BÙI
THỐNG
(1885 - 1951)
----------O0O---------
Ông BÙI THỐNG
tục danh Ô. Cửu Nhứt, Ô. NGHÈ THỐNG, hay Ô. Nghè Thu
Bồn là trưởng nam của ông Bá Hộ
Bùi Túc và Bà Phan Thị
Trang. Ông là cháu đích tôn của Ngài Thị
Giảng Bùi Thân.
Ông sinh ngày 21 - 05 ẤÂ. Dậu (1885) tại
Vĩnh Trinh .
Thuở nhỏ Ông thụ giáo với Ngài Tú Tài Phan Tuyên ở
Cổ Tháp. Ngoài ra Ông cũng được ông cậu
ruột là Cụ Hường lô Cử nhân Phan Thanh Thúy
ở Bàn Lănh chỉ vẽ thêm, nên khi lớn lên, Ông uyên thâm
Nho học và am tường khoa Địa Lư. Ông
có học thêm chữ Quốc ngữ và cho việc
đọc sách báo hằng ngày là cần thiết.
Ông
có diện mạo quắc thước, oai nghi, tác phong nghiên
chỉnh - xứng bậc con trưởng trong gia đ́nh và
vị tự tôn của Tộc - nhưng tính t́nh Ông khoan
dung, ḥa nhă nên ai cũng mến nể.
Năm
hai mươi tuổi, Ông kết duyên với Bà LÊ THỊ NHỨT,
trưởng nữ của Ông Bà Lê Diên
(Ô.B. Nghè Diên) thuộc một thế gia, vọng tộc
ở La Kham,
Điện Bàn.
Năm
sau, vâng lệnh song thân, Ông Bà lên lập nghiệp ở làng
Thu Bồn để quản trị số đất do
nội tổ và thân sinh đă tạo lập ở các vùng
lân cận như Phú Đa, Phú Nhuận, Mỹ Sơn,v.v. . .
Nhờ
có tài sản của cha ông cấp hứa và do ở chí
tiến thủ, óc kinh doanh, Ông Bà làm ăn rất phát
đạt, đă xây dựng được một dinh
cơ đồ sộ gồm có nhiều ngôi nhà ngói san sát
nằm bên bờ sông Thu Bồn.
Ông
có hoài bảo lớn, muốn canh tân nông nghiệp, nên vào
khoản năm1910, Ông đă thực hiện một công
tŕnh quy mô đối với thời đại: đó là
việc đắp đập Thạch Bàn với mục
đích là việc dẫn thủy nhập điền cung
cấp nước cho nông dân trên một vùng rộng lớn
gồm nhiều làng nhiều xă để
khỏi phải lệ thuộc vào thời tiết.
Hằng trăm nhân công, kẻ chặt bối, người
gánh đất, đă được xử dụng trong
công tác này. Nhưng rất tiếc là kỷ thuật xây
đắp mà Ông biết lúc bấy giờ không đáp
ứng đầy đủ những nhu cầu chuyên môn,
nên qua mùa mưa, nhân một trận lụt lớn,
đập bị vỡ và Ông đă phải thương
thảo khéo léo để đền bồi ổn thỏa
những tổn thất đă vô t́nh xảy đến cho
các đồng bào lân cận.
Một vài năm sau đó, với đầy
đủ chuyên viên và cơ khí, chính quyền thời Pháp
thuộc đă cho xây cất đập Thạch Bàn ở
sát địa điểm mà Ông đă chọn,sự
kiện nầy chứng tỏ là ông đă có khả năng
am hiểu địa h́nh một cách xác đáng.
Vẫn
quyết tâm thực hiện công tŕnh dẩn thủy
nhập điền, ba năm sau, Ông sáng lập " Bùi Thống Vệ nông Công Ty "
với mục đích cơ khí hóa vấn đề
thủy lợi bằng cách thiết lập " Nhà Máy Bơm nước sông Thu
Bồn " tọa lạc tại làng Phú Đa. Máy bơm được một động cơ
chạy bằng hơi nước vận chuyển, xử
dụng củi làm nhiên liệu chính. Nước
bơm lên được đưa vào một hệ
thống đường mương chạy từ Phú
Đa đến Thu Bồn để cung cấp
nước cho nông dân.
Trong mùa nắng nhà máy
chạy ầm ỹ liên tục, ban đêm đèn
điện sáng trưng như ban ngày trong và chung
quanh nhà máy, tiếng nước ồ ạt chảy vào
mương cái như thác đổ là những cảnh
tượng khó quên trong làng Phú Đa hẻo lánh và đă
được mọi người chiêm ngưỡng cùng
thán phục.
Lần này
Ông thành công về mặt kỷ thuật, nhưng gặp
lúc kinh tế khủng hoảng. Giá lúa
rất hạ, nên lợi nhuận không bù đắp nổi
các khoản chi phí.
Song
song với công tác thủy lợi, Ông lại c̣n tổ
chức nuôi gà theo lối công nghiệp.
Đàn gà của Ông lên đến mấy ngh́n con, nhưng
vấn đề tiêm ngừa lúc đó chưa
đựợc đặt nặng đúng mức, nên sau
một thời gian, gà bị dịch, thiệt hại khá
nhiều.
Tóm
lại, tuy những hoạt động về kinh tế
của Ông chưa đem lại kết quả mong muốn,
nhưng Ông đă có tầm nh́n xa, đă cải tiến
đời sống nông thôn về nhiều mặt.
Chính
nhờ những đóng góp tích cực đó, mà sau này Ông
đă được ân thưởng Minh
nông Bội tinh và Hàn Lâm viện Kiểm bộ.
Tuy không tham gia trực tiếp, Ông đă âm thầm
hỗ trợ các tổ chức ái quốc lúc
đương thời. Chính v́ phong trào Duy Tân thất
bại, mà Ông đă bị Chính quyền theo dơi, gây khó
khăn, trở ngại trong một thời gian dài .
Ông
bị bệnh đưa ra điều trị ở Đà
Nẵng. Ông mất ngày 19 - 11 - T. Măo (1951), thọ 67
tuổi, an táng tại xứ Rẫy Cu, Thuận An, Ḥa Vang
(gần chùa Vu Lan).
Bà là người phụ nữ đảm đang,
tháo vác. Ngoài việc giúp chồng trong hoạt
động nông nghiệp, Bà c̣n ,tùy theo
mùa, mua trử, buôn bán các loại đặc sản như
cau khô, nón lá,v.v. . .
Ông
Bà sinh hạ được tất cả 14 người
con và số thành gia thất chỉ gồm có 2 nam và 3
nữ.
Bà ở với các con, lúc
tại Đà Nẵng, lúc vào Sài G̣n. Bà mất ngày 05 - 02 - N.
Tư (1972), thọ 81 tuổi, an táng tại nghĩa trang Trung Việt Ái
Hữu. ở Hạnh thông Tây, G̣ Vấp.
Sau nầy, tàn cốt
của Ông
và Bà đă được con cháu hỏa táng
rồi đem cải táng tại nghĩa trang Lạc cảnh Viên
Cedar Hill, tiểu bang Maryland,
Mỹ Quốc.
Cuộc
đời của hai Ông Bà là một tấm gương
tiến thủ cho con cháu.