những người khác, xă hội có thể hạn chế
tự do cá nhân. V́ thế, chức năng của nguyên tắc
tự do không phải ở chỗ xác định những
hành vi nào phải được xă hội kiểm soát (bằng
các quy định luân lư hay pháp luật), mà là ở chỗ định
nghĩa rơ lănh vực các quyền tự do cá nhân mà xă hội
tuyệt nhiên không được giới hạn dưới
bất kỳ t́nh huống nào. Việc hiện thực hóa
ba quyền tự do cơ bản nói ở trên của cá nhân
– trong điều kiện giới hạn ở những con
người trưởng thành và trong các xă hội văn
minh – không tổn hại đến người khác, nên, dựa
theo nguyên tắc tự do, xă hội không có lư do nào để
hạn chế chúng cả. Vấn đề đặt ra
là Mill phải chứng minh ba quyền tự do nói trên không tổn
hại đến người khác. Phần biện minh ấy
ta dành cho tiểu mục 4.3 ở sau.
Trong ba quyền
tự do ấy, lănh vực thuộc lối sống riêng tư
– dù người khác thích hay không thích – là lănh vực không thể
đánh giá về luân lư nếu lối sống ấy chỉ
liên quan đến bản thân cá nhân và không làm liên lụy
đến người khác. Mill nêu ví dụ: lối sống
hoang phí là đáng trách nếu v́ thế mà bỏ bê trách nhiệm
với gia đ́nh; c̣n sẽ không đáng trách nếu nó không
làm ảnh hưởng đến ai cả! Ông dùng khái niệm
“lợi ích” (Interest) để
phân biệt.
Cá nhân không chịu trách nhiệm trước xă hội về
lănh vực những hành vi thuộc lợi ích trực tiếp của cá nhân.
C̣n lănh vực nào có liên quan trực
tiếp đến lợi ích của người khác, xă
hội có quyền can thiệp. (Bàn
về Tự do, Chương V).
Ông hiểu
“lợi ích” theo nghĩa “lợi
ích chính đáng” của cá nhân lẫn của xă hội. Nhưng,
thế nào là “lợi ích chính đáng” và làm sao xác định
được nó? Ông bảo: đó là “những lợi ích
nhất định được
pháp luật quy định rơ rệt hoặc do sự đồng thuận
mặc nhiên”. Chính ở đây, Mill gặp trở lại
“khó khăn duy nhất và thực sự”. Thật thế, phạm
vi của nguyên tắc tự do phụ thuộc trực tiếp
vào việc xác định “lợi ích chính đáng”. Nếu
khái niệm này được định nghĩa quá rộng
về phía cá nhân hay về phía xă hội, nguyên tắc tự
do sẽ mất tính chặt chẽ. Thật vậy, theo định
nghĩa rộng, thái độ chính trị hay tôn giáo không
phù hợp với xă hội có thể bị xem là tổn hại
đến lợi ích của những người khác, do đó,
phải bị hạn chế, và ngược lại.
V́ lẽ
Mill phải bảo vệ các quyền tự do cơ bản
đă nêu (tự do lương tâm, tự do ngôn luận, tự
do trong lối sống và tự do lập hội) trước
sự can thiệp của nhà nước, lẽ ra ông phải
cần có một học
thuyết về những quyền của cá nhân, độc
lập với những quy ước của các xă hội riêng
lẻ, cho phép ông nhân danh nguyên tắc tự do để ngăn
cấm sự vi phạm. Học thuyết ấy phải đề
ra được tiêu chuẩn
để quyết định lợi ích nào là lợi ích
chính đáng của cá nhân và của xă hội. Ông không mang lại một tiêu chuẩn
như thế! Trái lại, c̣n có vẻ ông nhường cho từng
xă hội xác định lợi ích chính đáng bằng các
quy ước. Nhưng, nếu nhớ đến mục
tiêu của ông là bảo vệ tự do của cá nhân trước
“sự chuyên chế của đa số”, th́ làm sao ông lại
có thể nhường việc định nghĩa về lợi
ích chính đáng cho từng xă hội riêng lẻ được?
Mill ư thức
rơ về nan đề ấy, nhưng ông vẫn thấy
không cần thiết phải đề ra một tiêu chuẩn
để xác định lợi ích chính đáng của cá
nhân và xă hội và tin rằng vẫn có cơ sở để
bảo vệ được ba quyền tự do cơ bản
nói trên. Để làm rơ điều này, ta thấy ông có thể
lựa chọn một trong hai “phương án lập luận”
sau đây:
1. Phát xuất từ định nghĩa về các lợi ích chính đáng
của cá nhân và của xă hội. Lấy định nghĩa
ấy làm tiền đề
rồi dựa vào nguyên tắc tự do để xác định
các quyền tự do nào là “bất khả xâm phạm”.
2. Phát xuất từ khẳng định rằng một số quyền
tự do nhất định được tính vào cho các
quyền tự do của cá nhân, và xă hội không được
phép giới hạn. Sau đó đề ra nguyên tắc tự
do để chứng minh rằng
trong khuôn khổ của thuyết công lợi, các quyền tự
do – được thuyết công lợi biện minh – là có lợi cho hạnh phúc tập
thể và v́ thế, không được phép giới hạn.
Phương
án thứ nhất dựa trên quan niệm về pháp quyền tự nhiên như
chủ trương của J. Locke trong “Hai nghiên cứu về chính quyền” (1690), cho rằng
ngay trong trạng thái tự nhiên, khi chưa có sự điều
tiết pháp lư giữa những cá nhân (“trạng thái chiến
tranh của tất cả chống lại tất cả” của
Hobbes), cá nhân đă có những quyền tự do không thể
xuất nhượng và vẫn phải được tôn
trọng trong “khế ước xă hội” khi kết thúc trạng
thái ấy. Ngay trong luận văn “Tự nhiên” (giữa 1850-1858) cũng như trong “Bàn về Tự do” (tr. 37 và tiếp),
Mill đă phản đối quan niệm pháp quyền tự
nhiên và lư luận về khế ước xă hội. V́ không
thừa nhận “pháp quyền
trừu tượng” (tr. 37) nên ông chỉ có thể lựa
chọn phương án thứ hai. Nói cách khác, Mill không có công
cụ lư luận nào để đặt cơ sở cho
tự do và lợi ích chính đáng ngoài quan niệm về
công lợi. V́ thế, ông thấy không cần thiết phải
đề ra một tiêu chuẩn nhằm xác định các
lợi ích chính đáng của cá nhân. Ông đ̣i hỏi phải
tôn trọng ba quyền tự do căn bản nói trên không xuất
phát từ giả định về quyền tự nhiên mà
từ khẳng định rằng: việc tôn trọng và
bảo vệ các quyền ấy không những không có hại
mà có lợi cho xă hội và hạnh phúc của cộng đồng.
Vấn đề c̣n lại chỉ là phải biện giải
cho quan niệm ấy.
4.3 Biện giải và đặt
cơ sở cho nguyên tắc tự do trong khuôn khổ
đạo đức học công lợi
Mill dành Chương
II của “Bàn về Tự do”
để biện minh sự hữu ích của tự do lương
tâm và tự do ngôn luận; dành Chương III cho sự hữu
ích của tự do trong lối sống riêng. Ông không bàn nhiều
về tự do lập hội v́ cho rằng nó là hệ quả
lôgíc của hai phần trên và đă được chứng
minh đủ vững chắc. Luận điểm bao trùm của
ông về sự hữu ích của tự do cá nhân là tiền
đề có tính mục đích
luận rằng nhân loại có một mục tiêu phát triển
cần phải được hiện thực hóa. Ông không
bàn nhiều về mục đích này trong “Bàn về Tự do”, nhưng trong tác phẩm “Thuyết Công lợi”, ta biết
mục đích ấy là sự tối đa hóa hạnh phúc
tập thể. Gắn liền với tiền đề
này là quan niệm cho rằng con người, về nguyên tắc,
có thể trở nên tốt hơn thông qua giáo dục và đào
luyện. Với Mill, mục tiêu của tiến bộ xă hội
không phải là một ảo tưởng đơn thuần
mà là một lư tưởng có thể thực hiện được.
Về
tính hữu ích của tự do lương tâm và tự do
ngôn luận đối với hạnh phúc tập thể,
Mill đưa ra hai lư do tại sao không nên hạn chế nó:
1. Nhất quán với phần triết
học lư thuyết, ở đây Mill chủ trương rằng
con người là có thể sai lầm. Về nguyên tắc,
bất kỳ lư thuyết nào, dù được xem là vững
chắc, vẫn có thể là sai. Ta không thể biết một
lư thuyết là đúng mà chỉ biết rằng nó chưa được
chứng minh là sai. Là bậc tiền bối của Karl
Popper, Mill bác bỏ khả năng “kiểm đúng” (tức xác nhận tích cực về
chân lư của lư thuyết) và tán thành khả năng “kiểm sai” (xác nhận tiêu cực
về chân lư của lư thuyết rằng nó c̣n đứng vững
trước mọi nỗ lực phê phán). Hệ luận: mọi
lư thuyết đều cần được liên tục
phê phán để có thể thay thế chúng bằng lư thuyết
có cơ sở tốt hơn. Do đó, mọi lư thuyết
phải để ngỏ cho sự phê phán, tất nhiên kể
cả các lư thuyết và quan điểm chính trị. Ông cho rằng
“chân lư của một tư
tưởng là bộ phận của sự hữu ích
của nó”, tức không cho rằng quan điểm sai, trong
những hoàn cảnh nhất định, là có lợi cho xă
hội hơn là quan điểm đúng. V́ lẽ chỉ có tri thức đúng
đắn mới có thể có lợi cho xă hội, nên tự
do lương tâm và ngôn luận là không thể bị hạn
chế.
2. Trong mọi trường hợp,
xă hội chỉ được hưởng lợi khi quan
điểm hiện hành bị phê phán: a) nếu nó không đứng
vững, ta có cơ hội thay thế nó bằng quan điểm
tốt hơn; b) nếu nó đứng vững, th́ sự
phê phán giúp củng cố ḷng xác tín sống động của
ta về nó. Sự xác tín luôn bao hàm việc hiểu biết
về mọi phản bác có thể có về nó; c) nếu
không quyết định được đúng sai th́ sự
phê phán có lợi ở chỗ hai phía có thể bổ sung và điều
chỉnh cho nhau. Tóm lại, “trong
t́nh trạng không hoàn hảo của trí tuệ con
người th́ sự đa dạng ư kiến phục
vụ cho các lợi ích của chân lư”.
Ông cũng
đưa ra hai lư do biện minh cho tính hữu ích của sự
tự do chọn lựa lối sống riêng đối với
hạnh phúc tập thể:
1. Một mặt, quan niệm về tính
có thể sai lầm của con người lẫn quan niệm
về hạnh phúc cho thấy xă hội không thể giới
hạn sự tự do trong việc chọn lựa lối
sống và can thiệp vào lănh vực riêng tư của cá
nhân, - chẳng hạn với lư do nhằm giúp cho cá nhân có cuộc
sống tốt hơn -, v́, về nguyên tắc, xă hội vẫn
có thể sai lầm. Tất nhiên, cá nhân có thể sai lầm
trong lựa chọn của ḿnh, nhưng theo Mill, xác xuất
ấy nhỏ hơn so với xă hội. V́ thế, cá nhân phải
được quyền theo đuổi quan niệm hạnh
phúc của riêng ḿnh mà không có sự can thiệp của xă hội,
miễn là không làm liên lụy đến người khác.
2. Mặt khác, tự do ấy cho lợi
cho sự tiến bộ xă hội. Tiến bộ chỉ có
thể có được khi mọi người đều
có cơ hội thử nghiệm và trải nghiệm các h́nh
thức khác nhau trong việc tổ chức cuộc sống.
Thêm nữa, tự do chọn lựa lối sống là điều
kiện cần để những cá nhân xuất sắc thực
hiện các dự phóng của ḿnh và qua đó, có thể đóng
góp lớn cho tiến bộ xă hội. Tiến bộ xă hội
sẽ bị ngưng trệ khi bị tước đi quyền
tự do ấy, mà h́nh mẫu tiêu cực của nó, theo Mill,
chính là sự tŕ trệ của xă hội Trung quốc truyền
thống.
Khuôn khổ
bài viết không cho phép đi sâu vào cuộc thảo luận
rất phong phú chung quanh mối quan hệ giữa “nguyên tắc
tự do” và “nguyên tắc công lợi” với các ư kiến
khác nhau giữa I. Berlin, G. Himmelfarb và J. Gray.
Trong khi Himmelfarb cho rằng nguyên tắc tự do là đồng
đẳng với nguyên tắc công lợi nên không thể lấy
nguyên tắc sau làm cơ sở cho nguyên tắc
trước, th́ I.
Berlin nhấn mạnh rằng, nguyên tắc tự do không chỉ
có một giá trị công cụ
cho việc thực hiện hạnh phúc tập thể mà có
giá trị riêng, độc lập với mục đích
này, do đó lập luận của Mill chưa đủ vững
chắc. Do tính bất định và mơ hồ của
khái niệm “hạnh phúc
tập thể”, nên có thể diễn ra sự xung đột
giữa hai nguyên tắc (tự do và công lợi), và trong trường
hợp đó, lấy ǵ đảm bảo rằng nguyên tắc
công lợi không chiếm ưu thế và quyền tự do
cá nhân lại không bị giới hạn một cách tùy tiện.
Xin gác lại cuộc thảo luận này để dành chỗ
t́m hiểu vài khía cạnh khác không kém lư thú và bổ ích trong
tư tưởng chính trị xă hội của Mill.
5. Giáo dục
Giải
phóng con người ra khỏi những “quy ước” giáo điều
của xă hội – v́ chúng có thể thoái hóa thành sự chuyên
chế tàn bạo nhất – là nguyện vọng của Mill.
Cùng với Kant, J. Dewey, ông tin rằng sự giải phóng
này, về lâu dài, chỉ có thể đạt được
bằng một nền giáo
dục sâu rộng (universal education). Nó là đảm bảo
duy nhất cho thể
chế dân chủ bền vững. V́ thế, như đă
nói, nhà nước có trách vụ phải đặc biệt
chăm lo cho giáo dục, nhưng không phải bằng cách trực
tiếp can thiệp vào tiến tŕnh giáo dục mà bằng sự
“khai sáng toàn diện” cho phụ huynh và tạo điều kiện
vật chất cho “nền giáo dục toàn dân” đến tận
các tầng lớp khó khăn nhất trong xă hội.
Một mặt,
ta có thể nói về một nỗ lực dân chủ hóa toàn diện nền giáo dục, nhưng
mặt khác, nơi ông, c̣n có nỗ lực xây dựng một
tầng lớp trí thức ưu
tú như là thành quả lôgíc của tiến tŕnh phổ
thông giáo dục. Ông gọi đó là “clerisy”, tức như một tầng lớp “giáo
sĩ thế tục”, hay dễ hiểu hơn, như giới
“sĩ phu” ở ta. Đây không phải là tầng lớp trí
thức được ưu đăi mà là những người
có học vấn vững chắc, làm đối trọng với
xu hướng “cào bằng” của xă hội công nghiệp đại
trà. Nhưng, cơ hội để tham gia vào tầng lớp
này phải được rộng mở cho mọi người
và không gắn liền với một giai cấp nhất định
nào. Mill tin rằng, trong bối cảnh dân trí đương
thời của nước Anh, tầng lớp “trí thức ưu
tú” phải có trách nhiệm lănh đạo xă hội mới
thực hiện được yêu cầu canh tân và phát triển.
Ông muốn thay thế loại “gentleman
in politics” của Bentham bằng loại “scholar in politics” để đáp ứng t́nh thế.
Ông đ̣i phải loại bỏ tầng lớp cai trị
quư tộc dựa vào thừa kế huyết thống bằng
tầng lớp trí thức độc lập, được
bầu cử một cách dân chủ. Ông khiến ta nhớ đến
phong trào Đông Du và Duy Tân trước đây ở nước
ta!
6. Dân chủ
Theo Mill, trong
bất kỳ nền dân chủ nào, giáo dục và đào tạo
đều giữ vai tṛ quyết
định. Vào thời ông, ông biết rằng quyền
phổ thông đầu phiếu sớm muộn cũng trở
thành hiện thực. Tất cả vấn đề là ở
chỗ chuẩn bị như
thế nào cho ngày đó để quyền này được
sử dụng một cách thực sự hiệu quả. Khẩu
hiệu của ông: “Phổ
thông giáo dục phải đi trước phổ thông
đầu phiếu!” (universal teaching must precede universal
enfranchisement!).
Ông vững
tin vào khả năng cải thiện của con người
(improvability) và khả năng cải tạo thực tại
bằng “lư tính tự chủ”. Đồng thời ông cũng
biết rằng con đường “cải thiện và thăng
tiến” là lâu dài. V́ thế, ông thấy cần t́m ra các giải
pháp lâm thời cho t́nh h́nh trước mắt. Ông thấm
thía rằng, về mặt giáo dục và dân trí, nhân dân lao động
nước ông, xét chung, chưa đủ chín muồi cho nền
dân chủ, dù ông luôn ủng hộ yêu sách chính trị của
họ. Ông vừa thừa nhận nguyện vọng của
họ, vừa lo âu - thậm chí sợ hăi - trước sự
“bất cập” của họ. Khác với cái nh́n thiện cảm
đối với giới lao động Pháp, ông càng nh́n tầng
lớp lao động nước ông (Anh) bằng cặp mắt
nghiêm khắc bao nhiêu, ông càng thấy yêu cầu cải cách giáo
dục là bức thiết bấy nhiêu!
Ông đặc
biệt căm ghét tính chất quư tộc của hiến
pháp nước Anh. Ngay khi mới 19 tuổi, năm 1825, trước
“Debating Society”, ông đă đọc diễn văn về hiến
pháp Anh, xem nó là một “hiến pháp của bọn nhà giàu”: “nước ta là một
nước tự do, nhưng là tự do theo kiểu Sparta
[thành quốc hiếu chiến của cổ đại Hy
Lạp]… Chúng ta là một nước cộng ḥa quư tộc,
thiếu sự kiểm soát của công luận”. Ông đ̣i
phải tăng cường việc kiểm soát bộ máy
hành pháp, bẻ găy quyền lực của tầng lớp địa
chủ quư tộc, nhưng không giới hạn quyền tư
hữu, thiết lập chính thể đại diện để
mở rộng tiếng nói của “những người
đóng thuế”.
Ông nồng
nhiệt tán thành quyền bỏ phiếu của phụ nữ
và quyền b́nh đẳng giới (trong “Subjection of Woman”, 1869, mười năm sau quyển
“Bàn về Tự do”). Một
quyền hạn quá b́nh thường đối với chúng
ta ngày nay, nhưng là vấn đề hết sức gai góc vào
thời đại Victoria!
Ông kiên quyết
chống chiến tranh và nhà nước chiến tranh kiểu
Sparta. Ông là
một trong những nhà chống quân phiệt đầu
tiên ở nước Anh đương thời.
7. Chủ nghĩa xă hội:
Đóng
góp lớn của các nghiên cứu mới đây là làm sáng tỏ
quan hệ giữa Mill và chủ nghĩa xă hội. H. O. Pappé
đă chứng minh thuyết phục rằng, khác với
“huyền thoại” lưu hành lâu nay, Mill quan tâm đến
“chủ nghĩa xă hội” không phải nhờ thông qua người
bạn chiến đấu và người bạn đời
của ông là bà Harriet Taylor. Ông cũng đến với “chủ
nghĩa xă hội” không phải do tiếp cận với tư
tưởng của K. Marx dù hai ông cùng sống và làm việc
một nơi (London)
suốt hai mươi năm trời! H́nh như hai ông không
biết nhau, v́ không t́m thấy ghi chú nào về Marx trong toàn bộ
tác phẩm của Mill.
Như đă
nói, Mill không phải là nhà “cá nhân chủ nghĩa” theo kiểu
chủ nghĩa tự do “Laissez-faire” hay thuyết công lợi
kiểu Bentham. Khái niệm tự do bao trùm tư tưởng
của ông - cũng như quan niệm của ông về công
lợi, giáo dục, dân chủ… - đều hướng
đến xă hội. V́ thế, không ngạc nhiên khi ta đọc
thấy trong lá thư vào tháng 11.1848, Mill bảo “chủ nghĩa xă hội là ḥn
đá tảng quan trọng nhất để cải
thiện t́nh cảnh hiện nay của nhân loại”.
Các quan niệm cơ bản của ông về chủ nghĩa
xă hội đă được h́nh thành trước cả
cuộc cách mạng 1848 và trước ngày ra đời
“Tuyên Ngôn của Đảng cộng sản”. Ta có thể
t́m thấy chúng trong chương “Về tương lai của
giai cấp công nhân” trong quyển “Các
nguyên tắc của kinh tế chính trị học” của
ông. Ở đó, ông tán thành:
- việc thừa nhận yêu sách của
giai cấp công nhân có quyền b́nh đẳng trong lănh vực
chính trị và – như là điều kiện tiên quyết –
tham gia tích cực vào sinh hoạt giáo dục và đào tạo
của đất nước.
- quyền tự do liên kết của
giai cấp công nhân, tức ủng hộ việc thành lập
các hợp tác xă, các tổ chức công nhân và công đoàn.
- tham gia vào việc quản trị
xí nghiệp bằng cách hữu
sản hóa tư liệu sản xuất và tạo nên một
“quỹ chung” (common fund).
- hợp lư hóa tiến tŕnh sản xuất,
giảm thiểu gánh nặng lao động của mọi
người tham gia sản xuất.
- gia tăng tài sản và sự giàu
có không chỉ cho một số ít người mà cho “toàn thể”
mọi người lao động.
- bẻ găy ưu quyền chính trị
và kinh tế của tầng lớp địa chủ quư tộc.
Với
Mill, chủ nghĩa xă hội không phải là mục tiêu gần
của một sự đảo lộn xă hội, mà là một
viễn tượng lâu dài hướng đến tương
lai. Chịu ảnh hưởng của John Owen, ông chủ
trương phải từng bước thử nghiệm
“chủ nghĩa xă hội” ở các đơn vị nhỏ,
có thể theo dơi được (“communities”) trên cơ sở
tự nguyện. Ông chủ trương duy tŕ quyền tư
hữu, cải thiện nó và tạo điều kiện cho
công nhân lao động tham gia và lớn lên trong tiến tŕnh
tích lũy tư bản. Với ông, chủ nghĩa xă hội
là một đối tượng của nghiên cứu khoa học
đầy thận trọng và với tinh thần phê phán, đồng
thời là tiến tŕnh thử nghiệm trong thực tiễn.
Nó không phải nhất thành bất biến như một kết
quả của khoa học, trái lại phải tự chứng
minh sự đúng đắn thông qua tiến tŕnh song đôi
đó. Thuyết tất định về kinh tế hay lịch
sử không có mặt trong thế giới quan của ông.
Đối
với khái niệm về “cách
mạng”, Mill cũng có một quan niệm tiêu biểu
“kiểu Anh”. Ông cho rằng các vấn đề chính trị,
kinh tế, xă hội có thể được giải quyết
từng bước bằng con đường ḥa b́nh. Ông
xem trọng sự đổi mới về tư duy và luân
lư như là điều kiện tiên quyết cho sự phát
triển của một “chủ nghĩa xă hội ḥa b́nh”. Ông
không gọi sự “đổi mới” ấy là “cách mạng”
mà là “sự đảo lộn”. Trong thư gửi cho bí thư
của “Liên hiệp công nhân quốc tế” hạt Nettingham,
ông viết: “dùng chữ “cách
mạng” để chỉ bất kỳ nguyên tắc hay
quan điểm nào đều là trái với “kiểu Anh”. Cách
mạng (Revolution) chỉ là sự thay đổi chính
quyền bằng bạo lực, dù do nhân dân khởi
nghĩa hay bằng đảo chính quân sự”.
8. Chủ nghĩa đế
quốc
Sau tất
cả những ǵ đă tŕnh bày, không có ǵ đáng ngạc
nhiên khi Mill là một nhà tư tưởng kiên quyết chống
chủ nghĩa đế quốc. Điều này xuất
phát từ lập trường nguyên tắc của ông: không
có dân tộc nào có quyền thống trị lâu dài một dân
tộc khác; trái lại, mỗi dân tộc có quyền và có bổn
phận tự cai trị chính ḿnh. Tuy nhiên, sự “tự cai trị” (self-government) ấy,
một lần nữa, chỉ thực hiện được
một cách hiệu quả là khi những người cai trị
phải là những “educated
people” (những người có học vấn). Ông cho rằng
“sứ mệnh của nước Anh” phải là người
mở đường cho “tự do, dân chủ và tự-cai
trị”. Về lâu dài, theo ông, “đế quốc Anh” muốn
c̣n có lư do tồn tại phải trở thành “Cộng đồng
thịnh vượng chung” của các quốc gia độc
lập, hợp tác hữu nghị và ḥa b́nh. Với tư tưởng
viễn kiến ấy, ông có ảnh hưởng và tác động
lớn về tinh thần trong tiến tŕnh giải thực
đối với chủ nghĩa thực dân Anh. Manfred
Schlenke, trong Lời bạt cho bản dịch “Bàn về Tự do” sang tiếng
Đức, nhận xét: “Trong
lịch sử của tư tưởng tự do, Mill
giữ một vị trí đặc biệt. Ông đă nh́n
thấy trước rằng chủ nghĩa tự do
sẽ tự đào huyệt chôn ḿnh, nếu nó – gắn
chặt với lư tưởng tư sản – cứ măi là
tên lính xung kích cho những lợi quyền tư bản
chủ nghĩa. Theo Mill, chỉ bằng cách hội nhập
với giai cấp công nhân và những quyền lợi
của họ, chủ nghĩa tự do mới có cơ may trở
thành một quan niệm chính trị mà mọi người
có thể chấp nhận được và mở
đường tiến bộ cho nhân loại” (tr. 179).
9. Tóm lại, đọc
Mill, ta có dịp hiểu thêm về cách đặt vấn đề
lẫn những chỗ mạnh, chỗ yếu vốn gắn
liền với lập trường duy nghiệm và duy tự
nhiên (naturalistic) trong triết học nói chung, đồng thời
nhận ra các biến thái và khả năng tự điều
chỉnh của “chủ nghĩa tự do” - dẫn đến
các thay đổi sâu sắc trong xă hội Tây phương mấy
mươi năm qua - để tự rút ra những bài học
bổ ích cho chính ḿnh.
Bùi
Văn Nam Sơn
10.2006