BÙI BIÊN
(1891
- 1952)
----------O0O---------
Ông BÙI BIÊN tục danh, Ô. CỬU
THỨ là thứ nam của Ông Bá hộ Bùi Túc và Bà Phan
Thị Trang.
Ông sinh năm T. Mão, 1891 tại
Vĩnh Trinh. Ông thông
minh, linh hoạt. Ông học
thông chữ Nho, chữ Nôm và biết chữ Quốc ngữ.
Năm 20
tuổi – 1911 – Ông kết duyên cùng Bà PHAN THỊ YẾN,
trưởng nữ của Ông Bà Phan Phiên, tục gọi Ông
Bà Lễ Tầm ở Bảo An, Điện Bàn.
Năm sau – năm N. Tý, 1912 – Ông Bà sinh hạ
cậu con trai đầu lòng đặt tên là Bùi Thứ –
sau đổi thành Bùi Kiến Tín – và cũng từ đấy,
sau khi được thưởng chức Cửu phẩm,
Ông được gọi là Ông Cửu Thứ.
Sang năm sau, Ông Bà lên lập
nghiệp ở Trung Phước, Quế Sơn, trên
nguồn sông Thu Bồn, để quản lý số
đất ruộng mà thân phụ vừa tạo mãi, vừa
thừa kế được của tổ phụ là Ông
Quản Nghi.
Thuở
đó, vùng Trung Phước còn hoang vu, dân cư còn thưa thớt,
nên việc vợ chồng trẻ đưa con mọn lên
lập nghiệp ở đấy được xem như
một việc mạo hiểm, đòi hỏi một
nghị lực khác thường.
Cũng như
đối với các anh em khác, khi ra biệt cư, Ông Bà
đã được phụ thân tạo lập cho một
sở nhà nằm bên bờ sông Thu Bồn, tại một
nơi trông thật uy nghi, hùng vĩ.
Ông Bà làm
ăn rất phát đạt: chỉ trong khoảng hơn 10
năm, Ông Bà không những đã trở thành nhà hào phú
bậc nhất ở trong làng mà còn là một trong số những
con cháu có sản nghiệp đồ sộ nhất của
Ông Quản.
Năm 1923,
theo nhu cầu phát triển, Ông Bà đã kiến thiết thêm
một nhà chứa lúa nữa, và năm sau – 1924 – Ông Bà xây
cất một nhà lầu (1), một công trình vĩ
đại ở một nơi núi non hiểm trở như
vùng Trung Phước lúc bấy giờ.
Ông Bà đã lần lượt sinh
hạ thêm 4 trai, 4 gái và 2 ấu vong.
Tháng 06
năm 1932, trưởng nam của Ông Bà, Ông Bùi Kiến Tín,
thi đỗ Tú tài toàn phần, vinh qui bái tổ rất linh
đình. Tháng 02 năm 1935, Ông Tín được
học bổng du học Y khoa Bác sĩ ở Pháp.
Ông Bà làm ăn giàu có,
con cái đỗ đạt cao, nên mọi người đều
khen ngợi.
Cũng năm 1932, sau khi sinh
người con gái út, Bà thọ bệnh. Mặc dù Bà được
đưa ra tận Huế và Hà Nội để chữa
trị, nhưng bệnh tình ngày càng trầm trọng, khó
bề qua khỏi. Để tránh cảnh dì
ghẻ con chồng sau nầy, bà con nội ngoại
đều khuyên Ông xin Nhạc mẫu cho cưới cô em
vợ nhũ danh PHAN THỊ THƠ
làm kế thất vào năm 1935.
Bà chánh
thất suy yếu dần và mất ngày 19 tháng 11 năm B. Tý
(1937), thọ 45 tuổi.
Bà kế thất đã lần
lượt sinh hạ được 3 trai, 2 gái và 3 ấu
vong (2).
Các con
cái phòng đích lẫn phòng kế của Ông đều làm ăn thịnh đạt
hoặc học hành thành tài cả.
Cuối
năm 1945, Ông được cử làm Chủ tịch Ủy
ban Vận động kháng chiến quận Quế Sơn
và về sau Ông được cử làm Chủ tịch
Hội Liên Việt tỉnh Quảng Nam.
Trong thời kỳ chiến tranh, sau
mỗi lần phi cơ oanh tạc gây tổn thất cho đồng
bào, Ông đều đứng ra tổ chức cứu
trợ, giúp đỡ tích cực các gia đình lâm nạn.
Nhưng trớ trêu thay, rạng ngày 19-09-N. Thìn (1952), một
tai nạn thảm khốc đã xảy đến cho gia
đình Ông: Phi cơ Pháp bay đến thả bom, 3 quả
trúng ngay hầm trú ẩn của nhà Ông, gây tử vong cho 18
người, trong đó có vơ chồng Ông và 8
người con cháu trong nhà. Ông thọ 62 tuổi, Bà thọ
41 tuổi, đều cùng các con cháu tử nạn an táng tại xứ
Cửa Làng, Trung Phước.
Việc
gia đình Ông ngộ nạn đã làm cho bà con và đồng
bào địa phương thương tiếc và xúc cảm
vô cùng.
Ghi chú:
(1) Đứng trên lầu, nhìn quang
cảnh núi non trùng điệp trông thật ngoạn
mục, nên đã có bài thơ do nữ sĩ Niên Phong đề
tặng như sau:
Khen
ai tô điểm vẽ nên tranh,
Phong cảnh trêu người thú
hữu tình.
Phía
trước non cao, cao ngất ngất,
Đằng
sau sông uốn, uốn quanh quanh.
Trong
vườn quế phượng chen cau chuối,
Bên chái tùng thông lẫn quít chanh.
Trên
gác xa trông trời bảng lảng,
Vần mây trắng xóa núi xanh xanh.
(Trích Bảo
Phước lưu tập trang 29)
(2) Bài
thơ sau đây vừa nói lên thân thế, sự nghiệp
của Ông vừa vận dụng được
phương danh của hầu hết những
người trong gia đình Ông:
BIÊN
cương một dãy núi sông,
YẾN oanh THƠ mộng
bướm ong dập dìu.
Ruộng
vườn tươi tốt phì nhiêu,
Bán buôn TÍN cẩn giữ
điều nghĩa nhân.
PHÚ
cường THẠNH vượng muôn phần,
VINH quang phúc LỘC
một sân QUẾ hòe.
Trường
SƠN nam HẢI chở che,
LONG phi phượng
vũ đua khoe với đời.
TƯ
dinh phong NHỰ khắp nơi,
LIỄU MAI cúc TRÚC tứ
thời điểm trang.
Hai vai
gánh nặng giang san,
Trượng phu chí khí hiên ngang
vẫy vùng.
(Trích
Bảo Phước lưu tập trang 50)
BÙI BIÊN
(xem
thêm thông tin trong google:
mục từ “Bùi Biên”).
Tên: Bùi Biên
Quê
quán: Duy Hoà - Duy Xuyên -
Quảng Nam
(Vĩnh Trinh
- Duy Xuyên - Quảng Nam)
Thời
kỳ: chiến
tranh
Năm
sinh: Tân Mão – 1891
Năm
mất: Nhâm Thìn -1952
Tên
khác: Cửu Thứ
Tiểu sử
Bùi Biên là nhà
khẩn hoang, phú hào, tục danh là ông Cửu Thứ, quê
làng Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, nay là
xã Duy Hòa, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam; sau vào
khẩn hoang lập nghiệp tại làng Trung Phước,
huyện Quế Sơn, nay là xã Quế Trung, huyện
Quế Sơn tỉnh Quảng Nam.
Thuở
ấy (1915 - 1920) vùng Trung Phước còn hoang vu, dân
cư thưa thớt, nên việc vợ chồng
trẻ đưa con mọn lên lập nghiệp ở
miền hoang vu được xem như một việc
mạo hiểm, đòi hỏi một mãnh lực khác
thường.
Cũng
như đối với các anh em khác, khi ra biệt cư
ông đã được phụ thân tạo lập cho một
sở nhà nằm bên bờ sông Thu Bồn, một nơi
rất uy nghi, hùng vĩ.
Ông làm ăn
rất phát đạt: chỉ trong khoảng hơn 10
năm, ông bà không những đã trở thành nhà hào phú
bậc nhất ở trong làng mà còn là một trong số những
con cháu của tộc Bùi có sản nghiệp đồ sộ
nhất.
Năm 1923,
theo nhu cầu phát triển, ông bà đã kiến thiết thêm
một nhà chứa lúa, và năm sau 1924 ông bà lại xây
cất một nhà lầu và một công trình khang trang lớn
ở vùng núi non hiểm trở như ở Trung
Phước lúc bấy giơ
Tháng 6 năm
1932, trưởng nam của ông bà, ông Bùi Kiến Tín thi
đỗ Tú tài, vinh qui bái tổ rất linh đình. Tháng 2
năm 1935, ông Tín được học bổng du học Y
khoa Bác sĩ ở Pháp. Ông bà làm ăn giàu có, con cái
đỗ đạt cao, nên mọi người đều
khen ngợi.
Sau cách
mạng tháng 8 năm 1945, ông tham gia và ủng hộ cuộc
kháng chiến chống Pháp ở địa phương.
Cuối
năm 1945, ông được cử làm Chủ tịch Ủy
ban Vận động kháng chiến huyện Quế Sơn
và về sau ông được cử làm Chủ tịch hội
Liên Việt tỉnh Quảng Nam.
Trong thời
chiến tranh, sau mỗi lần phi cơ Pháp oanh tạc gây
tổn thất cho đồng bào, ông đều
đứng ra tổ chức cứu trợ, giúp đỡ
tích cực các gia đình lâm nạn. Nhưng trớ trêu thay,
rạng ngày 19 tháng 9 Nhâm Thìn (1952), một tai nạn thảm
khốc đã xảy đến cho gia đình ông; máy bay Pháp
khủng bố, thả bom trúng ngay hầm trú ẩn của
nhà ông, gây tử vong cho 18 người trong đó có
vợ chồng ông và 8 người con cháu trong nhà. Ông
thọ 62 tuổi, bà thọ 41 tuổi, đều cùng các
con cháu tử nạn an táng tại xứ Cửa Làng, Trung
Phước.
Việc gia
đình ông ngộ nạn đã làm cho bà con và đồng bào
địa phương thương tiếc và vô cùng xúc
cảm.
Ngôi nhà ông
cất trên đồi cao nhìn quang cảnh núi non trùng
điệp trông thật ngoạn mục, nên đã có
người đề vịnh:
Khen ai tô điểm
vẽ nên tranh,
Phong cảnh trêu người thú
hữu tình.
Phía trước
non cao, cao ngất ngất.
Đằng
sau sông uốn, uốn quanh quanh.
Trong
vườn quế phượng chen cau chuối,
Bên chái tùng thông lẫn quít chanh.
Trên gác xa trông
trời bảng lảng,
Vầng mây trắng xóa núi xanh xanh.
Bài thơ sau đây vừa nói lên thân
thế, sự nghiệp của ông vừa vận dụng
được phương danh của hầu hết
những người trong gia đình ông. (Những
chữ in đậm là tên vợ chồng ông và con cháu).
Biên cương
một dải núi sông,
Yến oanh
Thơ mộng
bướm ong dập dìu.
Ruộng vườn
tươi tốt phì nhiêu,
Bán buôn Tín cẩn giữ
điều nghĩa nhân.
Phú
cường Thạnh vượng muôn phần,
Vinh quang phúc Lộc một sân
Quế hòe.
Trường Sơn Nam
Hải chở che.
Long phi phượng vũ đua
khoe với đời.
Tư dinh phong
Như khắp nơi,
Liễu Mai cúc Trúc tứ thời
điểm trang.
Hai vai gánh
nặng giang san,
Trượng phu chí khí hiên ngang
vẫy vùng.
Đời ông có thể là tấm
gương sáng đối với những người trẻ
có chí tự lập.
(Nguồn: Vietgle - Trung
tâm tri thức & Cộng đồng học tập Việt
Nam)