BÙI QUÁN
(1897 - 1982)
----------O0O---------
Ông BÙI QUÁN, tục danh Ông CHÁNH
BẢY, là thứ nam của Ngài Thị giảng Bùi Thân
và Bà Kế thất Nghi nhân Phạm thị Thuận.
Thuở nhỏ Ông theo học Hán văn
với Ngài Tú tài Phan Tuyên ở Cổ Tháp và sau lại
học Quốc ngữ tại trường Diên Phong do Ông
anh rể là nhà Ái quốc Phan thành Tài sáng lập ở
Bảo An, Điện Bàn.
Ông người
tầm vóc trung bình, thông minh, hoạt bát, có cả ân, uy, nên
kẻ trên người dưới đều mến
nể.
Năm 19 tuổi,
Ông được phụ thân ủy thác lên ở trên Phú Hanh
để quản lý số ruộng đất của Ngài. Tuy còn thanh niên
nhưng Ông đã ý thức được nhiệm vụ,
biết cách tổ chức và giao thiệp, sớm tỏ ra
là người có bản lãnh.
Năm 21 tuổi, Ông kết duyên
cùng Bà NGUYỄN THỊ NGỌC THẨM ái nữ
của Ngài Song Bảng, Tham tri Nguyễn Khải và Bà Như
phu nhân Nguyễn thị Tuyết ở Long Xuyên. Nhờ có
tài sản do Song thân trích hứa và với chí tiến
thủ, chỉ trong khoảng 5 năm Ông Bà đã xây
dựng được một gia trang đồ sộ
tại xứ Bàu cùng ngay trong chánh xã.
Năm 1931, Ông
đắc cữ Chánh tổng và chẳng bao lâu Ông
được thưởng thọ Chánh Cửu phẩm
văn giai.
Ông Bà sanh hạ
được 2 trai, 3 gái và một ấu vong.
Chẳng may hiền thê Ông mất
sớm (giờ Mùi ngày 22-01-N. Thân, 1932). Ông
tục huyền (15-07-G. Tuất, 1934) với Bà NGUYỄN
THỊ NGỌC DUNG, hiền muội của Bà Chánh
thất và sanh hạ được hai trai. Bà kế thất đã giúp Ông đắc lực
trong việc nuôi dạy con và phát triển thêm cơ
nghiệp.
Sau khi xin thôi công vụ, Ông
được cử làm Trưởng ban Trị sự
(1937-1945) đập Vĩnh Trinh). Ông đã cùng
bào huynh là Ô. Bùi Xước trông coi xây đắp hai ngôi
mộ của Song thân một cách quy mô. Năm
G. Thân (1944) Ông được bà con ủy nhiệm lo
việc tạo lập bi ký cho một số phần mộ
của Tiền nhân.
Bình sanh, Ông rất
quan tâm đến việc giáo huấn con cái. Suốt thời gian 20 năm
liền (1926-1945) Ông đã liên tục mời các bậc lão
Nho (1) và các vị Tân học (2) về ngồi dạy
học ở trong nhà. Nhờ thế các con lớn lên
đều chăm lo đèn sách và cũng nhân đấy,
đa số con em trong thôn xóm lại may mắn có nơi trau
dồi đạo đức và văn hóa.
Mùa đông năm B. Tuất, 1946,
khi ngọn lửa chiến tranh bùng cháy, Ông Bà đã cùng gia
đình tản cư lên Phú Gia, Bình Yên … Nhưng vì không
chịu được khí hậu nơi sơn lâm và
cũng để tránh bom đạn, đầu năm sau,
Ông cùng gia đình tản cư ra Huế. Nhờ
vậy, việc học hành của các con nhỏ không bị
gián đoạn và 1 thứ nam đã được đi du
học ở Pháp.
Năm 1954, Ông Bà hồi cư
về Hội An, mua được
một gian nhà ở đường Phan Chu Trinh. Nơi đây Ông Bà ở gần với hai gia
đình của vị bào đệ và của người
quí nữ, nên cũng vui. Trong thời kỳ này, Ông hay
về quê thăm viếng bà con, bạn hữu.
Năm 1968, Ông Bà
dời vào Sài Gòn, không ngoài mục đích là để cho
người quý nam có cơ hội hoàn tất bậc
Đại học và xin đi du học. Năm 1971 Ông Bà
đã mua được ngôi nhà ở đường Vân
Côi, Tân Bình để tịnh dưỡng trong lúc tuổi
già (3) với sự thần hôn trực tiếp của vợ
chồng 1 người con thứ.
Ông được bà con cử
giữ chức Hội trưởng Bùi gia Vĩnh thế.
Suốt trong
thời gian xa nơi nguyên quán, Ông thường tiêu khiển
thì giờ bằng cách đọc sách, xem báo, chuyện vãn
với các vị hưu quan, kỳ lão ở quanh nhà. Ông ít quan tâm
đến vấn đề kinh tế gia đình vốn
đã được Bà Kế thất đảm đang,
phụ trách.
Sau khi được Thầy Tân
Qui khuyến khích, lúc vãn niên, Ông đã hướng về
đạo Giải thoát và đã xin quy y với Thượng tọa Thích Nhật
Lệ, Trú trì chùa Hải Quang. Hằng ngày Ông
trì niệm Lục tự Di Đà một cách chuân thành.
Ông mất rất nhẹ nhàng vào
giờ Thìn ngày 09-03-N. Tuất (02-04-1982) hưởng thọ
86 tuổi, an táng tại nghĩa trang T.V.A.H ở Gò Dưa
(Lô 4, Hàng 17, Số 18). Sau đó khoảng nửa năm, vào
giờ Dậu ngày 14-09-N. Tuất (30-10-1982) Bà quy tiên,
hưởng thọ 73 tuổi, táng ngay bên hữu mộ Ông.
Trải qua những cuộc
bể dâu, nhà cửa, sản nghiệp do Ông Bà dày công
gầy dựng đều bị chiến tranh tàn phá.
Nhưng Ông Bà đã để lại cho con cháu 1
gương sáng về cách tề gia, xử thế.
Ghi chú:
(1) :
Ông Hương Chước ở An Lâm, Ô. Cửu
phẩm Giáo sư Trần Thượng Tiết ở Long Xuyên,
Ông Tú tài Phạm Tấn ở Thanh Chương, Nghệ
An.
(2) :
Ông Ngô Lộc ở Bảo An, Ông Nguyễn Toản
ở An Phước, Ông Trần thượng Duân ở Long
Xuyên.
(3) :
Nơi đây, nhân trong sân có cội tùng và một
cụm trúc – trúc vi quân tử, tùng thị trượng phu –
và cũng nhân Tộc có tặng tấm hoành trong đề
bốn chữ: “Lan ngọc tân đình”, Ông đã
khẩu chiếm câu đối như sau:
QUẢNG ĐỊA ĐỐC
PHƯƠNG CHI, LAN NGỌC TÂN ĐÌNH,
XUÂN LỘ THU SƯƠNG, TRINH
DŨNG KHÍ;
NAM THIÊN CHUNG TÚ VẬN, HÀNH SƠN
CỐ QUẬN,
TÂM KHÔNG
TIẾT TRỰC, VĨNH CAO PHONG.