BÙI ĐỊCH
(1870
- 1949)
----------O0O---------
Ông BÙI
ĐỊCH, tục gọi Ông NGHÈ ĐỊCH hay Ông
Cửu Nghè, là quí nam của Ngài Bá hộ Bùi Văn Hảo và
Bà Chánh thất Nguyễn Thị Long. Ông sanh năm C. Ngọ (1870) tại Vĩnh Trinh.
Thuở nhỏ noi gương
hiếu học của phụ huynh, Ông đã ra công dùi mài
kinh sử. Tuy Ông không
đỗ đạt, nhưng kinh truyện đều
được làu thông.
Lớn lên, Ông được bổ
làm Thừa phái, thưởng Cửu phẩm. Sau một thời gian, Ông xin
nghỉ, lui về quê, nối nghiệp nông tang.
Ông kết duyên cùng Bà VÕ THỊ LOAN,
ái nữ của Ngài Tú tài Võ Thiều ở Tứ Câu,
Điện Bàn. Ông Bà sanh hạ tất cả 11
người con, nhưng số thành gia thất gồm có: 4
nam và 2 nữ.
Ông tính tình hiền hậu, ôn hòa, nói
cười vui vẻ, nên rất được cảm tình
của mọi người. Ông đã được vị Bá phụ là Ngài Bùi
Thân ủy thác đứng ra trông nom việc xây cất
Cầu Cao. Nhờ công
tác này mà số ruộng đất gần đấy khỏi
bị ủng thủy, gia tăng sản lượng và
sự giao thông cũng thêm phần tiện lợi.
Tuy sống
về nghề nông, suốt đời Ông chưa hề chân
lấm tay bùn. Vấn đề kinh tế gia
đình đã được bà nội tướng
đảm đang, lo lắng, nên Ông ít phải bận tâm
đến. Với bộ
đồ quốc phục, Ông đi đâu cũng thường
đội nón lông có chụp bạc, cầm quạt lông, hút
ống điếu bình – có cần trúc dài uốn cong – trông
rất phong lưu, bệ vệ. Ông thích đi
chơi đây đó, giao du với các bậc Nho sĩ,
hưu quan như cụ Tham An Dưỡng, Cụ Thượng
Trung Lộc, Cụ Thị Hà Tân, Cụ Thượng
Trừng Gian, Cụ Tuần An Quán v.v… và trong lúc vãn niên, các
cụ cũng thích được tiếp Ông để cùng
nhau tiêu khiển thì giờ, hàn huyên tâm sự cho vui.
Điều
đặc biệt là với quan niệm “nam nguyện hữu
thất, nữ nguyện hữu gia” và:
“Dù khi lá thắm
chỉ hồng,
Nên chăng thì
cũng tự lòng mẹ cha”
Ông thường
đã tự động giới thiệu cho nhau các vị
phụ huynh có con cái mà Ông xét thấy “xứng đôi vừa
lứa”. Nhờ ở sự giao thiệp rộng, quen
biết nhiều và nhất là do ở thiện chí của
mình, Ông đã tác thành được nhiều cuộc hôn
nhân. Nhờ Ông, nhiều gia đình đã tìm được
những bậc nhân nghị vừa ý, nhiều bạn thanh
niên nam nữ đã thành giai ngẫu. Ông thật là hiện
thân của Nguyệt lão thiên tiên, chuyên lo việc “kết tóc
xe tơ” không biết
mệt mỏi.
Ông mất ngày 05-04-K. Sửu (1949),
thọ 80 tuổi. Bà
mất ngày 27-11-Âm lịch. Ông Bà đều táng tại Bàn Thát, Tân Phong.
Ngay
nay, phát triển đến thế thứ 17, 18, 19, các con
cháu nội ngoại của Ông Bà đương
hưởng phúc lành mà Ông Bà đã từng gieo từ
thuở trước.