BÙI CẦN
(1890
- 1974)
----------O0O---------
Ông BÙI
CẦN, tự Duẫn, thường gọi Ông HƯƠNG
CẦN là con thứ bảy của Ông Bùi Văn Ý và Bà Nguyễn
Thị Mỹ.
Ông sinh vào giờ Ngọ, ngày 05-06-Canh
Dần (1890) tại Vĩnh Trinh.
Ông tư
chất thông minh, vóc người mảnh mai, nho nhả,
tướng mạo ngũ
trường. Ông vui tính, hoạt bát, thường chen những câu dí dỏm,
khôi hài, thâm thúy, khiến người nghe ai cũng ưa
mến.
Thuở
nhỏ, Ông theo thúc phụ là Ô. Cử nhân Bùi Hữu Chí – ngồi
Tri huyện ở huyện Phú Vang, Thừa Thiên – để
học Hán Văn. Nhờ có năng khiếu, Ông đã
hấp thụ một số vốn văn hóa vững
chắc. Ông cũng thông thạo đơn trương,
giấy tờ về hành chánh.
Năm 18 tuổi, vì hoàn cảnh gia
đình, Ông phải về lại quê nhà. Ông có mở lớp dạy học
tại nhà một thời gian. Ông sành về khoa
tử vi, bói toán. Ông thích ngâm thơ, vịnh cảnh.
Ông đã sáng tác nhiều bài Đường luật
hoặc những ngâm khúc song thất lục bát (xin xem
phần Phụ lục).
Ông cũng thạo về toán Tàu, quen
cách tính phân đất, triệt đất. Ngày
xưa mỗi khi làng quân cấp đất đồng canh
cho dân hay các nhà hào phú muốn phân triệt tư điền
cho con cái, đều nhờ đến Ông, do đó Ông am
tường địa bộ trong làng hơn ai cả.
Về hôn nhân, lúc đầu Ông
kết duyên cùng Bà ái nữ của Ông Thầy Diên,
người ở Mã Châu và sinh hạ được 1 gái.
Nhưng tơ duyên trắc trở, Ông Bà không cùng sống chung với nhau và
người con gái cũng tảo vong.
Sau đó
Ông tái phối với Bà NGUYỄN THỊ PHÒ, ái nữ của
Ông Bà Hội Tiếp, người làng Giáo Trung, Đại
Lộc. Cùng chung một cảnh ngộ, Ông Bà thông cảm
nhau hơn, đã sống một đời hạnh phúc và
đã sinh hạ được 4 trai, 2 gái và 2 ấu vong.
Khi được
song thân cho ra ở riêng, Ông Bà về ở lại
vườn cũ của nội tổ là Ngài Bá hộ Bùi
Hoằng Nghị trước kia
tại An Lâm. Ông Bà noi theo nếp cũ nông tang, tuy không phải
giàu có, nhưng nhà cửa có cái trước có cái sau,
ruộng đất đủ đám sâu đám cạn, tiền
của có kẻ trả người vay, nên đã sống
một đời phong lưu sung túc.
Năm Đinh Dậu, 1958, Ông Bà
đã phát tâm xin quy y tại chùa Phật giáo ở Thọ
Xuyên; Pháp danh của Ông là Kiệm và của Bà là Trì.
Năm
Bính Ngọ, 1966, vì chiến cuộc ngày càng leo thang, Ông Bà phải rời bỏ nhà
vườn, ra tạm trú với con tại Đà Nẵng.
Qua năm
Đinh Mùi, 1967, Bà vào ở với người con trai
thứ 7 tại Hàm Tân, Bình Tuy. Bà
mất ngày 26-09-Mậu Thân, 1968, thọ 77 tuổi (1),
mộ táng tại Hàm Tân.
Ông vẫn
lưu lại Đà Nẵng. Lúc bấy giờ tuy sức
khỏe suy yếu, mắt kém, nhưng tinh thần Ông
vẫn sáng suốt, minh mẫn. Ông
vẫn nhớ rành mạch sách vở, điển tích
như xưa. Chính
nhờ có ký ức phi thường đó, mà ông đã
đóng góp rất đắc lực vào việc cung lục
quyển Phổ hệ của Tộc in ronéo năm Canh
Tuất 1970.
Sang năm Giáp Dần 1974, các con
dời vào Sài Gòn, đón Ông vào ở với người con
trai thứ 6 tại khu Bảy Hiền. Ông
mất tại đấy ngày 22 tháng 12 năm ấy, thọ
85 tuổi (2), linh cữu đưa ra an táng ở Hàm Tân, bên
cạnh mộ Bà. Hai ngôi mộ đều có bia, nhà bia (3) và xây thành xung quanh trông
thật trang nghiêm.
Ghi chú:
(1) Câu đối – do Ông soạn – để thờ Bà:
BÁT THẬP KHIẾM TAM NIÊN, SƠN
HẢI THỆ MINH DU TƯỞNG TƯỢNG;
CỬU NGUYỆT NẪM LỤC NHẬT,
THẦN HÔN NAM
NỮ VỊ CAM
TÂM.
(2) Câu đối thờ ông:
TỨ ĐỢI ĐỒNG
ĐƯỜNG, DIÊN NIÊN QUA BIỆT;
BÁT TUẦN THƯỢNG THỌ,
LỊCH TUẾ BÁ TÙNG.
(3) Khắc ở mộ Bà:
VIẾT GIAI THÀNH
MỘ HUYÊN ĐƯỜNG NAN THÙ HẬU ĐỨC;
NGƯỠNG TỪ PHONG
KHẢ ĐÁP THÂM ÂN.
- Khắc ở mộ Ông:
QUAN KỲ HẠNH
PHONG MỘC NAN TIÊU THIÊN CỔ HẬN;
PHẦN
OANH DỊ ĐỘNG BÁ NIÊN TÂM.