BÙI THIỆU
(1873
- 1946)
----------O0O---------
Ông BÙI THIỆU húy Văn Đề, tự Tục
Thừa, thụy Cung Phát, tục danh Ông CỬU KIẾN.
- Sinh năm B. Tý (1876),
tại Vĩnh Trinh, con trai út về đích phòng của Ngài
Thị giảng Bùi Thân, thuộc một vọng tộc
ở trong vùng.
- Người tầm vóc
trung bình, thông minh và cương trực.
- Thuở nhỏ cũng theo đòi kinh sử
như các gia huynh, nhưng không đua chen về khoa cử.
- Ông lập gia đình
năm 20 tuổi, kết duyên cùng bà ĐỖ THỊ
KIẾN, húy Quốc, hiệu Bang Viện, Pháp danh
Như Cư.
- Năm 1898, Ông Bà lên cư
ngụ tại làng Phú Đa.
- Hoạt động
về kinh tế:
-
Dựng xe gió để
dẫn thủy nhập điền.
-
Lập các trại ép mía và các lò nấu
đường.
-
Cho chở đường xuống bán ở Hội An.
-
Trồng dâu nuôi tầm.
-
Nơi thổ cư, cho trồng rau xen các loại cây ăn quả.
-
Ngoài số đất cha mẹ trích hứa - 200
mẫu - Ông Bà đã tạo mãi thêm hơn 150 mẫu và
kiến thiết được một tòa nhà đồ
sộ.
- Rất sốt sắng
với các việc nghĩa cử, nên được ân thưởng hàm Cửu
phẩm Văn giai.
- Trong gia đình, ngoài
tộc đảng, ở nguyên quán cũng như nơi
cư ngụ, Ông đều được mọi
người kính mến.
- Ông mất ngày 9-10-Đinh
Mùi (1907), thọ 32 tuổi, để lại hiền thê
mới có 28 tuổi cùng với 5 con thơ.
- Sinh trưởng trong
một gia đình thấm nhuần đạo đức
Khổng Mạnh và lại là một Phật tử
thuần thành, Bà đã hôm sớm lo thờ chồng, nuôi con,
xứng đáng với 4 chữ: "Tiết hạnh
khả phong" do Triều đình Huế khâm tứ.
- Ngoài việc thủ thành
sự nghiệp của chồng, Bà còn tạo mãi thêm
được hơn 100 mẫu nữa.
- Tích cực với
mọi công tác xã hội và từ thiện như lạc cúng
đất và tiền để sùng tu đình chùa miếu
vũ, xây dựng trường học, tu bổ kiều
lộ, cứu trợ đồng bào trong các cơn thiên tai,
thủy lạo.
- "Uống nước nhớ nguồn", Bà đã
trích trí các phần đất xứng đáng để
hằng năm lo kỷ niệm húy nhật của Nhạc
phụ và phụng tự Song thân.
- Cư xử đức
độ đối với bà trắc thất.
- Ở hiền gặp
lành: Dù có bị ăn cướp
(1915), Bà và các con đã may mắn tránh khỏi tai họa
trong đường tơ kẻ tóc.
- Bà đã thức thời,
cho các con chuyển sang Tân học đúng lúc. Thứ nam của Bà là một trong những
người thi đỗ Tây học sớm nhất ở
trong tộc lúc bấy giờ.
- Bà đã lo xong việc nam
hôn nữ giá một cách viên mãn.
- Bà mất ngày 10-09 G. Tý
(1924), hưởng thọ 47 tuổi.
Sau sự tàn phá của chiến tranh,
nhà cửa không còn nữa, và với sự cải tạo
về nông nghiệp, ruộng đất là của nhân dân.
Nhưng phước ấm của Ông Bà vẫn còn mãi mãi và
thân thế cùng sự nghiệp của Ông Bà vẫn là
một gương sáng cho con cháu nội ngoại sau này.