BÙI THUẦN
(1899 - 1978)
----------O0O---------
Ông BÙI THUẦN, huý Văn
Chế, tục danh: Ông CỬU LƯƠNG, tự: Tích
Hy, sanh năm K. Hợi (1899) tại Vĩnh Trinh là thứ
nam của Ngài Thị giảng Bùi thân và Bà Kế thất
Nghi nhân Phạm Thị Thuận.
Vóc người nho
nhã, nhân cách ôn hòa, thiên tư chánh trực. Lối sống bình
dị, cần mẫn và linh động.
Năm M. Ngọ (1918) Ông kết
hôn cùng Bà NGUYỄN THỊ NHUẾ hiệu Thiếu
cơ, trưởng nữ của Ngài Cử nhân Nguyễn
Đình Nhu, quê ở La Kham, Điện Bàn.
Cùng thời gian ấy Ông lên
lập nghiệp tại làng Phú Nhuận để vừa
quản trị vừa khuếch trương những
cơ sở do Ngài Bùi Thân đã tạo
được.
Tuy tuổi
đời còn trẻ, nhưng Ông có chí kinh doanh lớn. Ông đã thực hiện
nhiều điều cải tiến:
-
Ông cho
đắp đập, dựng xe,
dẫn thủy nhập điền để chuyển
đất gieo thành ruộng cấy.
-
Vùng
dễ ngập lụt, Ông cho trồng dâu, trồng mía
hoặc đậu, khoai thu hoạch
ngắn ngày. Nhờ vậy hoa lợi hằng năm thu về đáng kể.
Bà
thường giúp vốn cho nông dân mua trâu bò về nuôi,
để vừa có phương tiện cày bừa, vừa
có thêm phân bón.
Ông Bà đã tích
cực trong việc làm ăn, nên chẳng bao lâu, đã
gầy dựng được 1 dinh cơ khá đồ
sộ.
Mặc dù bận lo khuếch
trương sự nghiệp, Ông Bà vẫn không quên các công
tác xã hội như:
-
Tu
sửa cầu cống, đường sá, giếng
nước uống dùng chung cho cả
xóm.
-
Cùng
làng xây cất trường học, để có nơi con
trẻ học hành.
-
Đóng
góp trùng tu miếu vũ, đình chùa để có nơi
thờ phụng Thần linh, bảo tồn di tích.
-
Trợ
giúp đồng bào những khi thiên tai, thủy lạo …
Một nghịch cảnh bất
ngờ đã đến với Ông ! Bà đã lâm trọng bịnh, và từ trần
tại phố Hội An ngày 28-01-G. Tuất (1934). Ông Bà
đã sinh hạ được 9 người con (3 trai, 3
gái và 3 ấu vong). Trước cảnh nhà quá đơn
chiếc, con dại một đàn, Ông đành phải
tục huyền cùng Bà PHẠM THỊ PHONG, ái nữ
của Ngài Đề Lại Phạm Mẫn, quê ở Thanh
Chiêm vào cuối năm Giáp Tuất. Bà người
ôn hòa, cần mẫn, đã tỏ ra rất khéo léo trong
việc đối xử với gia đình, thôn xóm và đã
giúp đỡ Ông nhiều trong vấn đề phát
triển cơ ngơi.
Năm 1940 đời sống nông
thôn gặp lúc khó khăn, nông sản ế ẩm
! Ông cùng một số anh em đầu
tư vào ngành dệt, sản xuất hàng tơ tầm bán
vào Sài Gòn, Nam Vang rất chạy.
Tiếc thay, thời hưng thịnh chỉ kéo dài
đến mùa thu 1945, vì cuộc thế
đổi thay đành phải ngưng hoạt động.
Năm 1947 khi chiến tranh lan tràn
khắp nước, gia đình Ông đều tản cư
lên Dùi Chiêng, 1 vùng núi non hiểm trở, thuộc quận
Quế Sơn để lánh giặc. Mãi
đến năm 1951 gia đình mới hồi cư và
tiếp tục lại nếp sống nông tang cũ.
Từ năm 1952-1954, bao trăn trở và ray rức dồn dập
đến với đời Ông. Điều
đáng kính phục nhất là mọi sự việc dẫu
khó khăn đến đâu, Ông vẫn luôn luôn bình tĩnh,
chủ động trong mọi tình huống.
Năm 1952 chiến tranh đã
cướp đi một thứ nam của Ông
!
Năm 1953 nhà
cửa của Ông đều bị phá hủy hoàn toàn.
Năm 1959 Ông bà rời quê,
xuống Hội An mua nhà để ở. Mãi đến
năm 1968 Ông Bà dứt khoát rời bỏ ruộng
vườn vào Sài Gòn sống cùng con cháu. Đến năm
1970 Ông chọn được một nơi vừa ý,
tự trông nom xây cất 1 căn nhà ở ngoại ô Sài Gòn
thuộc quận Tân Bình, để tìm lại những
năm tháng nghỉ ngơi của tuổi già.
Sức khỏe Ông
những năm sau nầy có phần yếu đi, song
việc Tộc, việc Phái không lúc nào thiếu tiếng nói
của Ông.
Ông rất quan tâm đến
việc làm Phổ hệ của Tộc. Ông thường
nói với các con cháu: “Muốn bảo vệ cái truyền
thống quý báu của Tổ tiên, thắt chặt thêm tình
đoàn kết, yêu thương lẫn nhau, các chú hãy cố
gắng thực hiện cho bằng được
quyển Phổ hệ Tộc mình”.
Rồi từ
đấy suốt mấy năm liền, với sự góp
sức tích cực trên nhiều mặt của 1 số
đông con cháu, quyển Phổ hệ của Tộc đã
hoàn thành.
Vào đầu năm Â. Mão (1975)
Ông vô cùng vui sướng khi đón nhận quyển Phổ
hệ đầu tiên do người cháu là Ông Bùi
Thường đem đến kính biếu Ông.
Năm M. Ngọ (1978) ngày 29-06,
trước giờ phút lâm chung, Ông
vẫn còn nói năng minh mẫn. Vào cuối giờ Tỵ
(11 giờ) Ông đã nhẹ nhàng vĩnh viễn ra đi ! hưởng
thọ 80 tuổi.
Sau Ông 7 năm, Bà Kế thất PHẠM
THỊ PHONG P/danh Quảng thông đã qua đời vào
ngày 05-07-Â. Sửu (1985) thọ 72 tuổi.
Ông Bà sinh hạ
được 3 gái và 2 trai.
Tang lễ Ông Bà đều cử
hành theo nghi thức Trà Tỳ của
Ấn Độ, thể theo ý nguyện lúc sinh thời. Vì
vậy mà ngày nay con cháu không tìm thấy phần mộ
của Ông Bà.
Đời tan giấc mộng
mơ an phận
Cực lạc hướng lên
thấy Phật Đà
Ông là người
kế thừa xứng đáng với sự nghiệp
của cha ông.
Vừa giao tiếp hòa đồng, vừa luôn luôn học
hỏi để nâng mình ngang tầm cuộc sống, Ông
quả là một ngọn đuốc dẫn
đường cho con cháu chúng ta sau này vậy.