BÙI THÂN
(1844
- 1924)
----------O0O---------
A- Thân thế:
Ngài BÙI
THÂN, tự: Chuyên Thơ, tục danh: Ông QUẢN NGHI,
Hàn Lâm viện Thị giảng, sinh giờ Tý ngày 15-07-Giáp
Thìn (1844), dưới thời Thiệu Trị, là con của
Ngài Phụng Nghị Đại phu Bùi văn Kiết và Bà
kế thất Nghi nhân Phạm thị Phụng.
Mất
cha lúc lên 5 tuổi, mồ côi mẹ năm lên 3 tuổi, Ngài
được vị thúc phụ là Ngài Tú tài Bùi văn Thỉ
chăm nom, nuôi nấng và được ông anh rể là Ông
Cử nhân Phan văn Diên gia công dạy vẽ.
Về
thể chất, Ngài là người tầm vóc trung bình, mắt
sáng râu thưa, đi lại nhanh nhẹn, giọng nói to và
thanh, luôn luôn tươi cười hòa nhã.
Về tinh thần, Ngài là người cần
mẫn, cương nghị, có óc kinh doanh, giao thiệp
rộng, chăm lo đèn sách cốt để làm
người chứ không vì khoa bảng (1).
Ngài rất
được bậc tôn sư là Ngài Ngũ khoa Tú tài Phan
thế Nguyên ở Cổ Tháp và các bậc đồng song
như các ông Tú tài: Nguyễn doãn Thăng ở An Lâm,
Nguyễn Thạc ở Lệ Trạch, Nguyễn Hàn ở
La Tháp, Ngô Học ở Tân Phong … quý mến.
Tuy gặp nghịch cảnh, Ngài không bao giờ ngã
lòng, nản chí. Trái lại, Ngài quyết
tự cường, tự lập để nối
nghiệp Tiền nhân. "Thông minh vốn sẵn
tư trời", Ngài học một hiểu mười,
nhất là Ngài thấu triệt thế thái, nhân tình, biết
trọng người tài, ưa nghe lời trung chính, nên
đến đâu ai cũng mến phục.
Cơ sở đầu tiên của Ngài thiết
lập tại An Lâm. Ngài bị hỏa hoạn gần
khánh tận gia cang (2), nhưng ngọn lửa kia dường như nung luyện thêm ý chí
phấn đấu của Ngài.
Ngài bèn
dời về ấp Bàu Cùng, thôn Vĩnh Trinh, dương cơ
tọa lạc giữa một đồng ruộng lớn,
phía tả có dãy triền Đồng Ngạch, bên hữu có
khu đồi Gò Thị, xa xa có dòng nước khe Vĩnh
Trinh lượn khúc uốn quanh, trông thật hữu tình
(3). Và với chí tiến thủ không ngừng,
Ngài đã xây dựng được đại nghiệp từ
đấy.
B- HÔN PHỐI:
Về
đích phòng, Ngài chánh phối với Bà ĐẶNG THỊ
SUNG, người đồng hương và sinh hạ
được 5 nam, 2 nữ và 3 ấu vong. (4)
Về
kế phòng, Ngài kế phối với Bà PHẠM THỊ THUẬN,
người làng Chiêm Sơn và sinh hạ được 3
nam, 4 nữ và 4 ấu vong. (5)
Ngài cũng có một thứ thất là Bà NGUYỄN
THỊ ĐỆ, người làng Phú Hanh Đông và sinh
hạ được 1 nam, 1 nữ.
C- SỰ
NGHIỆP:
Thừa
hưởng di sản của Tiền nhân độ 10 mẫu
hương hỏa, nhưng với tính nhẫn nại, lòng
tự tín và nhất là hội đủ cả ba yếu
tố: thiên thời, địa lợi, nhân hòa, nên chỉ
trong khoảng 30 năm, Ngài đã xây dựng một sản
nghiệp trên 3000 mẫu ở rải rác khắp nhiều
huyện trong tỉnh. Di sản này đã lần
lượt được trích hứa theo
phân thơ cho con trong ba đợt vào những năm Thành
Thái 8, Duy Tân 4 và Bảo Đại nguyên:
"Chốn chân ngựa,
cửa nhà đi dễ khắp;
Thẳng cánh cò, ruộng
đất biết là bao !"
(Trích Điếu văn
của Bùi thế Mỹ)
Là một nông gia tạo lập
sự nghiệp theo đường lối
vương đạo, Ngài rất nhiệt tâm đối
với những việc nghĩa cử:
Về công tác kiến tạo,
Ngài đã:
- Tái thiết nhà thờ Tứ
thân tại An Lâm năm Ất Mùi, 1895
- Sùng tu Đình Châu (Đình
Lục thôn) năm M. Tuất, 1898.
- Lạc cúng
tư điền và lạc quyên để dựng lên
Văn Thánh (6) và trường Huấn huyện Duy Xuyên, cùng
năm nói trên.
- Kiến
thiết nhà thờ Tiền Hiền năm Nhâm Tuất 1922.
- Xướng
suất việc xây Đình Vĩnh Trinh, xây mộ Tiền
Hiền và tu tạo các miếu vũ trong thôn ấp …
năm G. Tý, 1924.
Về phương diện kinh
tế, nhận thấy thủy lợi tối cần
thiết đối với nông nghiệp, nên Ngài đã cho
cơi đập Vĩnh Trinh - thuở bấy giờ
đập phải đắp hàng năm bằng gai,
bổi, ngăn đoạn khe chảy băng qua làng -
để đời sống nông dân được cải
thiện.
Về công tác tu kiều,
bồi lộ, Ngài đề xướng và tham gia
đắc lực vào việc mở rộng hương
lộ và hướng dẫn người cháu là Ông Nghè
Địch đứng ra xây cất Cầu Cao làm cho ruộng
nương khỏi bị ủng thủy và sự giao thông
thêm phần tiện lợi.
Về mặt xã hội, Ngài
đã "quyên ngân cấu mãi thư tịch" và xung phong
xin mở cuộc chẩn thại để cứu trợ
đồng bào sau trận lụt năm Ất Tỵ, 1905,
nên Triều đình Huế đã truy tặng thân phụ Ngài
lúc đầu Chánh Thất phẩm văn giai (7), sau lại
Chánh Ngũ phẩm văn giai Phụng nghị Đại
phu. Riêng Ngài, thì năm khải Định thứ 9,
được truy tặng Phụng thành Đại phu Hàn
lâm viện Thị giảng mà trong Sắc phong có câu:
"Nam quận lương
gia,
Sài giang phủ hộ"
Với tinh thần Mạnh
Thường quân, Ngài thường giúp đỡ những
người làm ăn cần mẫn (8), Ngài
đã ủng hộ các bậc hàn nho tuấn tú. Tình Quản
Bảo giữa Ngài và các cụ Song Bảng Nguyễn
Khải ở Long Xuyên, Tiến sĩ Hồ Trung Lượng
ở An Dưỡng, Cử nhân Văn phú Trừng ở
Mỹ Xuyên, Tú tài Phan Tuyên ở Cổ Tháp v.v… thật là
thắm thiết (9).
Ngài cũng là
hội viên Hội Như Tây du học, góp phần tán trợ
thiết thực du học sinh về mặt tài chánh.
Cũng với tinh thần khuyến học, ngay trong chúc thư, Ngài đã trí một số lớn
ruộng đất với mục đích cụ thể
như sau: "Tiền dưỡng lão, hậu tống
chung, tồn cang lưu vi bổn Phái Xuân Thu, học
điền, thù tạc vãng lai chi sự".
Đặc biệt nhất,
Ngài đã ủng hộ kín đáo các phong trào ái quốc
như vụ dân nổi lên khất sưu ở Nam Ngãi
(1908), vụ vua Duy Tân mưu đồ độc lập
(1916). Chính vì phong trào này thất bại mà nghĩa tế
của Ngài là nhà Ái quốc Phan thành Tài đã bị án tử
hình và các cháu nội của Ngài như các Ông Bùi Thống và
Ông Bùi Huýnh đều bị cường quyền
đương thời theo dõi khủng bố.
Ngài cũng sắp đặt
cho cháu nội là Ông Bùi quang Hân theo cụ Tiến
sĩ Trần Quý Cáp xuất dương du học. Nhưng rất tiếc công việc chưa thành thì
nhà cách mạng họ Trần bị bắt.
Bình sinh Ngài thường
lấy thi, thơ, lễ, nhạc làm phương châm cho
thuật tề gia, xử thế (10).
Ngài mất vào
giờ Tuất ngày 05-06-Giáp Tý (1924), hưởng thọ 81
tuổi (11) giữa sự mến tiếc của mọi người
(12).
Tóm lại thân thế và sự
nghiệp của Ngài là một tấm gương sáng cho con
cháu nội ngoại soi chung.
Ước mong sao
người sau thừa kế và phát huy được tinh
thần tự cường, tự lực, quảng
đại, hào phóng của Tiền nhân.
Chú thích:
(1) Để diễn tả sở
nguyện lập chí của Ngài từ lúc thiếu niên, ký
giả Bùi Thế Mỹ đã có câu trong điếu văn
như sau:
"Buổi thiếu
tuế không mang tâm khoa bảng, tánh tình đạo dưỡng,
nghiệp nhà Nho câu đối câu ngâm;
Lúc tráng niên lo lập chí
kinh doanh, quận hạt thanh truyền, đường giao
tiếp lắm bầu lắm bạn".
(2) Tương truyền rằng
trong lúc nhà cháy, người ta chạy đến chữa,
thì thấy vợ chồng Ngài chỉ đẩy ra
được một cái rương xe và Ngài thản nhiên
bảo:"Tái ông thất mã, yên tri phi phúc
?"
(3) Có giai thoại rằng: Một
hôm Ngài đi câu cá với Ông anh rễ là Ông Cử Diên
tại một cái bàu ở xóm Sếu trong làng Vĩnh Trinh. Ông Cử tinh thông địa lý, ngắm nghía khu vườn
hoang gần đấy, thấy sơn thủy hữu tình,
bèn khuyên Ngài nên chọn nơi đó làm dương cơ.
Khu vườn này bỏ hoang đã lâu đời, vì dân làng
cho rằng do cây đòn dông Đình làng đâm thẳng vào,
nên ngày trước những ai ở đấy đều
bị tiêu vong cả. Nhưng Ngài tin ở đại
mạng của mình, cho rằng vật hữu sở
chủ, bèn mạnh dạn dời nhà về khu vườn
hoang đó. Một sự ngẫu nhiên rất kỳ
diệu là chỉ trong khoảng 3 tháng sau, bỗng dưng
làng quyết định dời Đình đi nơi khác và
quả nhiên Ngài đã gặp mọi sự hanh thông,
thịnh đạt tại đấy, thật là đúng
với câu:
"Lạ lùng thay chí khí việt nhân;
To tác bấy cơ đồ hy hữu !"
(Trích Điếu văn)
(4)
Ông Bùi văn Câu, K. Mão (1879)
Ông Bùi
Huân thọ tự
Bà Bùi thị
Đương Q. Mùi (1883) Ông
Bùi Lễ - -
-
Bà Bùi thị
Thông Đ. Hợi (1887) Ông
Bùi Duy - -
-
Ông Bùi văn
Nhỏ T. Mão (1891), kỵ 17-2 Â.L Ông Bùi Thiệu - -
-
(5)
Bà Bùi thị Tề, Q. Tỵ (1899) Ông
Bùi Xước thọ
tự
Ông Bùi văn
Cang N. Dần (1902),
kỵ 10-10 Â.L Ông Bùi Quán - -
-
Bà Bùi thị
Tàu Â. Tỵ (1903), kỵ 26-02 Â.L Ông Bùi Thuần - -
-
(6)
Để táng dương sự
ủng hộ của Ngài, quan thân huyện Duy Xuyên có mừng
Ngài câu đối như sau:
Ngô đạo đống lương tham
lực tán
Quân môn xa
mã khánh giai
thăng
(7)
Trong dịp lễ Sắc Thất
phẩm, có rất nhiều câu đối mừng mà một
số còn được truyền tụng lại (xin xem
phần Phụ lục).
(8)
Tính hay giúp người của Ngài đã
được thể hiện qua câu này trong Điếu
văn:
"Giàu
tiền của lại giàu lòng nhân đức
Sẵn tài năng lại sẵn tánh ôn
hòa".
(9)
Tình bằng hữu thâm giao giữa
Ngài và các bậc danh Nho đương thời được
biểu lộ hùng hồn qua Điếu văn của
Cụ Song Bảng Tham tri Nguyễn Khải (xin xem phần
Phụ lục).
(10)
Ngày trước, trên bàn thờ
Gia tiên, hai bên chữ Phước viết thật lớn,
Ngài có cho treo câu đối:
Lễ nhạc truyền
gia viễn;
Thi thơ xử
thế trường.
(11)
Những câu sau đây (trích trong
Điếu văn) giúp ta nhớ ngày tạ thế cùng tuổi
thọ của Ngài:
"Phút bữa
mồng năm tháng sáu, ngựa bỗng qua,
thoi bỗng trở, đèn
bỗng tạt ngọn bóng lu ly;
Vừa tuần
tám mốt tuổi dư, Tiên khéo rước,
Phật khéo
mời, ông khéo tách đường mây nhẹ nhẹ
!"
hay:
"Ngày mồng
năm tháng sáu trở tay chưa kịp,
phút đà hạc giá tiên du;
Tuổi chín
mươi thiếu chín mình ngọc đương
tươi,
những tưởng kỳ hy
thọ tấn".
(12)
Ta có thể nói tang lễ
của Ngài là một rừng liễn đối, là nơi
quy tụ các cây bút đại khoa bảng lúc
đương thời. Tuy thời gian trôi
qua, nhưng một số câu trổi nhất vẫn còn được
nhắc đến (xin xem phần Phụ lục).