BÙI KHẮC TỤC
(1906 - 1976)
--------------------
Ông BÙI KHẮC TỤC thường gọi là Ô.
BÁT THƯƠNG là trưởng nam của Ông Bùi Thống
và Bà Lê Thị
Nhứt. Ông là đích tôn, về thế thứ 17, của
tộc Bùi.
Ông sinh năm Đinh Mùi (1906)
tại Vĩnh Trinh.
Ông được
hấp thụ cả 2 nền văn hóa Nho học và Tây
học.
Thuở nhỏ Ông
học chữ Hán với các nhà cựu học ở
địa phương. Khi lớn lên, Ông ra học ở
trường Trung học Pellerin tại Huế. Sau
đó, v́ phong trào băi khóa, Ông thôi học, về quê phụ tá
song thân ở Thu Bồn, theo nếp sinh
hoạt nông gia.
Năm 20
tuổi, Ông lập gia đ́nh, kết duyên với Bà LÊ THỊ CỰ,
trưởng nữ của Ông Bà Lê Bá Trác (Ô.B. Nghè Chước),
thuộc một danh gia ở Bằng An, Điện Bàn.
Vào khoảng năm 1930, Ông Bà
về ở Vĩnh Trinh để thay mặt song thân, lo
việc quản trị ruộng đất và thờ cúng
Tổ tiên.
Với tư cách
tự tôn, Ông Bà đă quản lư các phần đất
hương hỏa của Tiền nhân để lại –
hầu hết đều ở trong chánh xă – để lo việc
kỵ giổ. Hằng năm, Ông Bà đă tổ chức cả chục
Đám Giổ lớn. Mỗi lễ Kỵ
thường diễn tiến trong hai hôm: diên Tiên
Thường vào chiều hôm trước và diên Chánh Kỵ
vào sáng hôm sau. Số bà con, cô bác tham dự trong mỗi diên
lên đến hàng trăm vị, nên theo
thông lệ lễ Kỵ nào cũng phải giết heo, ḅ
để trước cúng sau thết đăi bà con, họ
hàng. Đấy là chưa kể, để chuẩn bị,
thường có cả một tiểu ban chuyên lo làm bánh trái
– từ một vài tuần trước – để lễ
xong, phái người đem đến kỉnh biếu các
bậc ông bà, cô
bác. Về vấn đề này, Ông Bà đă lo
rất thành tâm và chu đáo.
Sau khi đập Vĩnh Trinh xây
đúc xong – trước đấy đập chỉ
đắp bằng đất, cát, gai, bổi chắn ngang
con khe chảy băng qua làng – một Ban Trị sự
đập được thành lập và Ông được
cử làm Đại Diện điạ phương. Trong
suốt thời kỳ 1937-1945, Ông đă cùng Ông Trưởng
ban thu thập rồi đạo
đạt những ư kiến và nguyện vọng chính
đáng của nông gia trong vùng lên các cấp chính quyền.
Ông
được thưởng lúc đầu Cửu phẩm
sau lên Bát phẩm Văn giai.
Suốt
đời, Ông cư xử hiền lành, tử tế, ḥa
nhă, vui vẻ với tất cả mọi người. Dù thời cuộc
đổi thay, Ông cũng tránh được mọi
sự khó khăn, phiền phức.
Hiền thê của Ông là một
người đàn bà thông minh, lanh lẹ, bạt thiệp,
cần mẫn, đảm đang, đă giúp Ông rất
nhiều trong việc tề gia, xử thế.
Bà là một
người vợ rất hoàn hăo, một mẹ hiền
suốt đời tận tụy lo cho con cái. Trong thời
kỳ chiến tranh Pháp-Việt, Bà ở lại quê nhà cai quản ruộng nương để
kiếm tiền gởi ra Huế nuôi các con ăn học.
Sau chiến tranh Pháp-Việt, với đầu óc tân
tiến, Bà mở nhà máy xay luá Quảng Khương ở Xă
Xuyên Khương và Thu Bồn, để phục vụ dân
làng khỏi phải xay luá vất vả. Bà
cũng thành lập một nhà máy gạch để giúp
việc xây cất tại điạ phương
được dễ dàng.
Ông Bà sinh hạ
được 5 nam, 4 nữ đều thành tài và lập
gia thất.
Điều ước mong duy nhất của Ông Bà là
tất cả con cháu đều học hành giỏi,
đỗ đạt cao, thành tài để làm rạng
rỡ gia tộc. Sự thành
đạt của các con sau này (1 Kỹ sư, 1 Tiến
sĩ, 3 Bác sĩ, 2 Dược sĩ, 1
Giáo sư, 1 Tú tài) đă làm Ông Bà hoàn toàn măn nguyện. Ông qua
đời ngày 25-12-Ất Măo (25-01-1976) thọ 70 tuổi, an táng tại Nghĩa Trang Trung Việt Ái
Hữu ở Hạnh Thông Tây. Tháng 05-1986, khi nghĩa trang
được lệnh giải tỏa, hài cốt Ông đă
được hỏa thiêu, gửi qua cải táng tại
Cedar Hill Cemetery (Lạc Cảnh Viên)
Maryland, Hoa Kỳ.
Sau khi Ông mất, Bà sang ở
với các con tại Hoa Kỳ.
Mặc dù tuổi cao sức yếu, Bà vẫn thờ cúng
Tổ tiên tại xứ lạ quê người và cũng
dặn ḍ trưởng nam của Bà (đích tôn tộc Bùi,
thế thứ 18) tiếp tục thờ cúng Tổ tiên,
hằng năm như thường lệ. Mỗi lần
gửi thư về thăm bà con, họ hàng, Bà
thường đề cập đến vấn
đề trùng tu Phần mộ và Từ Đường.
Trước khi mất, Bà c̣n di chúc lại cho các con là
phải nhớ lạc cúng xứng đáng vào các công tác
của Gia Tộc. Bà qua đời ngày 19-11-Kỷ Tỵ
(16-12-1989) tại Maryland, hưởng thọ 78 tuổi, an
táng tại Cedar Hill Cemetery (Lạc Cảnh Viên), bên cạnh
mộ Ông.
Qua bao biến
cố chính trị và chiến tranh, nhờ sự nh́n xa
thấy rộng của Ông Bà nhất là trong việc
tiến thân của con cái, và phúc đức của Tổ
tiên để lại, gia đ́nh của Ông Bà đă thành công
tại quê nhà cũng như ở hải ngoại.
Để ghi nhớ công ơn cha mẹ và công đức
Tổ tiên, các con của Ông Bà đă hoan hỉ đóng góp
một phần lớn vào chi phí xây dựng các Từ
Đường tộc Bùi tại quê nhà (Vĩnh Trinh và
Saigon), và đó cũng là ước nguyện cuối cùng
của Bà trước khi qua đời.