BÙI
TÚC
(1865 - 1937)
----------O0O---------
Ông BÙI
TÚC húy Văn Nghi, tự Tạ Công, tục danh Ông BÁ
HUYNH là trưởng nam của Ngài Thị giảng Bùi
Thân và Bà Chánh thất Nghi nhân Đặng thị Sung.
Ông sinh ngày 7-2-năm Ất Sửu (1865) tại
Vĩnh Trinh.
Ông
người thanh mảnh, ḿnh hạc, xương mai,
mắt sáng, tai to, râu vừa, ăn
mặc b́nh dị, tính t́nh cương trực, nghiêm
nghị.
Thuở nhỏ, Ông thụ giáo với Ngài
Lưỡng khoa Tú tài Phan Tuyên tự Ngọc Trai, quê ở
Bàn Lănh, Điện Bàn.
Năm
20 tuổi - Giáp Th́n, 1884 - Ông kết duyên cùng Bà PHAN THỊ
TRANG, ái nữ của Ngài Tú tài Phan Tấn, tự
Khiết Kỷ, quê tại Bàn Lănh.
Năm Ất Dậu, 1885, sau kỳ sơ tuyển
ở Tỉnh, Ông lều chỏng lên đường ra
Huế ứng thí, mong hiển thân bằng đường
khoa cử. Nhưng kinh thành gặp cơn chính
biến, Ông phải quay về, hoài bảo không thành.
Sang
năm sau - Bính Tuất, 1886 - chẳng may thân mẫu Ông qua
đời, Ông bèn gác mộng sách đèn, giúp đỡ
phụ thân trông nom công việc gia đ́nh.
Thân
phụ Ông đă nhân danh Ông tự nguyện lạc quyên vào
công cuộc cứu tế, xă hội, nên Ông đă
được Triều đ́nh Huế ân thưởng Tùng
Cửu phẩm văn giai, Bá hộ. Từ
đấy Ông được người ta gọi là Ông Bá
Huynh.
Sau khi Ông có được Bà kế mẫu, Ông Bà
xin ra biệt cư, ở ngay bên tả vườn của
thân phụ.
Nhờ
có ruộng đất của song thân trích hứa và cũng
do sẵn tính siêng năng, cần kiệm, chẳng bao lâu
Ông Bà đă trở thành một nhà cự nông trong vùng.
Ông bà
sinh hạ được: 5 trai, 1 gái và 3 ấu vong.
Đối với gia đ́nh, Ông là một
người con hiếu, một người anh thuận,
một người chồng đảm, một vị cha
hiền.
Đối
với họ hàng, làng xóm, Ông là một người tốt,
sẵn sàng giúp đỡ mọi người.
Ông đă giúp phụ thân trong việc kiến
thiết Nhà thờ Tiền Hiền, xây mộ Tiền
Hiền, đă lạc cúng thêm tự điền cho Tộc,
Phái và thôn, ấp, đă giúp đỡ đồng bào trong
chương tŕnh đắp đập khai mương.
Điểm
đặc biệt là mặc dù hiền thê Ông mất
sớm, nhưng Ông không tục huyền, chăm lo xây
dựng cho con cái. Các con Ông đều có phẩm hàm và dinh
cơ đồ sộ. Người th́ ở lại nguyên
quán, người ra lập nghiệp ở tha hương
như Thanh Châu, Phú Nhuận, Thu Bồn, Trung Phước.
Các cháu chắt Ông hầu hết đều học hành
giỏi, đỗ đạt cao, có một số đă
xuất dương du học.
Lúc văn
niên, Ông được quư tử - Ông Bà Bùi Phùng - rồi
tiếp theo đích tôn - Ông Bà Bùi khắc
Tục - chăm lo việc thần hôn rất nhiệt thành
và chu đáo.
Tối rằm tháng 4 năm Đinh Sửu (1937) -
sau mấy ngày cảm mạo khiếm an, nhưng vẫn
tỉnh táo như thường - Ông bảo người nhà
đi hái ít thứ lá cây, đem về nấu nước
để lau ḿnh và thay áo quần mới cho Ông. Ông
lại bảo con cháu lo chuẩn bị nấu cúng sớm -
v́ sáng 16-4 là ngày chánh kỵ của Ngài Phạm thị
Phụng, - để Ông kịp đi theo
Bà Nội. Tuy vâng lời, con cháu vẫn không
tin, nghĩ thầm là trong lúc đau yếu, Ông nói vậy
thôi. Không ngờ, đúng như Ông đă nói, lúc
trời vừa mờ sáng khi trưởng nam - Ông Bùi
Thống - cùng một số Bà con mới cúng xong tuần
rượu đầu ở nơi Từ đường
(Nhà thờ Phái I), th́ nơi tư thất vội tin lên là
Ông vừa trút hơi thở cuối cùng một cách nhẹ
nhàng, êm ái. Nhân đấy một thân điệt của Ông
- Ông Bùi Thường - đă thường nói: "Bác Bá không
tu mà bằng mấy tu. Sống một
đời đạo hạnh, như Kinh Phật đă
dạy, Bác đă:
"Khi
mạng gần chung,
Biết
trước giờ chết
Thân
không bệnh khổ,
Tâm không
tham luyến,
Ư không
điên đảo,
Như
vào thiền định …"
Ông
thọ 73 tuổi, an táng tại G̣ Mít, xứ Chà Rang, Vĩnh
Trinh - tọa Giáp, hướng Dần, kiêm Canh Giáp - nơi
Ông đă tự chọn từ lúc sanh tiền.