BÙI CHUYẾT
(1896
- 1965)
----------O0O---------
Ông BÙI CHUYẾT thường
gọi Ông BÁT TIẾU
là một thứ nam của Ông Bá hộ Bùi Túc và Bà Phan
Thị Trang. Ông sanh năm Bính Thân (1896) tại Vĩnh Trinh.
Thuở nhỏ, Ông học Hán văn
và có đi thi Trường Ba. Ông cũng thông thạo chữ Nôm và chữ
Quốc ngữ.
Năm
Giáp Dần (1914), Ông kết hôn cùng Bà PHAN
THỊ QUỲNH, trưởng nữ
của Ông Bà Tú
tài Phan Thế
Đạt ở Đông Yên. Sau
khi được phụ thân cấp cho một số
tư điền ở Phú Nhuận, Ông Bà bèn lên lập
nghiệp ở đấy. Tuy còn trẻ, Ông đã sớm có tài tổ
chức. Ông cho xấn và sang bằng một
phần ngọn đồi rộng 4 mẫu ta rồi cho
xây 3 ngôi nhà ngói, hình chữ U – mỗi nhà có 5 gian 2 chái – cùng
nhìn ra một cái sân rộng. Ngôi nhà giữa – có cột toàn
bằng sơn nghệ đứng táng trên các tảng đá
cẩm thạch bóng láng và có kèo bằng mít chạm trổ
công phu – dùng làm nơi thờ tự còn 2 ngôi nhà 2 bên tả
và hữu thì dùng làm nhà ở và nhà chứa lúa.
Công tác
xã hội và kinh tế:
- Khi
mới đến lập nghiệp, Ông cho đào và xây
một cái giếng lớn, do đó bà con trong thôn xóm đã
có nước tốt để dùng quanh năm trong suốt
mấy mươi năm trời.
- Khoảng
năm 1940 Ông tự xuất tiền thiết kế và cho
cất 1 cái cầu đá 3 vày bắt ngang qua khe rộng trên
10 m –
chảy băng qua làng – để người và súc vật
qua lại được an toàn.
- Ông
cho dựng một bờ xe
nước ở sông Thu Bồn, tưới
được một diện tích hơn 3, 4 chục
mẫu.
- Trong
các năm bị thiên tai,
mùa màng mất sạch, Ông đã tự xuất gia xuy, mua lúa
gạo phát chẩn, cứu trợ đồng bào qua cơn
đói kém. Nhân đấy Ông đã được
tưởng thưởng Bát phẩm Văn giai.
- Năm
1932, một tổ chức về thủy lợi
được thành lập, mục đích là vay tiền
Chính phủ, xây đập Khe Công ở xã Thạch Bàn,
đưa nước tưới ruộng đất
ở 7 xã gần đấy, để rồi hàng năm
nông gia đóng tiền nước trả dần lại cho
Chính phủ. Và Ông đã được cử làm
Trưởng ban Trị sự của tổ chức
thủy lợi đó.
Hiền thê Ông là người
đảm đang, quán xuyến, giúp Ông rất đắc
lực. Ngoài việc nông tang thường lệ,
Bà cho tổ chức chăn nuôi: nuôi heo, nuôi trâu bò và buôn
trữ các hàng đặc sản như nón lá, dầu rái v.v…
Bà không vì bận việc làm ăn
mà xao lãng công tác từ thiện, cứu tế: Bà
thường giúp đỡ những người nghèo khó,
hoạn nạn, nên ai cũng quí mến.
Ông Bà
sinh hạ tất cả 18 người con và số trưởng
thành có gia đình, sự nghiệp gồm 7 trai, 6 gái, nên
năm 1942, với tư cách là tiêu biểu người
vợ đảm, bà mẹ hiền, Bà đã được
ân thưởng Bằng tưởng lục và Huy
chương vàng.
Chiến tranh bùng nổ, Ông Bà và gia
đình tản cư lên Phú Gia. Bà bị bệnh và mất ngày 21-09-Đ. Hợi
(1947), thọ 51 tuổi. Phần mộ đã được cải táng về
Gò Cao, Mỹ Sơn, hiện thuộc xã Duy Tân, Duy Xuyên.
Ông tục huyền với Bà LÊ
THỊ LIỄU, người Đông Yên, sanh
hạ được 1 trai, 2 gái.
Năm 1960, Ông và gia đình dời vào
Sài Gòn – số 4 đường Thuận Kiều –
để tịnh dưỡng tuổi già. Ông
mất ngày 27-10-Â. Tỵ (1965), thọ 70 tuổi, an táng
tại Nghĩa trang Mạc
Đĩnh Chi. Khi nghĩa trang này được giải
tỏa, hài cốt được cải táng tại
một triền núi, cảnh trí hữu tình, ở Hóc Giáp, xã
Hòa Mỹ tây, Tuy Hòa, Phú Yên.
Cuộc
đời và sự nghiệp của Ông Bà là một tấm
gương cần lao
và tiến thủ cho con cháu.