BÙI KIẾN THÀNH
(Tìm thêm thông tin trong google: mục từ “Bùi Kiến Thành”)
(Bùi Kiến
Thành online: đang xây dựng)
Chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành: Chính
sách điều hành phải minh bạch, không gây sốc
Cứu hay không cứu
thị trường chứng khoán,
khi nó có
thể đang xuống đúng với giá trị thực?
Ảnh: T.Thạnh
Ông Bùi Kiến
Thành – người Việt đầu tiên được
đào tạo tại Mỹ trong lĩnh vực tài chính.
Với hơn 40 năm hoạt động trong lĩnh
vực này – là một chuyên gia tài chính quốc tế uy tín,
ông đã giúp đỡ, tư vấn nhiều vấn
đề cho Chính phủ Việt Nam trong một số
lĩnh vực kinh tế, ngoại giao. Dưới đây
là một số nhận định của ông về chính
sách tiền tệ vĩ mô thời gian qua cũng như những
biện pháp kiềm chế lạm phát năm 2008
Ngày 17-3 tới, Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
sẽ phát hành bắt buộc với tổng giá trị tín
phiếu là 20.300 tỉ đồng. Đây là
quyết định của NHNN để rút bớt
lượng tiền lưu hành. Đó là một trong nhiều biện pháp kiềm chế
lạm phát. Mục đích của Chính phủ là
làm thế nào để tránh tình trạng nền kinh tế
phát triển “nóng” và lạm phát cao gây bất lợi đến
tình hình phát triển.
Tuy nhiên, biện pháp này cũng chưa
chắc chắn bởi nó lại tạo ra sự bất
ổn định trong thị trường tài chính tiền
tệ. Song song đó,
NHNN lại “bơm” vào thị trường số tiền
đã rút ra (“bơm” thị trường 30.000 tỉ
đồng), mà trên thực tế số tiền rút ra còn
chưa rút ra ngay vì còn phải có một thời hạn
để thực hiện. Khi
Nhà nước rút số tiền từ thị trường
ra qua việc bán tín phiếu bắt buộc cho các ngân hàng
thương mại (NHTM), các ngân hàng này bắt buộc
phải tăng lãi suất tiền gửi để huy
động vốn trong dân.
Thị trường
chứng khoán, cứu hay không cứu?
Với chính sách hôm nay mở vòi, ngày mai
đóng vòi như vậy làm cho những thành phần
hoạt động kinh tế tài chính không thấy
được chính sách lâu dài ổn định của Nhà
nước. Điều này đã có tác động
ngay tới thị trường chứng khoán (TTCK).
VN-Index thời gian vừa qua tụt
giảm liên tục. Liệu có phải đây là
thông điệp Nhà nước muốn cứu TTCK hay không? Điều này cũng chưa rõ.
Nếu đúng, cũng không hiểu vì lý do gì mà Nhà nước
nghĩ rằng cần phải cứu TTCK. Thực sự, TTCK có cần được cứu
hay không? Hay TTCK đang đi tới mức ổn
định bình thường, không cần phải can thiệp?
Những quyết định thiếu
đồng nhất của Nhà nước đang gây nên
sự phân vân trong giới kinh tế. Nhà nước
“bơm” tiền trở lại vì lý do gì chưa hoàn toàn rõ.
Nhưng có thể đoán định rằng, có nhiều lý
do, như việc thấy lãi suất cao quá cũng gây
bất ổn cho nền kinh tế, TTCK.
Nếu như cứu
TTCK là lý do để Nhà nước quyết định
bơm tiền trở lại thì đặt ra suy nghĩ:
Tại sao mà Nhà nước lại cho rằng cần
phải được bơm tiền trở lại cho
TTCK? Dựa trên những tiêu chuẩn nào mà nói rằng
cần phải bơm tiền trở lại để TTCK
không “rơi” nữa; dựa trên tiêu chuẩn nào mà nói
rằng mức “rơi” như vậy là quá sức hay
chưa quá sức? Theo tôi, TTCK có
thể còn xuống nữa, mà xuống nữa chưa
chắc đã không hợp lý. Giá cả của chứng khoán VN trong thời gian
qua quá cao, không có một tiêu chuẩn nào thực sự
để nó có giá cao như vậy. TTCK
điều chỉnh trong những tháng vừa rồi, theo tôi là hợp lý, không có
gì để Nhà nước phải quan tâm, để
biện pháp cứu thị trường này.
Băn khoăn
việc nhà đầu tư được mua cổ
phiếu bằng ngoại tệ
Lạm phát có nhiều nguyên nhân. Một trong những nguyên nhân chính là năm
2007 và hiện nay là đầu tư trực tiếp
nước ngoài tăng vọt, nguồn ngoại hối
đổ vào Việt Nam quá nhiều, rồi phải
chuyển hóa qua VNĐ. VNĐ
nhiều quá trên thị trường gây nên lạm phát.
Các nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư trên TTCK cũng phải
đổi ngoại tệ ra VNĐ, làm tăng lượng
tiền đồng, gây ra lạm phát.
Ngày 22-2, có thông tin Thủ tướng cho phép
Tập đoàn Tài chính Mogan Stanley mua cổ phần của
Công ty Tài chính Dầu khí (PVFC), được trả
tiền trực tiếp bằng USD. Đây là một
biện pháp để hạn chế việc chuyển
đổi từ USD ra tiền VN, cũng là cách “bơm vào”
cho TTCK. Bán cổ
phần cho nhà đầu tư nước ngoài và nhận
đô la, công ty này sẽ làm gì với tiền đô la
ấy? Nếu công ty cần tiền đối ứng
bằng VNĐ thì Nhà nước có cho đổi sang
VNĐ? Nếu cho phép thì biện
pháp này sẽ không có ý nghĩa gì cả.
Cũng như những
nhà xuất khẩu bây giờ xuất khẩu hàng hóa
lấy USD có cho phép họ đổi ra VNĐ hay không? PVFC cũng xuất khẩu cổ
phần lấy tiền đô la rồi làm cái gì? Nhà
nước có chính sách gì đối với những doanh
nghiệp xuất khẩu hàng hóa, số ngoại tệ thu về ấy phải
xử lý thế nào. Nếu không cho họ chuyển
đổi sang tiền Việt thì người ta sẽ làm
gì với số tiền ấy? Hiện nay những nhà
xuất khẩu mà không chuyển đổi từ đô la
sang VNĐ cũng gặp những khó khăn. Theo tôi,
những biện pháp kiềm chế lạm phát như
vậy không có bài bản gì rõ ràng. Những giải pháp đó chỉ mang tính tình thế
là chính. Nếu chỉ
như vậy thì chưa đủ.
Cấm bán hàng
rong cũng làm tăng lạm phát
Trong khi đó thì có những chính sách khác,
như việc cấm bán hàng rong trong TP thì có tác động
ngược lại. Nó
sẽ có khả năng làm cho giá sinh hoạt tăng lên.
Nếu bây giờ cả TP Hà Nội hay cả các TP ở
Việt Nam
cấm bán hàng rong thì tự nhiên giá hàng hóa nông sản,
thực phẩm tăng lên. Vì sao
ư? Vì số người
bán hàng rong rất nhiều. Ví dụ như ở
Hà Nội cũng phải có 1-2 vạn người, nhân
với doanh thu mỗi
ngày của mỗi người khoảng vài trăm nghìn đồng
thì con số doanh thu lên tới hàng tỉ đồng
mỗi ngày. Nếu giá sinh hoạt tăng lên vì cấm không
cho bán hàng rong rõ ràng đã ảnh hưởng đến
nền kinh tế vĩ
mô, chứ không phải chỉ là chuyện giải quyết
vấn đề đường thông hè thoáng. Những việc
gì sử dụng lao động
nhiều thì nên cố gắng để người lao động
có điều kiện tiếp tục làm việc, đóng
góp vào trong sự phát triển kinh tế bằng sức lao
động. Sức lao
động đó là lao động trực tiếp, không có trung
gian nên giá lao động thấp. Nếu cấm không cho những người đó
làm việc, tự nhiên phải qua một hệ thống
kinh tế khác (ví dụ cấm bán hàng rong, người mua
phải vào siêu thị, cửa hàng...) làm giá thành sản
phẩm cao hơn. Vì
thế, những biện pháp như cấm bán hàng rong có
sự tác động ngay trực tiếp vào giá sinh
hoạt.
Những hoạt động
gì ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới
giá sinh hoạt thì phải phân tích cho kỹ và có chính sách cho
đồng bộ, chứ không chỉ có vấn đề
tiền tệ, thuế khóa.
Nhân nói về lạm
phát, tôi thấy có vấn đề rất quan trọng
trong phạm vi thẩm
quyền của Nhà nước mà Nhà nước chưa làm
cho tới nơi tới chốn. Ví dụ, như trước Quốc hội có ý
kiến cho rằng thất thoát trong các công trình xây dựng
cơ bản lên tới hàng chục phần trăm.
Nhà nước bỏ vào một
công trình nào đó 100 tỉ đồng, thì nó chạy đâu
mất mấy chục tỉ. Cái gì mà thất thoát thì tự nhiên là phần còn
lại sẽ đội giá cao hơn.Cho nên việc
chống tham nhũng, tham ô lãng phí hiệu quả cũng
kiềm chế lạm phát. Từ đó, Nhà nước phải xem lại trong
tất cả các lĩnh vực quản lý, có lĩnh vực
nào còn có thể làm giảm giá thành được không?
Tôi muốn đề cập đến
thị trường bất động sản. Hiện nay đất là tài sản của
nhân dân do Nhà nước quản lý. Tại sao giá đất cao? Một
điều hết sức không hợp lý là khi lấy
đất thì lấy đất của người nghèo và
cấp đất cho những nhà phát triển dự án là những anh nhà giàu. Bồi thường đất cho
nhân dân với giá quá thấp trong khi các nhà đầu tư
khi bán ra thì tới vài triệu, thậm chí hàng chục triệu
đồng/m2. Ngoài chuyện bất công còn vấn đề giá
cả. Liên quan tới
giá cả tức là sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến lạm phát. Nói bất
động sản đang “nóng”, tại sao Nhà nước
thấy rõ ràng cung không đáp ứng cầu, làm ảnh
hưởng trực tiếp tới giá bất động
sản, sao không điều tiết, trong khi quyền giao
đất, sử dụng đất ở trong tay mình?
Vài
nét về chuyên gia Bùi Kiến Thành
- 1954 – 1956: Trưởng phòng ngoại hối
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (miền Nam).
- 1956 – 1958: Đại diện Ngân Hàng
Quốc gia Việt Nam (miền Nam) tại New York, Mỹ - lúc
đó ông mới 24 tuổi, là người trẻ tuổi
nhất trong hơn 60 đại diện NHNN tại Hoa
Kỳ.
- 1959 – 1965: Chủ tịch, tổng giám
đốc Công ty Bảo hiểm quốc tế Mỹ American
International Underwriters, Vietnam, Inc. (AIU) - là vị chủ
tịch công ty trẻ tuổi nhất (27 tuổi) trong
hệ thống các công ty thành viên của tập đoàn.
- 1983 – 1984: Giám sát (controller) khu vực
Chicago (Mỹ) của Tập đoàn Tài chính Quốc tế Mỹ
(American International Group - AIG).
-1984 – 1992: Tư vấn độc lập
về các vấn đề Việt Nam.
- 1993 – 1996: Cố vấn cao cấp thường
trú tại Việt Nam (Resident Senior Advisor) của Tập
đoàn Tài chính quốc tế Mỹ AIG – một trong 10
tập đoàn tài chính hàng đầu thế giới có chi
nhánh trên hơn 130 quốc gia, với tổng số tài
sản trên 600 tỉ USD.
- 1996 đến nay: Cố vấn cao cấp,
KHM, Inc.
(Theo Người Lao động)