BÙI THẾ MỸ
(1904
- 1943)
----------O0O---------
Ông BÙI THẾ MỸ là
trưởng nam của Ông Bùi Thiện và Bà Phan Thị Quyên.
Ông là một nhà ngôn luận cang
cường, lỗi lạc, vang tiếng cả Trung, Nam,
Bắc vào đầu thế kỷ thứ 20.
Để
có một sự nhận xét khách quan, chúng tôi xin mạn phép mượn
đoạn văn sau đây trích từ Lời Phi lộ
của Hương giang Thái văn Kiểm trong tập Giòng
Thời Gian đã viết về ký giả tài ba đó:
BÙI
THẾ MỸ (1904-1943) bút tự Lan Đình, tự Hy Tô, từ nhỏ
đã tỏ ra rất thông minh, dĩnh ngộ. Học ở lớp nào, Ông cũng
luôn luôn chiếm 3 hạng đầu.
Ông đã rời quê hương
từ đầu năm 1923, với một hành lý văn
học Đông Tây khá vững vàng và đã mạnh dạn vào
nam để tìm đất dụng võ. Bùi quân
đã may mắn gặp được những văn
hữu và đồng chí … để rồi cùng nhau lăn xả vào làng
văn, làng báo, lấy “ba tấc lưỡi mà gươm
mà giáo, một bút long mà kiếm, mà đao” làm cho thực dân
cầm quyền bao phen mệt nhọc.
Bùi
Thế Mỹ là một ký giả cự phách của làng báo Nam
Việt trong thời kỳ tiền chiến, một
kiện tướng thuộc thế hệ Nguyễn Phan
Long, Diệp Văn Kỳ, Đào Trinh Nhứt, Nguyễn
Khắc Hiếu, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Đào Duy
Anh, Nguyễn Văn Bá, v.v … những chiến sĩ có lý
tưởng quốc gia, muốn dùng ngòi bút để
phổ biến những tư tưởng tự do, dân
chủ, trình bày lập trường của một dân
tộc đang bị đô hộ, muốn đập tan
xiềng xích, để vương mình lên sống mạnh
theo truyền thống của một dân tộc đã
từng có một lịch sử vẻ vang.
Suốt
trong 21 năm, từ 1923 cho tới 1943, Bùi Thế Mỹ đã
cộng tác thường xuyên với các báo chí như: Tân
Thế kỷ, Kỳ Lân báo, Đông Pháp thời báo, Thần
Chung, Trung Lập báo, Phụ nữ Tân văn, Công Luận báo,
Điện Tín, Dân Báo v.v …
Sau đây xin trích đôi câu phúng
đối đã phản ảnh sự nghiệp
đấu tranh của Bùi Thế Mỹ trên
đường ngôn luận dưới thời Pháp thuộc.
-
Câu đối của cụ Mính viên Huỳnh Thúc Kháng khóc Bùi
Thế Mỹ (đăng trong báo Tiếng Dân):
QUỐC
VĂN BÁO GIỚI NHỊ THẬP TẢI VU KIM,
ĐƯƠNG
ĐẮC BẰNG TRÙ THÔI LÃO KIỆN;
NGUYỆT
ĐÁN CHÂU BÌNH NGŨ HÀNH SƠN DU TÍCH,
KHẰNG
GIAO BÚT THIỆP KHUẤT NHÂN TÀI
-
Câu đối của một đồng nghiệp ở Hà Thành
đã vô cùng luyến tiếc nhà ngôn luận can
trường:
MƯỜI LĂM
NĂM BỀN CHÍ NHÀ VĂN,
LẤY MIỆNG LÀM
TRỐNG, LƯỠI LÀM CHUÔNG,
REO HÒ KẺ NGỦ
NGƯỜI SAY,
NHÂN SỰ CHƯA XONG
NGÒI BÚT THÉP;
BỐN CHỤC
TUỔI LÁNH MÌNH LẦU HẠC,
NHẸ GÓT THEO TIÊN, THÂN
THEO PHẬT,
ĐỦNG ĐỈNH
NON BỒNG NƯỚC NHƯỢC,
TRẦN AI ĐỂ LẠI TẤM LÒNG SON.
BÙI
THẾ MỸ
(Tìm thêm
thông tin trong google: mục từ “Bùi Thế Mỹ”)
Bùi Thế Mỹ (1904 - 1943) là Nhà văn, kí giả hiện đại,
hiệu Lan Đình, Thông Reo; quê huyện Duy Xuyên, tỉnh
Quảng Nam. Ông vốn thuộc
hàng cự phách trong làng báo miền Nam.
Bắt đầu chủ
trương Đông Pháp thời báo thay Nam Kiều
Trần Huy Liệu. Rồi
từng làm chủ bút các báo Trung lập, Tân Thế
Kỉ, Thần Chung, và chủ nhiệm tờ Dân báo.
Khi mới bắt đầu làm thơ, viết văn ông kí
hiệu là Thông Reo, về sau khi làm chủ bút tờ nhật
báo Điện tín ông mới đổi hiệu là Lan Đình.
Sự nghiệp làm báo của ông,
có phần nào công sức đóng góp của người
bạn đời ông là nữ sĩ Phương Lan, tên
tộc là Nguyễn Thị Lánh, tục gọi cô giáo Lánh, quê
ở Cù lao Hổ, Long Xuyên.
Năm Bính tí 1936, ông bị
Thống đốc Pagès kí nghị định trục
xuất về miền Trung một lượt với Diệp
Văn Kỳ. Sau, ông trở vào Nam làm chủ bút tờ
Điện tín, càng lúc càng nổi tiếng hơn
trước.
Đến năm Quí mùi 1943, ngày 27
tháng 3, ông mất nơi nhà riêng ở Sài Gòn mới 39
tuổi, trong niềm thương tiếc của giới
báo chí thời đó.
Ông còn để lại
đời một tác phẩm dịch Trà hoa vũ (La Dame aux camélias) và một tác
phẩm khảo luận Vai tuồng của nhà gõ
đầu trẻ.
Chính ông đã viết một
loạt bài nghiêm khắc tố cáo sự gian lận của
các nhà văn bịp bợm, làm tay
sai cho thực dân Pháp được dư luận hoan nghênh.
Ông từng bảo bạn là
Thiếu Sơn:
"Trong đời này thiếu gì
kẻ cờ gian bạc lận, nhưng tôi không tha thứ cho
bọn gian lận kiếm ăn
trên địa hạt văn chương".
(Nguồn : Từ
điển nhân vật lịch sử Việt Nam
- Nguyễn Quang Thắng, Nguyễn Bá Thế)
Đề Bức Tranh Tùng
Lộc
Chiều mát dạo rừng còi,
Bên khe đất một
đồi.
Đội trời đạp đất đứng,
Dương sừng trợn
mắt coi.
Cỏ hoa chen lẫn
bóng,
Cây đá lợp trong
ngoài.
Nước, núi, mây một sắc,
Chi xiết dạ ai hoài !
Bùi Thế Mỹ
Kỳ Lân báo 1927
Kìa ... Kìa ... Nghe Tiếng Chuông Mai
Rảnh
rang lên tiếng gọi đời,
Bỏ
khi lửa đốt, bỏ hồi than nung.
Đã kêu, kêu khắp Tây,
Đông
Sông
Ngưu sóng dậy, nùi Nùng cây lay !
Văn
chung tức khởi
Bạn
ta ơi ! chỗi dậy kẻo
trưa rồi.
Kìa
ai đương xô xát bốn phương trời,
Mà ai
vẫn chưa thôi cơn túy mộng.
Nhật dĩ xuất hề
chung dĩ động,
Khuyến quân cấp
khởi, khởi văn chung
Chuông gọi hồn:
Khoan
nhặt tiếng boong boong.
Dậy
! dậy ! dậy ! mà trông nước tổ.
Ai gầy dựng giang sơn
cẩm tú ?
Mà ai đành nằm ngủ
hỡi chăng ai ?
Kìa, kìa nghe tiếng chuông mai ...
Bùi Thế Mỹ
Cảm Tác
Chưa dứt tai kia, đến nạn nầy !
Trời già, ông định thử tôi vay ?
Thân cò, đã lắm phen xuôi ngược,
Sức ngựa, nài bao dặm vắn dài.
Dâu bể, ví mà xoay đến nỗi,
Đá vàng, quyết chẳng phụ cùng ai !
Hai mươi lẻ tám thu
nay mới,
Gặp đặng người
tôi ước những ngày.
Bùi Thế Mỹ
Xuân 1932
Xuân Hứng
Cỏi
trần từ mới có ta,
Một xuân nầy nữa đã là ba
mươi.
Trăm
năm trong hạn người đời,
Được bao nhiêu hãy vui
cười bấy nhiêu.
Thế
sự phù vân hà túc toán
Lo mà chi, buồn
chán nữa mà chi
Gánh phong trần vai
những nặng tri tri,
Cũng nên dứt ưu ty cho nhẹ bớt.
Tế suy
vật lý tu hành lạc,
Hà dụng
phiền lao khổ
thử thân
Ừ, thôi thì, khi
đêm mưa, khi lá rụng,
Cơn gió hạ,
lúc mưa xuân,
Theo tuế tự truy hoan cùng tạo vật.
Chơi cũng
mất, không chơi cũng mất,
Cái niên hoa thấm
thoát có chờ ai ?
Mừng xuân ta
lại cứ say !
Bùi
Thế Mỹ
Xuân
Quý Dậu 1933
Ngạo Đời
Tớ vẫn hay mang tiếng ngạo đời,
Mà ai có biết tớ khinh ai
?
Khinh người lắm của, mà thờ của,
Khinh kẻ cao ngôi, chẳng xứng ngôi.
Khinh ả chung tình, chung
cửa miệng,
Khinh chàng ái quốc, ái đầu môi.
Tớ khinh đại để là khinh thế,
Đâu giám khinh chi cả
mọi người.
Bùi Thế Mỹ
Tân Thế kỷ 1924
Học Đường
Cảm Tác
Trong mấy năm trời, dạy trẻ em,
Quê người, đất khách, tủi thân hèn.
Ngọt, bùi, chua, chát, mùi từng trải,
Danh lợi, giàu sang, giấc
chả thèm.
Vinh nhục, nhục vinh, đà lắm nỗi,
Thị phi, phi thị, biết bao phen.
Thiệt vàng vô lửa càng kheo sắc,
Bùn đục cười ai cố nhuộm sen !
Nữ sĩ Phương Lan
(phu nhân của Bùi
Thế Mỹ)