MẤY
LỜI GIỚI THIỆU BỘ SÁCH “101 TRIẾT GIA”:
SỰ CẦN THIẾT CỦA
MỘT BỘ TỪ ĐIỂN CÁC TRIẾT GIA
Karl Jaspers, trong Lời Tựa
quyển “Những đại
triết gia” của ḿnh, đă
viết: “trong triết học,
trách vụ của người thầy giáo là trách vụ ít
ỏi nhất, nhưng lại là trách vụ cần
thiết”.
Thiết tưởng, ta cũng có thể nói như thế
về trách vụ và sự cần thiết của các loại
sách “công cụ” trong triết học mà trước hết
là các loại “từ điển”: từ điển khái niệm
(và lịch sử khái niệm triết học), từ điển
các triết gia và từ điển về các tác phẩm triết
học.
Lư do cho nhận định
trên đây thật cũng dễ hiểu. Khác với nhiều
ngành khoa học khác, triết học (có lẽ Đông Tây đều
giống nhau?) không phải là một “kho” tri thức có sẵn,
hoàn chỉnh để ta có thể “dùng theo nhu cầu”! Một
kiến thức đơn thuần có tính lịch sử về
triết học quá khứ quả chẳng giúp được
ǵ mấy cho người đến sau. Nhưng, nó sẽ rất
bổ ích khi góp phần soi sáng chính cái “không gian” ta đang sống
thực, v́, bất cứ ai trong chúng ta, với tư cách người
học, người đọc, người yêu triết học,
đều có quyền “gặp gỡ” những triết gia
trong quá khứ, t́m được nơi họ sự giải
đáp, lời gợi mở hay niềm an ủi, nếu ta
biết lắng nghe và nhất là, biết cách đặt câu
hỏi đúng. Jaspers viết thêm: “Họ khích lệ ta và họ luôn khiêm tốn. Bản
tính của các triết gia lớn là không muốn có những
môn đệ mà muốn có được những
người đồng đẳng. V́ thế, dù với
tất cả ḷng kính mộ, ta chỉ có thể đến
được gần họ khi bản thân ta cũng
biết “triết lư”” (tr. 12).
Trong tinh thần đó,
các sách công cụ (hay cả người thầy giáo, nói như
Jaspers) thật ra chỉ làm nhiệm vụ của kẻ giới
thiệu. Người giới thiệu biết lánh mặt đi
khi cuộc đối thoại bắt đầu. Không một
bộ sách công cụ nào có thể bao quát hết mọi thứ,
có thể giới thiệu với độ sâu như nhau đối
với mọi triết gia, và nhất là, từ khuôn khổ
giới hạn của nỗ lực ấy, càng phải
tránh làm cho người đọc ngộ nhận về tầm
cỡ và nội dung phong phú của từng mỗi triết
gia. Người đọc, sau bước làm quen sơ bộ,
rút cục đều phải tự ḿnh làm việc với
bản thân triết học, thông qua việc nghiên cứu nguyên
tác và… đối diện với chính ḿnh.
Mặt khác, khi đọc
sách công cụ, ta thường có cảm tưởng rằng
người tŕnh bày hay giới thiệu nhất thiết phải
đứng trên một “vị trí cao hơn” để “nh́n
xuống” đối tượng được tŕnh bày. Cảm
tưởng – hay đúng hơn, ảo tưởng ấy –
càng dễ xảy ra trong việc giới thiệu triết
học. Thật ra, ta dễ đồng ư với nhau rằng,
thật khó có thể “đứng trên nh́n xuống” các triết
gia, nhất là các triết gia lớn, và càng không thể nh́n
“thấu suốt” được họ. May ra, ta chọn được
đúng vị trí để có thể “ngước lên” nh́n họ. Ta học cách t́m hiểu
họ, để hy vọng họ có thể đối thoại
với ta đúng theo cách mà ta đă đi đến với
họ: “Cổ đạo
chiếu nhan sắc”.
Nhưng, kỳ cùng, chỉ có sự phê phán ở bên trong
hành vi nội tâm của ta mới giúp ta biết phân biệt
giữa sự bắt
chước b́ phu, hời hợt bên ngoài với sự
“trùng phục” hay “lặp lại” nhưng một cách căn
nguyên từ nền tảng; nói khác đi, biết phân biệt
giữa “con vẹt” và “sự tiếp bước”. Ta chỉ
dần dần thu hoạch được điều này
sau khi ta đă nỗ lực t́m hiểu những ǵ các bậc
triết gia đi trước đă
làm.
Tóm lại, thật ảo
tưởng khi chờ đợi hay đ̣i hỏi quá nhiều
ở các bộ sách công cụ, nhưng cũng thật ngây
thơ khi không thấy hết sự cần thiết của
chúng. Một “hành trang”, - kể cả “hành trang tinh thần”
- không thể có được từ hư vô. Sách công cụ
là người trợ thủ đắc lực giúp ta chuẩn
bị hành trang ấy trước và ngay trong khi ta… tự
ḿnh dấn bước lên đường.
Trong điều kiện
c̣n quá ít các loại sách công cụ trong lănh vực triết học
ở nước ta hiện nay, “101
triết gia” (Tây phương) của soạn giả Mai
Sơn - đồng dịch giả của nhiều sách triết
học - là một đóng góp kịp thời và bổ ích. Thật
hoan hỉ khi được giới thiệu quyển sách
quư này đến đông đảo bạn đọc yêu
triết học.
Bùi
Văn Nam Sơn
10.2006