BÙI
THƯỜNG
(1905 - 1985)
----------O0O---------
Ông BÙI THƯỜNG tục danh Ô. NGHÈ
THƯỜNG là thứ nam của Ông Bùi Thiệu và Bà
Đỗ Thị Quốc.
Ông
sinh năm Â. Tỵ (1905) tại Phú Đa.
Mồ côi cha từ lúc mới 3 tuổi, khi lớn
lên, Ông không bao giờ làm trái ư mẹ, tỏ ra người
con rất hiếu thảo (1).
Tánh
Ông trầm tĩnh, đôn hậu, chơn chất, dễ thu phục t́nh cảm của mọi
người.
Thuở nhỏ, Ông học Hán văn, đă tập
làm thi, phú.
Nhưng
sau trận cướp năm 1915, nhân đi tŕnh báo và kêu nài
với Chính quyền ở Hội An, thân mẫu Ông đă có
một nhận định thức thời là cho các con
chuyển sang học Tây học thay v́ theo đ̣i Cựu
học như trước.
Từ
đấy Ông xuống học Tiểu học ở Hội
An rồi tiếp theo, Ông trúng tuyển
vào trường Quốc học ở Huế (1). Ông học chăm và giỏi, ở lớp nào
cũng được thầy khen, bạn mến (1).
Tốt nghiệp Cao đẳng Tiểu
học năm 1924, Ông thuộc vào lớp người thi
đỗ Tân học sớm nhất ở trong Tộc lúc
bấy giờ.
Ông
được bổ làm Thư kư ở Ṭa Khâm, Huế,
nhưng phần không muốn sống trong ṿng cương
tỏa của người công chức, phần cảnh nhà
đơn chiết – mẹ mới mất, phải cùng các
anh em lo quản trị cơ nghiệp đồ sộ của
song thân – Ông đă xin nghỉ việc, lui về lo quản
lư việc gia đ́nh, vui thú nông tang (1).
Ông
lập gia đ́nh, kết duyên – năm Đ. Măo 1927 –
với Bà HỒ THỊ PHÁN, ái nữ của Ô.B. Hồ
Viết Tư, ở Trung Thái, Đại Lộc, sanh hạ
được 5 nữ, 1 nam và 1 ấu vong. Từ năm N.
Ngọ 1942, với thứ thất là Bà TRẦN THỊ
NĂM, ái nữ của Ô.B. Trần Đ́nh Thoan ở
Đông Lâm, Đại Lộc, Ông đă sanh hạ
được 5 nam, 2 nữ và một ấu vong.
Ông
có theo các khóa giảng về Phật pháp do Đạo
trưởng Bác sĩ Tâm minh Lê Đ́nh Thám tổ chức
tại Hội An. Sẵn có cái vốn kiến thức
vững chắc về các nền văn hóa Đông Tây, Kim
Cổ, Ông đă đi sâu vào giáo lư của đạo Từ
Bi. Với Pháp danh Như Huyền, Ông đă
cùng đồng bào Phật tử đứng ra thành lập
Khuông hội ở trong làng và Ông bắt đầu
trường trai từ đấy.
Mùa
thu năm 1945, khi toàn dân đứng lên giành độc
lập và tiếp theo, khi chiến tranh bùng nổ,- với tinh thần bài phong, đả
thực,- Ông đă lần lượt tham gia vào Ủy ban
Kháng chiến ở Xă và ở Huyện.
Nhận
thấy đời sống nông thôn hợp với sở
thích của Ông nhưng không thuận tiện cho sự
học hành của con cái, nên sau năm 1955 Ông đă cùng gia
đ́nh vào Sài G̣n.
Lúc đầu Ông nhận dạy một số
giờ ở các trường trung học Tư thục Tân
Thanh, Đạt Đức và Văn Hiến. Sau
đấy, từ năm 1963, Ô.B. Bác sĩ Bùi Kiến Tín
đă nhờ Ông giúp Ông Bà ấy trong việc quản lư nhà
thuốc ở Phú Lâm.
Trong
thời gian nầy, Ông thường lui tới chùa Tuyền
Lâm, tham dự các buổi thuyết pháp và sung vào Ban Hộ
niệm của Chùa. Ông đă tự tay
chép Bộ Kinh Pháp Hoa bằng Hán văn một cách công phu.
Ông
cũng tham gia tích cực vào các công tác của Tộc:
-
Soạn thảo bản điều
lệ của Bùi gia Vĩnh thế tương tế
hội xin thành lập năm 1968.
-
Hệ thống hóa quyển Phổ
hệ của Tộc in ronéo năm Canh Tuất 1970.
-
Soạn trướng, liễn nhân
các dịp hiếu hỷ trong Tộc (2).
Ông mất ngày
01-11-Â. Sửu (1985) hưởng thọ 81 tuổi, hỏa
thiêu, trí cốt phụng tự tại chùa Tuyền Lâm.
Bà
chánh thất hiện ở với con tại Hội An, bà
thứ thất sang đoàn tụ với con tại Úc.
Ông
là một người đă đóng góp nhiều cho Gia
tộc và đă có một đời sống đạo
hạnh đáng được hậu thế noi theo.
Ghi
chú:
(1)
Mồ côi cha từ non tuổi,
sách đèn ra sức, sau trước mấy ai;
Thờ kính mẹ măi trọn niềm, thầy
bạn mến tài, xưa nay ít kẻ.
Thuở
niên thiếu theo trào lưu Tân học,
thức khuya dậy sớm,
khi Hội An, khi Thuận Hóa,
đỗ đạt lắm phen;
Buổi
trưởng thành ưa thi vị nông tang, gió mát trăng
thanh,
g̣ Ông Bộ, lạch Bà Lương,
nhọc nhằn không kể.
(Trích Điếu văn do Ô. Bùi
Tấn Soạn)
(2)
-
Câu đối ở Bàn thờ Tổ tiên:
TỔ ĐỨC TÔN CÔNG,
THUỞ THUỞ VỮNG XÂY NỀN VĨNH ĐỊA;
CON ĐÔNG CHÁU GIỎI,
ĐỜI ĐỜI RẠNG VẺ NẾP BÙI MÔN.
-
Bức hoành của Tộc mừng tân gia Ô. Bùi Quán:
LAN NGỌC TÂN
Đ̀NH
-
Bức hoành của Tộc mừng tân gia Ô. Bùi Thuần:
ĐƯỜNG CẦU
DUY TÂN
-
Câu đối Tộc phúng điếu nhân tang lễ Ô. Bùi
Thuần:
PHƯỚC MĂN TAM ĐA
VĨNH BẢO TIÊN PHONG QUANG VỌNG TỘC
THỌ
ĐĂNG BÁT THẬP TRINH TRUYỀN
TỔ ĐỨC TRÁNG LAI SANH
-
Bức trướng Tộc phúng điếu nhân tang lễ
Ô. Bùi Quán:
THẠC ĐỨC CAO
PHONG