Download toàn
văn tác phẩm Phê phán lư tính thuần túy :
Phần 1 – Phần 2 – Phần 3
MẤY
LƯU Ư CỦA NGƯỜI DỊCH
1)
“Phê phán lư tính thuần túy” của Immanuel
Kant được mọi người thừa nhận
là tác phẩm nền tảng của triết học cổ
điển Đức. Nó là chỗ kết tinh những nhận
định có tính phê phán đối với nhiều trào
lưu triết học trước đó (từ Platon cho tới
Christian Wolff), đồng thời là điểm xuất phát
và điểm quy chiếu của triết học cổ
điển (duy tâm) Đức (Fichte, Schelling, Hegel) và có ảnh
hưởng sâu đậm đến sự phát triển của
triết học và khoa học Tây phương cho đến
ngày nay.
Song, “Phê phán lư tính thuần túy”
không chỉ là một tác phẩm “bắt buộc phải
đọc” của những ai muốn t́m hiểu và nghiên cứu
triết học mà c̣n là một danh tác bất hủ của
văn hóa Tây phương và của thế giới. Tác động
của nó vượt ra khỏi lănh vực chuyên môn của
triết học. Hai đặc điểm nổi bật của
tác phẩm là: một mặt, việc phê phán Siêu h́nh học
cổ truyền đă làm rung chuyển cơ sở siêu h́nh
học-thần học của thế giới quan truyền
thống và do đó, là diễn đàn của “lư tính con
người” buộc mọi thứ phải phục tùng sự
“kiểm tra và phê phán tự do và công khai”. Mặt khác, tác phẩm
phát triển những tiền đề cơ bản để
nhận chân quyền tự do và tự trị của con
người với tư cách là sinh vật có lư tính, tạo
cơ sở cho sự tự-nhận thức về mặt
đạo đức và pháp quyền của xă hội hiện
đại.
Trong ba quyển “Phê phán” nổi tiếng
của Immanuel KANT (Phê phán lư tính thuần túy; Phê phán lư tính thực
hành và Phê phán năng lực pháp đoán), tác phẩm này có vị
trí đặc biệt. Nó ra đời trước (1781), có
nội dung rất phong phú, ngoài ra cũng dày và phức tạp
nhất!. Xét về bản thân hệ thống, ta đều
biết - và chính Kant xác nhận -, hai quyển sau mới bộc
lộ phần tinh túy của triết học Kant, tuy nhiên, “Phê
phán lư tính thuần túy” vẫn thường được
xem là tác phẩm chính yếu gắn liền với tên tuổi
Kant và là tiền đề để thực sự hiểu
được hai tác phẩm sau. Nếu “Phê phán lư tính thực
hành” (1788) (và gắn liền với nó là tác phẩm khá ngắn
nhưng quan trọng: “Đặt cơ sở cho Siêu h́nh
học về đức lư” (Grundlegung zur Metaphysik der
Sitten, 1785) khẳng định tính “thứ nhất” (das
Primat) của lư tính thuần túy thực hành và sinh hoạt
đạo đức so với lư tính thuần túy lư thuyết
để trả lời câu hỏi “Tôi phải làm ǵ?”;
và “Phê phán năng lực phán đoán” (1790) - trong đó
Kant bàn về Mỹ học và Mục đích luận - là “viên
đá cuối cùng” (Schlussstein) để hoàn tất mái
ṿm của cả ṭa nhà triết học (Tôi có thể hy vọng
ǵ?), th́ “Phê phán lư tính thuần túy” này (Tôi có thể
biết ǵ?) là ḥn đá tảng tạo nên cơ sở lư
luận cho triết học Kant. V́ lư do đó, tôi chọn dịch
và giới thiệu tác phẩm này trước. (Tác phẩm
này đă được dịch - và chú giải - trong hầu
hết các ngôn ngữ quan trọng trên thế giới. Ở
Châu Á, riêng Nhật Bản đă có từ lâu hai bản dịch
“Toàn tập Kant” và nhiều bản dịch khác nhau về
các tác phẩm chính của Kant).
2)
Bên cạnh vị trí then chốt của
tác phẩm này trong triết học Kant, vị trí và ư nghĩa
lịch sử của quyển “Phê phán lư tính thuần túy”
càng nổi bật hơn khi được đặt trong
toàn cảnh sự phát triển của triết học cận
đại Tây phương. Từ thời cổ đại,
triết học Tây phương không chỉ được
hiểu như là “yêu thích sự minh triết” (philo-sophia), nhất
là với Socrate (470-399 t.T.L) và Platon (427-347 t.T.L) mà
c̣n là tri thức hay khoa học, nhất là từ Aristote
(384-322 t.T.L). Không chỉ hướng đến cuộc sống
thiện lương và hạnh phúc, triết học c̣n
được quan niệm như sự thấu hiểu
(episteme), qua đó câu hỏi về thế đứng của
nó như là khoa học (scientia) và học thuyết
(doctrina) đă sớm được đặt ra.
Nhưng chỉ đến thời cận đại với
sự ra đời của khoa học tự nhiên, câu hỏi
về tính khoa học của triết học mới
có tính thời sự cấp thiết. Các triết gia phải
đáp ứng yêu cầu mang lại một “tri thức”
nào đó, dù dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác, bằng
cách thiết lập nền móng mới mẻ cho triết học.
Nhưng đồng thời, triết học vẫn muốn
giữ vững yêu sách cố hữu của ḿnh là một
“scientia universalis” (“khoa học phổ quát”), tức không muốn
và không thể trở thành một khoa học riêng lẻ bên
cạnh những ngành khoa học khác mà cố gắng trở
thành “khoa học của mọi ngành khoa học”. Từ bối
cảnh ấy nảy sinh nhiều con đường khác
nhau để tạo nên diện mạo mới cho triết
học. Các con đường này đang xen nhau, khó tách bạch
nhưng tựu trung có ba dạng:
-
hoặc triết học tự vừa
ḷng với việc tập hợp những thành quả của
các khoa học riêng lẻ, rồi tổng hợp chúng lại
theo một trật tự nào đó. Con đường này
ít được ưa chuộng, hoặc nếu có, chỉ
là thứ yếu hoặc bị che đậy.
-
hoặc triết học với
tư cách là nhận thức luận hay khoa học luận
có tính phản tư (reflexiv) nỗ lực rút ra các nguyên tắc
của nhận thức (khoa học) theo kiểu nhận thức
ở cấp độ cao hơn – gọi là nhận thức
siêu-kinh nghiệm (transempirisch) hay siêu-hiện tượng
(metaphnomenal), tức là nhận thức về nhận
thức – nhằm lư giải các nguyên tắc của nhận
thức nói chung. Con đường này là đặc
trưng của triết học Anh.
-
hoặc triết học với
tư cách là một khoa học “đi trước” hay “khoa học
nền tảng” (Fundamentalwissenschaft), dựa vào các nguyên tắc
có giá trị phổ quát và hiển nhiên để đặt
một nền móng vững chắc cho các khoa học thường
nghiệm và toán học vốn chỉ có tính giả thuyết
và trong chừng mực đó, đưa chúng vào một hệ
thống. Đây là con đường của triết học
Châu Âu lục địa.
Hai
con đường sau đánh dấu sự ra đời một
mặt của các lư luận về nhận thức và
mặt khác, của các hệ thống siêu h́nh học
đầu tiên của thời cận đại. Tuy về
căn bản, cả hai con đường đều muốn
vượt lên trên các khoa học riêng lẻ bằng một
nền triết học dựa trên các nguyên tắc (có tính phản
tư hoặc đặt nền tảng) nhưng đều
không dẫn đến kết quả thực sự thuyết
phục v́ trong mỗi con đường đều tồn
tại hay nảy sinh những vấn đề khó khăn
không giải quyết được.
Sau Francis
Bacon (1561-1626), John Locke (1632-1704) là người đầu
tiên đề ra một môn nhận thức luận toàn diện,
quy mọi ư niệm (ideas) của ta (kể cả những
ư niệm về toán học và luân lư) vào tri giác cảm tính,
mang lại một bước ngoặt nhân loại học
và tâm lư học c̣n ảnh hưởng mạnh mẽ đến
ngày nay của triết học Anh. George Berkeley (1685-1753)
và David Hume (1711-1776) tiếp tục phát triển luận
điểm của Locke theo hướng “duy hiện tượng”
và “thực chứng”, một mặt nhấn mạnh đến
tính không thể chứng minh được về lư thuyết
đối với mối quan hệ giữa những biểu
tượng của ta với thực tại khách quan, mặt
khác, đến sự tất yếu về thực hành
phải giả định sự tồn tại của thực
tại khách quan. Trong khi nhận thức luận duy nghiệm
của Anh ngay từ rất sớm đă mang tính hoài nghi th́
siêu h́nh học duy lư (có định hướng toán học)
thống trị ở Châu Âu lục địa vẫn hoàn
toàn vững tin vào những nhận thức “hiển nhiên”
mang đậm tính giáo điều. René Descartes
(1596-1650) tin rằng có thể xây dựng triết học
thành một môn khoa học nền tảng, phổ quát, tức
một hệ thống gồm những nguyên tắc hiển
nhiên được rút ra từ lư tính thuần túy, hay nói
khác đi, từ điều hiển nhiên duy nhất là sự
tự-xác tín của Tự-ư thức, do đó Descartes c̣n
được gọi là cha đẻ của Siêu h́nh học
cận đại trong h́nh thức của triết học
về chủ thể hay triết học về ư thức.
Nhưng trong hàng ngũ của Siêu h́nh học duy lư cũng
có sự cạnh tranh quyết liệt giữa các mô h́nh khác
nhau. Khác với “cái Tôi” của Descartes, Baruch Spinoza
(1632-1677) xem Thượng đế hay Tự nhiên là Bản
thể duy nhất và tuyệt đối, c̣n mọi thực
tại khác đều là những thuộc tính và cách thái
(Modi) của Bản thể này. Gottfried Wilhelm Leibniz
(1646-1716) lại giả định một số lượng
vô tận của những bản thể đơn giản
(“những đơn tử”/Monaden) chứa đựng toàn
bộ thế giới như là hiện tượng trong những
“tri giác” của chúng. Descartes và cả Spinoza, Leibniz đều
cho rằng giả định của ḿnh là hiển nhiên và
Siêu h́nh học do ḿnh lập ra mới là khoa học nền
tảng đích thực. Nói khái quát, vào giữa thế kỷ
18, triết học Tây phương chứng kiến sự
đối lập giữa hai “lề lối suy tư”: nhận
thức luận duy nghiệm, hoài nghi kiểu Anh và Siêu h́nh học
duy lư, giáo điều kiểu Châu Âu lục địa. Trong
t́nh h́nh đó, Immanuel Kant (1724-1804) thấy bức thiết
phải đặt lại câu hỏi về khả thể
của Siêu h́nh học như là khoa học. Ông xem triết
học của ḿnh như là con đường thứ ba
giữa thuyết giáo điều và thuyết hoài nghi, giữa
thuyết duy lư và thuyết duy nghiệm. Quyển Phê phán
lư tính thuần túy lư giải và khẳng định khả
thể của khoa học thường nghiệm, đồng
thời bác bỏ khả thể trở thành khoa học của
Siêu h́nh học duy lư. Chỉ trong kinh nghiệm về cái “Phải
làm”, tức trong lănh vực đạo đức và nhân sinh
của lư tính thực hành, ta mới có được sự
tiếp cận nào đó với cái Tuyệt đối, qua
đó cái Tuyệt đối (Thượng đế, tự
do, linh hồn bất tử...) của tôn giáo cũng
được quy về cho Đạo đức học.
Mặt khác, với Kant, dù lư tưởng của triết học
vẫn là tri thức có tính nguyên tắc và tính hệ thống,
thậm chí là tri thức tổng hợp-tiên nghiệm,
nhưng về cơ bản, triết học đă trở
thành sự phê phán và tự phê phán toàn diện.
Ngay khi Kant c̣n sống, sự giải
phóng về tôn giáo và chính trị nhờ vào phong trào Khai sáng
và Đại Cách mạng Pháp đă tạo ra những kích
thích mới mẻ về tinh thần và xă hội. Tư
tưởng cộng ḥa cách mạng lan tràn khắp nơi
đ̣i hỏi thế hệ kế tiếp ngay sau Kant tiếp
tục đi t́m một sự xác tín đầu tiên và tuyệt
đối, một nhận thức “cao hơn” bằng cách
quay trở lại với loại nhận thức tuyệt
đối, tức một nền Siêu h́nh học tư biện
mới mẻ với Johann Gottlieb Fichte (1762-1814), Friedrich
W. Joseph Schelling (1785-1854) và Georg W. Friedrich Hegel
(1770-1831). Dù một số luận điểm cơ bản
của Kant bị các thuyết duy tâm tuyệt đối này
phản bác và cải biến (nhất là đối với
khái niệm “vật tự thân” vừa không thể nhận
thức được, vừa vẫn tất yếu phải
được suy tưởng), nhưng luôn lấy Kant làm
điểm xuất phát và quy chiếu, nhất là vẫn giữ
vững tinh thần phê phán của Kant. Và cũng chính
tinh thần phê phán này của Kant sẽ thâm nhập vào tâm thức
của các thế hệ triết gia sau đó, dẫn đến
sự “sụp đổ” của hệ thống duy tâm tuyệt
đối này vào nửa đầu thế kỷ 19 với
sự ra đời mạnh mẽ của triết học hiện
đại, khởi đầu với các tên tuổi lớn
như Arthur Schopenhauer (1788-1860), Ludwig Feuerbach (1804-1872), Karl
Marx (1818-1883), Sưren Kierkegaard (1813-1855) và Friedrich Nietzsche
(1844-1900)... Có thể nói, “Phê phán lư tính thuần túy” với
hạt nhân là tinh thần phê phán của nó đă khép lại
một giai đoạn, mở ra một thời kỳ và tiếp
tục gây ảnh hưởng sâu đậm đến
tương lai. Tác phẩm có vị trí đặc biệt
này, do đó, đáng được quan tâm một cách đặc
biệt.
3)
“Phê phán lư tính thuần túy” có hai ấn
bản chính: ấn bản lần thứ nhất năm
1781 (thường gọi là bản A) và ấn bản
lần thứ hai năm 1787 (thường gọi là bản
B, Kant gọi là “ấn bản được chữa
đi chữa lại nhiều lần”). Nhờ tác giả
“chữa đi chữa lại”, bản B thường
được dùng phổ biến làm căn cứ để
nghiên cứu và trích dẫn. Trong bản B, Kant viết lại
hoặc bổ sung thêm một số phần vốn khó hiểu
hoặc quá vắn tắt trong bản A: viết Lời tựa
mới, mở rộng Lời dẫn nhập, viết lại
phần “Diễn dịch siêu nghiệm các khái niệm thuần
túy của giác tính” (B130-B169), bổ sung chương “Về
cơ sở phân biệt mọi đối tượng nói
chung ra làm Phnomena [những hiện tượng] và Noumena [những
vật tự thân” (B295-B315), viết lại phần “Vơng luận
của lư tính thuần túy” (B407-B431).
Bản dịch
này căn cứ vào nguyên bản B (NXB FELIX MEINER VERLAG, HAMBURG,
1998). Các phần dị biệt c̣n lại trong bản A
như vừa kể trên đều được dịch
đầy đủ v́ xét thấy chúng có tầm quan trọng
riêng biệt. Như vậy, bản dịch này bao gồm trọn
vẹn cả bản A lẫn bản B.
Để
việc tra cứu và trích dẫn được thống nhất
và thuận tiện theo thói quen của những nhà nghiên cứu
về Kant, trên lề trái của mỗi trang đều có
đánh số trang theo nguyên bản (Vd: B100 = trang 100 trong
nguyên bản B xuất bản năm 1787, hoặc A100 = trang
100 trong nguyên bản A xuất bản năm 1781). Những
chỗ không có khác biệt giữa bản A và bản B, chỉ
được đánh số trang theo bản B để
đỡ rườm.
4)
Chú thích cuối trang: số Á Rập:
(1); (2)… là chú thích của tác giả; dấu sao (*) là của
người dịch (viết tắt: N.D). Phần chú thích của
người dịch ở ngay cuối trang thường là
để giải thích ngắn gọn các chữ khó giúp bạn
đọc đỡ mất công tra cứu và đọc tiếp
dễ dàng. Về nội dung chi tiết các thuật ngữ,
bạn đọc có thể t́m thêm trong “Mục lục vấn
đề và nội dung thuật ngữ” ở cuối
sách. Dấu [ ] là phần nói thêm
của người dịch để ư câu văn được
rơ hơn, và do đó, không có trong nguyên bản. Để
đỡ nhàm chán, tôi tự cho phép ḿnh nhấn mạnh bằng
cách in nghiêng hoặc in đậm một số từ và một
số câu xét thấy quan trọng. Dịch thuật ngữ
bao giờ cũng là công việc khó khăn nhất. Tôi cố
tránh dùng các thuật ngữ quá mới lạ hay cầu kỳ
và sau các thuật ngữ do tôi đề nghị dịch ra
tiếng Việt thường có ghi thêm thuật ngữ
trong nguyên tác tiếng Đức để người
đọc tiện so sánh hoặc có thể đề nghị
cách dịch khác tốt hơn.
5)
Đọc và hiểu triết học
cổ điển Đức trong nguyên bản là việc
khá vất vả, thậm chí là một “khổ h́nh” như
nhiều người thừa nhận. Tuy nhiên, công b́nh mà
nói, văn Kant tuy nặng nề, phức tạp, nhưng rất
mạch lạc và sáng sủa, có khi lại rất ư vị
và duyên dáng (nhất là ở phần II: Học thuyết siêu
nghiệm về phương pháp), chứ không đến nỗi
vừa nặng nề vừa tối tăm, kỳ ảo
như văn Hegel sau này. Trong khi dịch, tôi cố gắng
tăng cường tính mạch lạc và sáng sủa đồng
thời giảm bớt phần nặng nề. Nhằm mục
đích đó, ở nhiều chỗ, tôi buộc phải
chấm câu lại cho găy gọn (câu văn ông thường
rất dài, có khi hơn nữa trang giấy!) được
đánh dấu |
(ở những nơi đó, Kant viết liền một mạch
hoặc dùng dấu (,) hay (;)), mặc dù cố theo sát, không bỏ
sót điều ǵ cũng như không tùy tiện thay đổi
trật tự câu văn. Về phần người dịch,
dù sao, đây chỉ là cố gắng của một cá nhân
nên thành thật mong các bậc cao minh chỉ giáo những chỗ
sai sót không thể tránh khỏi trong khi chờ đợi sự
ra đời của các bản dịch khác tốt hơn
trong tương lai. Tuy biết là việc làm quá sức ḿnh
nhưng dịch và chú giải Kant thực ra chính là dịp
để được tự học lại Kant phần
nào mà thôi.
6)
Kant thuộc số không nhiều lắm
những đại triết gia đă lưu lại dấu
ấn và ảnh hưởng lâu dài và sâu đậm trong lịch
sử triết học. Do đó, t́m hiểu Kant về nội
dung là rất cần thiết để hiểu triết học
cận và hiện đại. Nhưng đồng thời,
về phong cách diễn đạt, tính mạch lạc, chặt
chẽ và có hệ thống trong các lập luận của
Kant cũng là mẫu mực giúp ta làm quen với lối suy
tư Tây phương - Âu Châu. Đọc Kant ngay trong nguyên bản
là cách tốt nhất để tiếp cận trực tiếp
với thuật ngữ và tản văn triết học.
Tuy nhiên,
chúng tôi cũng đưa thêm phần Dẫn luận
(giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm) ở
đầu sách do THÁI KIM LAN viết và phần Chú giải
dẫn nhập đi sâu hơn vào chi tiết do tôi soạn
đặt ở cuối mỗi chương với mục
đích khiêm tốn: giúp các bạn đọc mới lần
đầu tiếp xúc với Kant đỡ phần nào bỡ
ngỡ và lúng túng, mặc dù có thể không cần thiết với
người đọc đă thành thạo. Phần Chú giải
dẫn nhập sẽ tóm tắt những ư chính trong
chương, giải thích các chỗ khó hiểu, sắp xếp
lại những bước lập luận của tác giả
cho dễ theo dơi, và trong chừng mực cho phép, có đề
cập qua những cách lư giải khác nhau cũng như t́nh
h́nh thảo luận hiện nay liên quan đến nội
dung vấn đề đang t́m hiểu. Chú giải dẫn
nhập - đúng với tên gọi - chỉ là phần trợ
giúp cho người đọc, không có tham vọng tát cạn
vấn đề, càng không nhằm đưa ra những nhận
định, đánh giá vốn là công việc dành cho người
đọc và của những công tŕnh nghiên cứu chuyên sâu
khác. Tuy nhiên, với những bạn đọc có ít thời
gian, phần Chú giải dẫn nhập cũng có thể
giúp có một cái nh́n khái quát và tương đối ngắn
gọn về toàn bộ tác phẩm quá dài và khô khan này*.
Đúng
như nhiều người đă nhận định:
đọc tiểu sử của Kant (ở cuối sách), ta
có thể thấy buồn cười hoặc thú vị
trước lối sống quá đơn điệu và âm
thầm của ông, nhưng nụ cười ấy sẽ
tắt dần khi đi vào đọc ông, v́ để theo
dơi được tư tưởng của Kant, nhiều
lúc ta cảm thấy nghi ngờ về khả năng trí tuệ
của chính ḿnh!. Nhưng khi đă phần nào theo dơi
được ông, quả thật ta bắt đầu thụ
hưởng điều mà cổ nhân gọi là sự hỷ
lạc về tinh thần!.
Là người
đọc từ phương Đông, chúng ta đặc biệt
cảm nhận niềm “hỷ lạc” ấy về cả
hai mặt: cuộc đời và phong cách suy tưởng của
Kant. Đó là một cuộc đời an nhiên và cao nhă của
một bậc hiền triết sống nhất quán với
tư tưởng và niềm tin của ḿnh (trước khi
mất vào tuổi 80, ông chỉ nói một câu: “Thế là tốt!”
giống như thi hào Nguyễn Du của chúng ta). Về
tư tưởng, ông nêu những vấn đề rất
to tát nhưng với giọng điệu thân mật, ôn tồn,
“tuần tuần thiện dụ” giúp ta đỡ “sợ”,
để rồi lần lượt đề nghị giải
quyết những câu hỏi lớn lao ấy một cách sâu
sắc nhưng giản dị, khiêm tốn, cận nhân t́nh
khiến ta không khỏi liên tưởng đến tinh thần
“đạo bất viễn nhân” khá gần gũi của
đức Khổng: “… Triết học chỉ làm sáng tỏ
điều mà trước đây ta chưa thấy hết,
đó là: đối với những vấn đề liên
quan thiết thân đến mọi người, Tự nhiên
không bao giờ thiên vị và sẵn sàng phân phối quà tặng
cho mọi người chúng ta một cách công bằng, không
phân biệt. Và đối với các cứu cánh cơ bản
và tối hậu của con người, không có nền triết
học cao siêu nào có thể hướng dẫn cho ta bằng
sự hướng dẫn mà Tự nhiên đă phú bẩm cho
lương năng b́nh thường nhất (Phê phán lư tính
thuần túy, B859).
Mặt khác,
chỗ mới mẻ đă nâng vị trí của Kant thành một
trong số ít người đă tiên phong mở đường
cho nên văn hóa hiện đại - cũng như cho công cuộc
hiện đại hóa văn hóa - là ở năng lực tự
phê phán toàn diện của con người* để:
“Con đường triết học phải đi là con
đường của sự minh triết, đồng thời
cũng là con đường của khoa học, mà một
khi đă được khai phá sẽ không bao giờ để
cho bị vùi lấp lại và làm ta lạc hướng”
(B878). “Sự đào luyện lư tính con người” (B879) là
mục đích của Kant và cũng là lời mời gọi
nhiều thế hệ người đọc thử t́m hiểu
con đường ông đă khai phá ấy.
Bản dịch
này được ra mắt vào đúng dịp kỷ niệm
200 năm ngày mất (1804) và 280 năm ngày sinh (1724) của
Kant là nhờ sự khuyến khích và giúp đỡ của
nhiều người mà tôi xin phép được tỏ ḷng
biết ơn chung ở đây. Đặc biệt, xin cảm
ơn: - chị Thái Kim Lan đă gợi ư việc dịch và
tham gia tài trợ cùng với Ts. W. Bưhne (Trung tâm giao
lưu Đức-Á) và Viện Văn hóa Goethe (Goethe-Institut)
để ấn hành tập sách này; - ông bạn thân
Trương Văn Hùng (Strassbourg, Pháp) đă góp nhiều ư kiến
quư báu về việc dịch triết học Đức
sang tiếng Việt và xem lại một phần bản dịch
(tất nhiên, mọi sai sót là hoàn toàn thuộc về trách nhiệm
của người dịch); - Ông Nguyễn Văn Lưu,
Giám đốc Nhà Xuất Bản Văn Học và Ông Lê
Nguyên Đại, Giám đốc Công ty Văn Hóa Thời
Đại đă khuyến khích và tận t́nh hỗ trợ
việc xuất bản; - cử nhân Nguyễn Hiền
đă giúp đỡ về kỹ thuật vi tính.
BÙI
VĂN NAM SƠN
Trung
ẩn am, Phú Nhuận