BÙI VĂN NAM
SƠN
(Tìm thêm thông tin trong google:
mục từ “Bùi Văn Nam Sơn” và các link liên kết )
(Xem thêm: Bùi Văn Nam
Sơn online gồm toàn văn các công bố, tiếp sau
các link liên kết).
- Tự đóng
cửa là tự hại mình (http://vietbao.vn/Van-hoa/Tu-dong-cua-la-tu-hai-minh/40221225/181/
; http://www.laodong.com.vn/Home/Tu-dong-cua-la-tu-hai-minh/20079/56344.laodong)
- Văn hóa
đọc: Nên bắt đầu từ gốc (http://vietbao.vn/Van-hoa/Van-hoa-doc-Nen-bat-dau-tu-goc/40225849/181/)
- Luyện nội công song song
với học quyền cước (http://vietbao.vn/Van-hoa/Luyen-noi-cong-song-song-voi-hoc-quyen-cuoc/40151937/181/
; http://www.chungta.com.vn/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Suy-ngam/Luyen_noi_cong_song_song_voi_hoc_quyen_cuoc/)
- Dịch giả Mai Sơn: “Không
có thần đồng trong triết (http://vietbao.vn/Van-hoa/Dich-gia-Mai-Son-Khong-co-than-dong-trong-triet-hoc/45248928/181/)
- Bùi Văn Nam Sơn : Diễn từ
nhận Giải thưởng Tinh hoa Giáo dục Quốc
tế (http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/giai-thuong-tinh-hoa-giao-duc-quoc-te-cho-bui-van-nam-son/)
- Bùi Văn Nam
Sơn, dịch giả xuất sắc, triết gia gốc
gác, tận tình (http://amvc.free.fr/Damvc/GioiThieu/BuiVanNamSon/BVNSTab.htm
- Bùi Văn Nam
Sơn: Triết học không còn là đặc sản của
những thiên tài (http://tintuc.duyxuyen.vn/modules.php?name=News&op=viewst&sid=348
- Bùi Văn Nam Sơn và tinh thần
tự trị đại học! (http://blog.360.yahoo.com/blog-Fy3fUEU9cqi1ORLkO5KP5fkd.BoShQ--?cq=1&p=6
- Triết học không còn là đặc
sản của những "thiên tài"…
(http://www.chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Suy-ngam/Triet_hoc_khong_la_dac_san_cua_thien_tai/
; http://www.thethaovanhoa.vn/133N20080929092747430T14/Triet-hoc-khong-con-la-dac-san-cua-nhung-thien-tai.htm
- “Thư phòng”
của http://www.sachhay.com/blog/20080726125/bui-van-nam-son.aspx)
- Bùi Văn Nam Sơn - tác giả đoạt giải
"Tinh hoa giáo dục quốc tế" (http://beta.giadinh.net.vn/home/1820p0c1003/bui-van-nam-son-tac-gia-doat-giai-tinh-hoa-giao-duc-quoc-te.htm)
Buivannamsononline:
Quý
vị và Quý Bà con có thể đọc toàn văn các công
bố dưới đây của Ô. Bùi Văn Nam Sơn theo
thứ tự từ 1 đến 49 (ngày cập
nhật 23.04.2009)
Các công
bố:
Dịch và
chú giải:
- I. Kant:
1. Phê
phán lý tính thuần túy, NXB Văn học, 2004.
2. Phê
phán năng lực phán đoán, NXB Tri thức, 2006.
3. Phê
phán lý tính thực hành, NXB Tri thức, 2007
- Hegel:
4. Hiện
tượng học Tinh thần, NXB Văn học,
2006.
5. Bách
khoa thư các khoa học triết học
I: Khoa học lôgíc, NXB Tri thức, 2008
6. Max
Weber: Nền đạo
đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa
tư bản (dịch
chung với Trần Hữu Quang,
Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng, Lời giới thiệu
viết chung với Trần Hữu Quang), NXB Tri thức,
2008.
7. J.
S. Mill: Chính thể đại diện
(dịch chung với Nguyễn Văn
Trọng), NXB Tri thức, 2008.
Hiệu đính và
giới thiệu:
8. “Alexis
de Tocqueville và sự trầm tư về nền dân trị”, giới thiệu quyển Nền dân
trị Mỹ (Tocqueville) (bản dịch của
Phạm Toàn), NXB Tri thức, 2007.
9. “Lyotard
với tâm thức và hoàn cảnh hậu-hiện
đại”, giới thiệu
quyển Hoàn cảnh hậu hiện đại (Lyotard)
(bản dịch của Ngân Xuyên), NXB Tri thức, 2007
10. “Sự cần thiết của
một bộ từ điển các triết gia”,
giới thiệu quyển 101 triết gia (Mai Sơn biên
soạn), NXB Tri thức, 2007
11. Tủ
sách “Nhập môn triết
học, có minh họa”, NXB Trẻ (từ 2006)
12. “Một
triết lý giáo dục nhân bản: dạy và học làm người”, giới thiệu quyển Emile hay
về Giáo dục (J. J. Rousseau, bản dịch của
Lê Hồng Sâm và Trần Quốc Dương, NXB Tri thức,
2008).
Lời bạt:
13. “Rameau giữa chúng
ta”, Lời bạt cho quyển
Cháu ông Rameau (Diderot) (bản dịch của Phùng
Văn Tửu), NXB Tri thức, 2007
Góp bài cho Kỷ
yếu:
14. “Tương
lai của Khai sáng?”, cho Chuyên Luận “Từ Đông sang Tây”
mừng Giáo sư Lê Thành Khôi bảy mươi tuổi
(NXB Đà Nẵng, 2005)
15. “Đọc
lại “Bàn về Tự do” của
John Stuart Mill”, cho Quyển Trong
ngần bóng gương, Kỷ Yếu kính mừng GSTS
Đặng Đình Áng thượng thọ 80 tuổi
(NXB Tri thức, 2006)
16. “m.E”
và đối thoại triết học, cho Quyển Sĩ phu thời nay, Kỷ Yếu kính
mừng Giáo sư Hoàng Tụy thượng thọ 80
tuổi (NXB Tri thức, 2008)
Giới thiệu:
17. “Cuộc
hôn phối tưng bừng”, giới thiệu quyển Martin Heidegger
và tư tưởng hiện đại (Bùi Giáng),
NXB Văn học (tái bản), 2001
18. “Triết
học Kant: Hồi niệm và viễn cảnh”, giới thiệu quyển Triết
học Kant (Trần Thái Đỉnh), NXB Văn
học (tái bản), 2007
19. “Triết
học và/về tính hữu hạn”,
giới thiệu quyển Đâu là căn nguyên tư tưởng?
hay con đường triết lý từ
Kant đến Heidegger (Lê Tôn Nghiêm), NXB Văn
học (tái bản), 2007
20. “Lời
giới thiệu” cho tuyển
tập “Bùi Giáng, Văn & Thơ”,
Ngô Văn Tao tuyển trích, NXB Văn Nghệ, 2007.
21. “Vài
nét về Bùi Giáng” (Đôi
lời tiếp dẫn) cho Phổ
hệ Bùi Tộc Vĩnh Trinh, 1990, đăng
lại trong “Bùi Giáng trong cõi người ta”, Chủ biên:
Đoàn Tử Huyến, NXB Lao Động, Trung tâm văn hóa
ngôn ngữ Đông Tây, 2008
22. “Triết
học đương đại và triết học về
thời đương đại”,
giới thiệu quyển Toàn cảnh triết học Âu -
Mỹ thế kỷ XX (NXB Văn học, tái
bản 03.2008)
23. “Câu
chuyện triết học và triết học như một…
câu truyện”, giới thiệu
quyển Câu truyện triết học (Will Durant)
(bản dịch của Trí Hải và Bữu Đích), NXB
Văn học (tái bản), 2008
24. “Tiến
hóa” như một sơ đồ lý giải?, giới thiệu quyển “Nguồn
gốc các loài” của Darwin, sắp
được NXB Tri thức in theo bản dịch của
Trần Bá Tín (NXB Tri thức, 2009)
25. “Nhật
diện Phật, Nguyệt diện Phật”, giới thiệu quyển “Thấy
Phật” của Cao Huy Thuần (NXB Tri thức,
2009).
26. “Dữ
quân nhất dạ thoại”,
giới thiệu cho Bộ ba (“Đại cương
triết học Tây phương”, “Đại cương
triết học Đông phương”, “Các chủ đề
triết học”) của Nguyễn Ước (Canada)
(NXB Tri thức, 2009).
27. Đề
cương “Hành trình triết học mỹ học từ Platon
đến Adorno” (đề cương tóm tắt trình
bày ở Khoa Ngữ văn, Đại học Sư
phạm, Hà Nội, 28.03.09, công
bố trên Website amvc.free.fr.
28. Giới
thiệu ngắn về Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831)
trên VTV9, tháng 03.2009.
Các bài báo và trả lời phỏng
vấn:
Bài
báo:
29. “Dịch
thuật và học thuật”,
Mấy góp ý nhân Chuyên đề “Thực trạng dịch
thuật ở Việt Nam” (Báo điện
tử VietnamNet, tháng 12.2005).
30. Ý
kiến ngắn: “Để
tạo thói quen làm việc với văn bản gốc”
(Doanh nhân Sài Gòn Cuối tháng, 7.2007).
31. “Hưng
ư thi” (Doanh nhân Sài Gòn Cuối tháng, 10.2007)
32. “Thấy
Paris rồi chết” (Doanh nhân Sài Gòn Cuối tháng,
11.2007)
33. “Phiếm
luận đầu Xuân: Từ hiện đại
đến hiện đại hóa” (Báo Xuân Thời báo
Kinh tế Sài Gòn, 01.2008)
34. “Du
ư nghệ” (Doanh nhân Sài Gòn Cuối tháng, 01.2008)
35. Giới
thiệu sách Max Weber và “Tinh thần của chủ nghĩa tư
bản” (Doanh nhân Sài Gòn Cuối tháng, 09.2008)
36. Giới
thiệu sách Emile hay về Giáo dục và Bách khoa thư các Khoa học triết học I
(Doanh nhân Sài Gòn Cuối tháng, 10.2008)
37. “Tin
và đáng tin” (báo Xuân Kỷ Sửu, Thời báo Kinh
Tế Sài Gòn, 2009)
38. Nguyên
hình Nữ chúa trên ngày phù du (Doanh nhân Sài Gòn Cuối tháng,
Xuân Kỷ Sửu, 01.2009)
39. “Đạp
thanh hội cũ hào hoa” (Doanh nhân Sài Gòn Cuối tháng,
2.2009)
40. “Bao
giờ có những dịch trường?” (Doanh nhân Sài
Gòn Cuối tháng, 3.2009)
Trả
lời phỏng vấn:
41. “Trà
dư tửu hậu” về
triết học (Báo Xuân Thời báo Kinh tế Sài
Gòn, Võ Trần Bình Phương thực hiện, tháng 01.2007).
42. Gặp
gỡ đầu Xuân: “Hãy dám
biết” (Báo Đại Đoàn Kết, Đăng
Ngọc thực hiện, tháng 01.2007).
43. “Luyện
nội công song song với học quyền cước”
(Talawas, Lý Đợi thực hiện, tháng 07.2006).
44. “Tự
đóng cửa là tự hại mình” (Báo Lao
Động, Nhật Lệ thực hiện, tháng 9.2007)
45. Trả
lời báo điện tử Vietnam Net (Chiến thực hiện,
12.2007)
46. “Hy
vọng đầu xuân” (Báo Thể Thao Văn Hóa, Lê Tân
thực hiện, 01.2008)
47. Trả
lời phỏng vấn Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo (Bùi
Xuân Phượng thực hiện, tháng 05.2008)
48. Trả
lời phỏng vấn Báo Thanh Niên (Hải Miên thực hiện,
06.2008)
49. Nói
chuyện với nhà triết học Bùi Văn Nam Sơn
về “Hegel và Khoa học Lô gíc”
(Báo Thể thao Văn hóa, Lý Đợi thực hiện,
09.2008)
Cập nhật từ 01.05.2009
50. “Sinh viên phải tự đòi
hỏi để đồng hành với tri thức”
(Sài Gòn Tiếp Thị ngày 23.04.2009; Nguyễn Vinh ghi).
51. “Tính liên-Văn hóa: Một
thái độ giáo dục” (Doanh nhân Sài Gòn
Cuối tháng, 04.2009).
52. “Dẫn
nhập vào Tư tưởng Ấn Độ” (Leo Gabriel,
Wien), dịch Lời giới thiệu của Leo Gabriel cho
quyển “Lịch sử Triết học Ấn Độ” (Geschichte der Indischen Philosophie) (2
tập) của Erich Frauwallner.
Giải thưởng:
- Giải thưởng “Tinh hoa giáo
dục quốc tế” (2006) của Đại học
quốc gia Hà nội và Quỹ dịch thuật Phan Châu Trinh
cho bản dịch và chú giải “Phê
phán lý tính thuần túy”.
Dịch
thuật Việt Nam
thời @:
Dịch thuật và học
thuật
11:15' 28/01/2006 (GMT+7)
(VietNamNet) - Dịch thuật là tăng nội
lực cho số đông để các thế hệ sau bay
cao, bay xa. Không có cái nền chung ấy, những “sáng
tạo” đột xuất cũng khó có chất
lượng ngoài chút hư danh của
kẻ “múa gậy vườn hoang” và trái với tính “công
truyền” (chứ không phải “bí truyền”) vốn là
bản chất của khoa học và với lý tưởng
nhân văn, khai sáng của triết học đích thực.
Bìa cuốn "Phê phán lý tính
thuần túy" của Kant do Bùi Văn Nam Sơn dịch,
NXB Văn Học 2004.
Báo Điện tử VietnamNet đang mở
diễn đàn với chuyên đề “Thực trạng
dịch thuật ở Việt Nam”
và có nhã ý đề nghị tôi tham gia ý kiến. Tôi không am tường lắm
về “thực trạng dịch thuật” chung
của cả nước, nên chỉ xin góp vài ý kiến
trong phạm vi hẹp là việc dịch triết học Tây
phương sang tiếng Việt, lãnh vực mà tôi có
hiểu biết chút ít. Để ngắn gọn, tôi xin phép
phát biểu theo kiểu “gạch
đầu giòng”:
1. Cần đặt việc dịch thuật vào khuôn
khổ chung của việc xây dựng
nền học thuật nước nhà:
-
Trong lãnh vực triết học, hiện có hai luồng ý
kiến:
a) không
nên dịch; “dịch là phản”. Muốn tìm hiểu hay giao
lưu với tư tưởng Tây phương, phải
cố trực tiếp đọc bản chính bằng
ngoại ngữ. Lý do thường nêu là trình độ có
hạn của những người dịch và cả
khả năng diễn đạt còn yếu của
tiếng Việt cũng như truyền thống ít
chuộng lý luận của nước ta.
b) dịch
là công việc thứ cấp, nhai lại cặn bã của
cổ nhân và của người khác. Hãy “sáng tạo” và
tự làm nên những công trình của riêng mình!
Các ý
kiến ấy đều có chỗ đúng, nhưng tôi e là
do chưa thấy hết mối quan hệ chặt chẽ
và tác động qua lại của dịch thuật và
học thuật. Học thuật theo nghĩa hẹp là
nền giáo dục, nhất là nền giáo dục, nghiên
cứu ở đại học, và theo
nghĩa rộng là nền “tư văn”, là đời
sống và hoạt động khoa học, tinh thần
của cả một đất nước.
- Có vô số ví
dụ đáng suy nghĩ chung quanh vấn
đề này trong lịch sử phát triển tư
tưởng của các nước; chỉ xin thử nêu
một số:
+ Ngài Trần Huyền
Trang (Thầy Tam Tạng) tổ chức dịch kinh một
cách quy mô và có phương pháp nên đã đặt nền
móng vững chắc cho Phật học ở Đông Á, nâng
chất lượng của Hán văn lên một trình độ
mới hẳn. Các “tân thư” (Darwin, H.
Spencer, Rousseau, Montesquieu…) được dịch ở
Nhật và Trung Quốc vào thế kỷ 19 mở
đường cho cách mạng dân chủ và canh tân xã
hội. Không ít những thuật ngữ ngày nay chúng ta
đang dùng (chẳng hạn ngay chữ “Triết học”!)
cũng là nhờ công lao của các
dịch giả Nhật và Trung Quốc ấy… Đó là chưa nói đến các cống hiến
tiền phong của nhiều học giả Việt Nam
thế hệ trước đây.
+ Ngay tại Châu
Âu, tác phẩm chính của Adam Smith được dịch ngay
ra tiếng Đức cùng trong năm 1776 [i]
nhờ đó Kant, Hegel…
mới được đọc và đã kịp thời
mở rộng kích thước xã hội, kinh tế-chính trị
trong tư tưởng của mình. Các tác phẩm chính
của M. Heidegger - tưởng như “không thể dịch được”
- đã sớm được các dịch giả có chân tài
dịch sang tiếng Pháp với sự hỗ trợ
của chính tác giả, nhờ đó gây nên phong trào “triết
học hiện sinh” sôi nổi ở Pháp… Trong khi đó, vì
dịch quá muộn (chậm hơn 40 năm giữa hai
nước láng giềng!) tác giả có tên tuổi lớn ở
Pháp là Gaston Bachelard [ii]
hầu như không
được biết đến ở khu vực sử
dụng tiếng Đức khiến giới triết học
Đức hiện nay ân hận mãi!
+ Về ngôn
ngữ, ngoài ví dụ rực rỡ và quen thuộc của
Thầy Tam Tạng trên đây, dịch thuật góp phần
rất lớn vào việc cải biến, xây dựng và nâng
cao ngôn ngữ khoa học của nhiều nước. Ngày nay, ai cũng phải thừa nhận tiếng
Đức là ngôn ngữ uyên thâm về triết học và
khoa học. Nhưng đâu phải “trời sinh ra
thế” và cũng chỉ mới được “như
thế” từ khoảng 200 năm nay thôi! Thế kỷ 18,
mọi người đều viết bằng tiếng Latinh
(ngay cả Leibniz và Descartes) vì ai cũng cho rằng tiếng
bản ngữ là “nôm na mách qué!”. Nhờ
Martin Luther “đánh bạo” dịch kinh Thánh sang tiếng
Đức mới bắt đầu có ngôn ngữ văn
xuôi Đức trôi chảy. Rồi nhờ Ch. Wolff và Kant
cố gắng dịch các thuật ngữ Latinh sang
tiếng Đức mới đặt được
nền móng cho ngôn ngữ triết học Đức ngày
nay… Còn trong tiếng Anh, đó là công của những J. Locke,
David Hume, Berkeley…
Tóm lại:
- không cá nhân hay
quốc gia nào dám cho rằng mình là “đỉnh cao”, là “quê hương”
của tư tưởng, khoa học mà không lo học
hỏi người khác và nước khác.
- dịch
sớm và dịch cái đáng dịch là cách nhanh nhất
để bắt kịp thiên hạ.
- dịch
đúng và dịch hay góp phần vun bồi hay thậm chí
nâng cao ngôn ngữ và trình độ tư duy của cả
một dân tộc.
- không ngôn ngữ nào
là “kém”, là “nôm na mách qué” cả, chỉ có người
viết và người dịch kém mà thôi. (Tiếng Việt,
trải qua nhiều giai đoạn phát triển, nay đã
trưởng thành, có tiềm lực thẩm mỹ, tư
biện và khoa học không thua kém ngôn ngữ nào khác, lại
có trữ lượng thuật ngữ hầu như vô
tận từ nguồn “đồng văn” Trung, Nhật…).
Một
số hệ luận có thể rút ra là:
- Bạn hãy cho tôi biết
nước bạn đã dịch được những gì,
tôi sẽ nói cho bạn biết nền học thuật
của nước bạn hiện như thế nào!
- Xét học
thuật theo nghĩa hẹp là nền
giáo dục đại học, ta thấy:
+ sau nhiều bước
cải cách, ở đại học các nước phương
Tây, nhất là khoa Triết, hầu như chỉ còn có
những giáo sư rất nổi tiếng, tầm cỡ “triết
gia” mới dám “đọc cours” (“giáo trình”), nếu không
sẽ chẳng có sinh viên nào đến nghe, vì “dự cours”
không cấp chứng chỉ để tính điểm! Hầu hết chương trình còn lại dành cho
các “xêmine” mà chủ yếu là thầy trò cùng đọc, cùng
làm việc trên bản chính (nguyên bản hay bản dịch
được thừa nhận) của các tác giả
lớn. Từ đó, mới bỏ được
tận gốc tệ nạn “thầy đọc trò chép”, và
người học có đủ tự tin để trích
dẫn, trao đổi, tham bác, nghị luận, hình thành
tư duy độc lập và sáng tạo về sau. Và,
cũng chỉ cách học ấy mới khiến người
ta thấy cần biết bao những bản dịch thật
tốt và kịp thời!
+ sách tham khảo là cần, nhưng sách chính
bản (Original) là cần hơn. Không nên làm việc
ngược đời: sách tham khảo trở thành “chính
khóa”, sách chính bản trở thành sách “tham khảo”. Các nhà nho
thức thời trước đây (chẳng hạn Phan
Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng…) đều đã bực mình
và lên án “lối học Tổng nho” ấy: sĩ phu chạy
theo khoa cử thật ra chỉ học Chu Hy và Bùi Huy Bích
chứ ít học Khổng Mạnh và Tứ thư [iii]
!
- Xét học
thuật theo nghĩa rộng là nền
tư văn, khoa học của cả nước nhà, ta
thấy:
+ “bất
học Thi, vô dĩ ngôn”, không “bác lãm quần thư” thì
lấy gì để ăn nói với thiên hạ, để
có thể tham gia và góp tiếng nói của mình vào cuộc
“trăm nhà đua tiếng” trên thế giới?
+ không luyện nội công, chỉ học
quyền cước làm sao đủ sức… “hành hiệp giang hồ”? Cũng như trong
thể thao… SEA Games thôi, môn nào có đủ “nội lực”
thì đi xa, thắng lớn, chưa đủ thì chỉ
biết phó cho may rủi. Dịch thuật là tăng nội
lực cho số đông để các thế hệ sau bay
cao, bay xa. Không có cái nền chung ấy, những “sáng
tạo” đột xuất cũng khó có chất
lượng ngoài chút hư danh của kẻ “múa gậy
vườn hoang” và trái với tính “công truyền” (chứ
không phải “bí truyền”) vốn là bản chất của
khoa học và với lý tưởng nhân văn, khai sáng
của triết học đích thực. Dù cao
xa, thâm trầm đến mấy, triết học chưa
bao giờ là sự độc thoại, là sản phẩm từ…
hư vô mà là sự tiếp tục suy tưởng. Nó là việc kiến tạo liên tục những
cuộc đối thoại với các “luật chơi”
riêng biệt. Nói như Kant, “một mình mình biết,
một mình mình hay”, hoặc không trao đổi, cọ xát
rộng rãi, - trước hết với những
người trong nước rồi rộng ra nước
ngoài - trong tinh thần phê phán và công khai thì đó là cách
“hộ tử” (Euthanasie) êm ái nhất đối với
triết học!
2.
“Làm gì?”
- Theo thiển ý, không bao giờ
là muộn để cùng nhau bình tĩnh tổ chức việc
dịch thuật cho có bài bản. Không nên từ chỗ bỏ
bê chuyển sang sự nóng vội. Theo tôi, việc dịch sách
triết học có mấy điểm đặc thù sau
đây:
a) Tính hệ thống:
- Thường xuyên
cập nhật một danh mục thật tốt những tác
phẩm cần dịch (tiêu biểu cho mỗi thời
kỳ, mỗi trường phái, mỗi tác giả…),
rồi kiên trì theo đuổi kế hoạch ấy một
cách lâu dài [iv]
.
- Dịch sách chính
bản trước, sách tham khảo sau. Sách “nguồn
cội” trước, sách “phái sinh” sau (vd:
dịch Platon trước Plotin, dịch Kant trước
Fichte, dịch Husserl, Heidegger trước Sartre, Gadamer…).
b) Tính giáo khoa:
- Sách triết
học không chỉ để “thưởng thức” hay “di
dưỡng tính tình” ở nơi thanh vắng mà để
cùng nhau học trước đã. Vì
thế, phải dịch thật kỹ, thật trung
thực, có chú thích và chú giải kỹ càng. (Các chú
thích, chú giải chỉ nên làm nhiệm vụ giải thích,
soi sáng những chỗ khó hiểu. Việc
nhận định, phê phán nên dành cho người
đọc và nên làm chỗ khác). Luôn
ưu tiên nghĩ đến đối tượng
đọc và sử dụng là giới sinh viên và nguời
nghiên cứu. Tránh tình trạng đọc bản dịch
còn khó hơn đọc… nguyên bản! Có
nhiều tác phẩm rất kén chọn người
đọc và thỉnh thoảng mới cần đến,
vì thế cũng không nên đòi phải phổ biến
rộng rãi hay có “tác động” thiết thực ngay.
Nhưng khi cần đến thì phải có.
Các nền học thuật hơn thua nhau là
ở chỗ đó.
c) Tính khoa học:
- Bản
dịch ra đời không phải một lần là xong mà có
thể dịch đi dịch lại nhiều lần. Sau khoảng 10, 20 năm, các bản dịch
đều cần chỉnh lý lại cho phù hợp với
biến chuyển của ngôn ngữ và thuật ngữ.
Khuyến khích có nhiều bản dịch khác
nhau về cùng một tác phẩm để người
đọc chọn lựa, so sánh, đừng ngại
mất công hay cho là thừa.
- Ở các nước,
người dịch thường là người đã
nghiên cứu lâu năm về tác giả. Nếu là tập thể
dịch giả, thì thường là nhóm “tâm giao”, hiểu nhau
và hiểu tác giả để bản dịch có được
sự chặt chẽ, “nhất khí”. Chỗ nào không hiểu
hay chưa hiểu rõ thì cũng cứ nói ra để
người đọc được biết, chẳng
xấu hổ gì. Ngay tác giả có khi còn chẳng hiểu được
chính mình nữa là!
- Bản
dịch văn chương có thể bằng hoặc có khi
“hay” hơn nguyên bản, thậm chí có “dư địa” cho
sự “sáng tạo” của dịch giả (theo nhận xét
chủ quan của tôi, có thể lấy ví dụ: bản
dịch “Tỳ Bà Hành” của Phan Huy Vịnh, bản
dịch “Trường hận ca” của Tản Đà,
một hai bản dịch của Bùi Giáng...). Trong triết
học, cần dịch đúng và dịch sao cho “có thể
đọc được” trước đã, vì như Kant
nói “trong lãnh vực này, điều nguy hiểm không phải
là bị phản bác mà là không được hiểu
đúng” (Phê phán Lý tính thuần túy, Lời Tựa II, BXLIII),
do đó các triết gia lớn thường cân nhắc từng
chữ, từng ý, đúng với câu “nhất tự thiên
kim” mà người dịch không được phép lơ là
hay thiếu tinh tế. Do tính nghiêm mật của triết
học, dịch sai còn tệ hơn là không dịch vì nó có
thể để lại những di hại khôn lường
về sau. “Tín, đạt, nhã” là lý
tưởng của việc dịch; nếu chưa
được cả ba, nên ưu tiên cho chữ “tín”.
- Sớm hình thành
và hoàn thiện dần một “quy ước” chung, thống
nhất về kỹ thuật dịch và cách trình bày bản
dịch, xây dựng từng bước một “kho”
thuật ngữ và dữ liệu, soạn “từ
điển” thuật ngữ về từng tác giả,
từng bộ môn (vd: nhận thức luận, đạo
đức học,…).
3.
Xin hãy “vội vã một cách chậm rãi”!
- Trừ những
bậc thiên tài về tư tưởng và dịch
thuật, thường phải học vài chục năm
về một hay vài ngoại ngữ và tiếng mẹ
đẻ (ngoài kiến thức chuyên ngành) mới có thể
dịch và chú giải sách triết học. Mấy
ai có điều kiện ấy? Nên, tình hình cũng
thật cấp bách! Số người thuộc chuyên ngành
này vốn đã không nhiều; sống lâu ở nước
ngoài thì “kém” tiếng Việt; học chuyên ngành và ngoại
ngữ ở trong nước năm bảy năm thì
chưa đủ, làm sao giải quyết tình trạng ấy?
- Theo tôi, chỉ có cách
học kinh nghiệm của Ngài Trần Huyền Trang là:
đào tạo kiểu “cuốn chiếu”, tổ chức dịch
theo mô hình “kim tự tháp” bằng một
“công nghệ có tính dây chuyền”.
- Lập một
“diễn đàn dịch thuật” thường xuyên
để trao đổi, học hỏi giúp đỡ
lẫn nhau.
- Trong bối
cảnh một xã hội thông tin và toàn cầu hóa ngày càng
phát triển nhanh chóng và không thể đảo
ngược, sự tự giác và khả năng tự
tổ chức của giới khoa học là quan trọng và
cần thiết nhất. Các yếu tố
ngoài-khoa học cũng cần nhưng không và không nên để
trở thành yếu tố quyết định. Việc
hình thành mới đây của “Tủ sách Tinh hoa Tri thức
thế giới” là một dấu hiệu tốt theo hướng đó.
Tóm lại, xây nhà thì không thể xây từ nóc;
nhưng cái nền tất nhiên cũng chưa phải là ngôi
nhà. Công việc xây nền là công việc “khổ sai” âm
thầm, nặng nhọc, không thú vị bằng công
đoạn… trang trí nội thất. Nhưng,
đó là khâu cần hơn hết đến tài nghệ và lương
tâm của kiến trúc sư và kỹ sư xây dựng.
Với sự giám sát nghiêm khắc nhưng có viễn
kiến của các tổng công trình sư. Vái trời
sớm có được những con người đó!
Vài ý
kiến nôm na và thành thật xin đóng
góp vào diễn đàn chung.
Bùi Văn Nam Sơn (dịch giả)
[i]
A.
Smith: An Enquiry into
the Nature and Causes of the Wealth of Nations. Nguyên bản Anh: London
1776; bản dịch Đức 1776, 1792 (thật
đáng kinh ngạc!).
[ii]
G.
Bachelard: “La formation
de l’esprit scientique” (Nguyên bản Pháp: 1938; bản
Đức: 1978!). Té ra không phải “ông Tây” nào cũng thích
và cũng có khả năng đọc ngoại ngữ của
nước láng giềng!
[iii]
Xem:
Bài tựa của Huỳnh Thúc Kháng cho quyển “Khổng học
đăng” của Phan Bội Châu (ghi theo
trí nhớ).
[iv]
Mới đây tôi có nộp cho “Tủ sách Tinh hoa Tri thức thế
giới” và NXB Tri thức do GS Chu Hảo chủ trương
một danh mục gợi ý.