CUỘC ĐỜI HOẰNG
PHÁP CỦA ĐỨC PHẬT
Lịch
sử đức Phật Thích Ca Mâu Ni là lịch sử
của một con người nhờ công phu tu tập,
tự thân hành tŕ và chứng ngộ.Ngài đă trở thành
bậc giác ngộ giữa cơi đời này.Mục đích hiện hữu của Ngài là khai
thị ngộ nhập Phật tri kiến cho chúng sanh.Do
đó trong hơn 45 năm Ngài thuyết Pháp độ sanh:
bằng thân giáo,Khẩu giáo, Ư giáo.Đức Phật đă
đem đạo vào đời, độ vô lượng
chúng sanh mà không phân biệt giao cấp, chủng tộc,
thành phần trong giai cấp xă hội.Ngài đă khai tâm thức cho loài người biết
rằng:Bất cứ một người nào muốn
dụng tâm tu tập, hành tŕ, theo chánh pháp mà Ngài giảng
dạy đều có thể chứng đạt trí tuệ
Vô Thượng và thành tựu quả vị giải thoát
Niết Bàn như đức
Phật Thích Ca Mâu Ni vậy.
1-*Sự
kiện đức Phật Thích Ca Mâu Ni đản sanh là hy
hữu tối thắng ở thế gian này. Điều
quan trọng là Ngài đạt thành Tối Thượng
ở đời không ai có thể sánh bằng. Chính Ngài
đă mở ra con đường giải thoát mà từ
xưa đến nay chưa ai khai mở. Ngài tuyên thuyết
cho mọi người biết rằng: Con đường
giác ngộ mà từ trước chưa từng ai tuyên
thuyết.
Trong kinh
Bộ Ba ghi rằng: “Không có thể một vị tỳ
kheo,hay Bà La Môn thành tựu một cách trọn vẹn,
một cách đầy đủ,. Tất cả các Pháp mà
Thế Tôn, bậc A La Hán thành tựu Chánh Đẳng Chánh
Giác.
Này bà La
Môn, Thế Tôn là bậc khai dậy con đường
trước đây chưa từng ai nói, là bậc hiểu
đạo,biết đạo, và thiện xảo về
đạo, nay các đệ tử là những người
sống và hành đạo sẽ thành tựu chánh quả”.
V́ thế, chúng ta
chẳng có ǵ phải ngạc nhiên, khi nào đến ngày
rằm tháng tư hàng năm, toàn thể Phật giáo Tín
đồ toàn thế giới, trên khắp hành tinh long
trọng tổ chức đón mừng đại lễ
Đản Sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni cách thành
Tỳ La Vệ khoảng 15km vào ngày 15 tháng 4 (âm lịch)
năm 624 trước tây lịch. Đức Phật Thích
Ca đă Đản Sanh ở đời.
Lớn lên trong Hoàng Cung, Ngài trở thành Thái
Tử con vua Tịnh Phạn, hoàng hậu Ma Da, ḍng dơi SaKiA
thuộc vương quốc KapiLaVastu nay là Nepal. Ngày Thái
Tử ra đời, cả vương quốc hân hoan
đón mừng, dân chúng gần xa kéo về kinh đô,
để chia vui, chúc mừng hoàng gia, không khí tươi vui
như trẩy hội. Có một đạo sĩ cao niên tên
là A Tư Đà xin yết kiến đức vua để
xem tướng Thái Tử, là người nỗi tiếng
về chiêm tinh, được hoàng tộc SaKya kính
trọng. Đạo sĩ rất lấy làm hoan hỷ,
nhưng cũng tỏ ra u buồn sau khi xem tướng
xong, Vua hỏi cớ làm sao? Đạo Sĩ thẳng
thắn trả lời: “ Tôi vui mừng v́ Thái Tử có 32
tướng tốt, 80 vẻ đẹp, nhất
định trong tương lai gần sẽ thành bậc
Giác Ngộ. Tôi cũng buồn về tuổi tôi đă già,
không đủ thời gian nhân duyên nghe Pháp kia Một vị
Phật ra đời”.
Về sự kiện này kinh Sutta –Nipata ghi
nhận thật sinh động nhưng khá ngậm ngùi:
“Ẩn Sĩ tâm hân hoan
Được hỷ
lạc rộng lớn
Thái tử này sẽ
chứng
Tối Thượng quả
Bồ Đề
Sẽ chuyển bánh xe Pháp
Thọ mạng ta ở
đời
C̣n lại không bao nhiêu
Ta sẽ bị bệnh
chung
Do vậy ta sầu năo
Bất hạnh và khổ
đau”.
Đạo sĩ ngậm ngùi không
được phước duyên nghe Pháp khi Thái Tử Thành
Đạo. C̣n vua Tịnh Phạn có nỗi ưu tư
sợ không có người kế vị ngai vàng, tuy vậy
mà vẫn c̣n nuôi hy vọng, đặt tên con là Tất
Đạt Đa, họ là Cồ Đàm. Trong ư nghĩ
của Tịnh Phạn., phải có người thừa
kế Ngai vàng, gánh vác việc quốc gia đại sự,
Càng buồn hơn,Hoàng Hậu Ma Ha Ma Gia qua đời 7 ngày
sau đó. Để lại nỗi thương tiếc cho
nhiều người.Thái Tử được Ma Ha Ba Xà Ba
Đề là em ruột của hoàng hậu trực tiếp
nuôi dưỡng, Bà giành hết thời gian để
chăm sóc Thái Tử như con ruột của ḿnh.
Để trở thành vị Hoàng Đế tài
đức vẹn toàn, Thái Tử được giáo
dục theo chương tŕnh đào tạo hết sức tối
ưu dành cho Ngài. Sử sách ghi nhận trong ṿng 5 năm,
từ 7 đến 12 tuổi,Thái tử đă thấu
đạt năm môn học bao gồm nhiều lĩnh
vực khác nhau như:Ngôn
ngữ văn học thuộc gành thanh minh học, Công
nghệ kỹ thuật thược ngành công xảo minh.
Y khoa,
dược lư thuộc ngành y học. Luận lư
thược ngành nhân minh học. Đạo học
thuộc ngành nội minh. Thái Tử rất am tường
bốn bộ Thánh điển Vada. Suốt nguồn
triết lư tư tưởng Ấn Độ Những
bài kệ tụng Thánh Ca có
tính chất thần thoại, những bao trùm về
tư tưởng vũ trụ, nhân sinh, mở đầu
cho triết học văn minh Ấn Độ. Tŕnh bày
về binh pháp rất giỏi, ghi thức tế tụng
bốn mùa. Lễ ghi tôn giáo. Điều đáng nói là Thái
Tử có một tư chất học vấn vô cùng đặc biệt
đến nỗi các danh Sư thời đó đều tán
phục. Hai vị thầy nỗi tiếng nhất về
văn và vơ bấy giờ là Tỳ Sa Mật Đa LA và
Sằn Đề Bà phải kính nễ và tự hào về
thái tử, học tṛ yêu quư của ḿnh. Song song với
việc chăm lo và giáo dục vua Tịnh Phạn c̣n quan
tâm dến việc thành hôn cho thái tử sớm như ư
nguyện của hoàng gia vào năm 16 tuổi dưới
sự sắp đặt của vương triều Thái
Tử đă kết hôn với công chúa Da Du Đà La, con vua
Thiện Đức nước láng giềng. Chính trong
thời gian này, Thái Tử đă sống một cuộc
đời thật sung sướng của bậc
đế Vương mà chính Ngài đều phải nh́n
nhận.
“ trong cung phụ vương ta, các hồ
nước được xây lên, trong hồ có hoa sen xanh,
trong hồ có hoa sen đỏ, Trong hồ có hoa sen trắng.
Tất cả đều
phục vụ cho Thái Tử. Đêm ngày một
lọng trắng được che trên đầu Thải
Tử để tránh đụng chạm nóng lạnh,
bụi cỏ, bay sương. Ba lâu đài được
xây cho Thái Tử, một cái cho mùa Xuân, một cái cho mùa
Hạ, một cái cho mùa Đông”.
Với
một tâm hồn nhậy bén. Thế giới cao sang
quyền quư của hoàng cung trở thành bế nhỏ trong
nhận thức của Thái Tử.
Được sự cho phép của vua
Cha, Thái Tử cùng đoàn tùy tùng, ra khỏi cung thành
để tiếp cận với thế giới hiện
thực bên ngoài. Đó đây sinh , già, bệnh chết,luôn
luôn vây bủa con người. Chỉ có h́nh ảnh vị
Tu Sĩ mới có cơ may đưa con người
bước ra ngoài ṿng hệ
lụy khổ đau mà thôi .
Ư niệm xuất gia
cầu đạo mới khởi nên Th́ có tin công chúa Da Du
Đà La vừa hạ sanh hoàng nam Thái tử, Ngài nhận ra
rằng : “Một trở ngại đă được sanh,
một ràng buộc đă xẩy ra”. V́ thế con thái tử
được đặt tên là La Hầu La. Đây cũng
chính là thời điểm Thái Tử quyết định
từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh để
thực tập một
đời sống hướng thượng cao cả
2-*Rồi
Thái Tử rời bỏ hoàng cungcao sang quyền quư, vợ
đẹp, con thơ, bước đầu trải
nghiệm một đời sống xuất gia của
một vị Tu Sĩ đi t́m sự chứng ngộ
giải thoát, có thể nói đây là “ Sự từ bỏ
vĩ đại”nhất mà kinh thánh cầu ghi lại: “ Sau
thời gian, khi c̣n trẻ niên thiếu, tóc đen nhánh,
đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân,
trong thời vàng son của cuộc đời, mặc
dầu cha , mẹ Ta không bằng ḷng,, nước mắt
đầy mặt,than khóc,Ta cạo râu tóc, đắp áo Cà
Sa, xuất gia,từ bỏ gia đ́nh, đi t́m cái chí
thiện, cầu Vô Thượng tối thắng, an
tịnh, hướng đến tịch mịch”.
Năm 19
tuổi, sau khi từ bỏ mẹ con công chuá Du Da Đà La,
Thái tử một ḿnh, cưỡi ngựa ra đi,
Vượt khỏi hoàng cung, theo sự chỉ đạo
của Nô Bộc trung thành( Xa Nặc). đến bờ sông
ANoMA.Thái Tử hạ lệnh cho Channa (xa Nặc) trở
về tự ḿnh cạo râu tóc. T́m đến hai thầy
nổi tiếng nhất bấy giờ là:A Na Ra Ka Lam và
Uất Đầu Lam Phất để tầm sư
học đạo. Chỉ trong một thời gian ngắn,
Thái Tử đă chứng Đại thuyền Vô sở hữu sứ và Phi
Tưởng, Phi Phi Tưởng Xứ. Đó là hai cấp
Thiền Định, thuộc Vô Sắc Giới mà hai
vị thầy đă đạt được. Thái Tử tự ḿnh nh́n sự chứng
ngộ này không đạt đến giải thoát tối
hậu chấm dứt sanh tử. V́ thế, dẫu
được hai vị thầy mời ở lại dạy cho các đệ
tử của họ, nhưng Thái Tử vẫn quyết trí
ra đi, lên đường t́m chân lư: “ Pháp này không
hướng đến an tịnh, không hướng
đến Thương Trí, không hướng đến Giác
Ngộ, không hướng đến Niết Bàn, mà chỉ
đưa đến sự chứng đạt Vô Sở
Hữu Xứ, Phi Tưởng , Phi phi Tưởng Xứ,
Ta không tôn kính pháp này và chán nản pháp ấy,Ta bỏ
đi”. Giă từ hai vị Đại Sư, Thái tử du
hành đến Ưu Lâu Tần Loa ( u ruvela). Đây là
một vùng đất với
khu rừng khả ái và ḍng sông trong vắt rất thích
hợp để Thiền Định.
Thái Tử dừng chân tại đây để quyết
định hành tŕ khổ hạnh và tin vào sự thực
nghiệm của chính bản thân trong môi trường
khắc khổ nhất, tối thiểu nhất có thể
đưa đến sự chứng đạt.. Chính quăng
thời gian sáu năm ḍng dă cùng với những vị
đồng tu khổ hạnh.
Thái Tử đă trăi qua thời gian khổ hạnh
nhất, bần uế đệ nhất, yểm ly
đệ nhất, độc cư đệ nhất, có
những lúc khổ nhất, Thái Tử c̣n phải nghiến
răng chặn lưỡi, nhiếp phục tâm,nỗ
lực hằng phục tâm, chế ngự tâm, tự ḿnh
hành thiền nín thở Tất
cả chỉ đem lại đau đớn cho bản
thân c̣n tâm thức chẳng chứng được
thiền định hay
thắng trí nào cả. kinh Sư Tử Hống ghi
nhận sự khổ hạnh của ngài như sau:
“V́ Ta ăn ít quá, tay
Ta trở thành như cọng cỏ,hay những đốt
dây leo khô héo, v́ ta ăn quá ít, bản thân Ta trở thành chân
cọn lặc đà, v́ Ta ăn ít quá,cái xương
sống phô bày của Ta giống như một chuỗi
banh, v́ Ta ăn ít quá, cái xương sườn gầy c̣m
của Ta giống như rui cột nhà sàn mục nát, v́ Ta ăn
ít quá. Con người Ta long lanh nằm sâu thẳm trong
một giếng nước thâm sâu, v́ Ta ăn ít quá. Da
đầu Ta trở thành nhăn nhíu, khô cằn như trái
bí đắng màu trắng cắt trước chín, bị
c̣n gió nóng làm nhăn nheo khô cằn. Những khổ hạnh này là tối thượng,
không thể có ǵ hơn nữa, nhưng Ta vẫn không
chứng được Pháp Thượng nhân, tri kiến
thù thắn chỉ ở bậc Thánh, hay có đạo
lộ nào khác đưa Ta đền giác ngộ?”.
Với ư niệm mới khởi nên trong tâm thức Ngài, Ngài
quyết định từ bỏ. Ngài quyết định
từ bỏ con đường ép xác khổ hạnh.Các
bạn đồng tu lúc bấy gời tỏ ra thất
vọng và đến vườn Nai để tu hành.
Sau khi Ngài thọ bát sửa do
thôn nữ Sujata cúng dường và tắm ở sông Ni Liên
Thuyền, Thái Tử ngồi dưới gốc cây PiPaLa,
sau này gọi là cây Bồ đề, một ḿnh
hướng tâm đến đạo được
giải thoát sinh tử, Ngài suy tư: “Ta biết trong khi
Phụ thân Ta, thuộc ḍng SAKha đang cày ruộng,Ta
đang ngồi dưới bóng cây mát, cây Diêm Phù Đề,
Ta ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và an trú
Thiền nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly
dục sinh, có tầm , có tứ”.Khi an an trú như vậy,Ta
nghĩ: “Đạo lộ này có thể đưa
đến giác ngộ chăng?, tiếp theo ư niệm
ấy, khởi lên nơi Ta, đây là đạo lộ
giải thoát”.
Từ
đây,Ngài an trú trong thiền định, chứng sơ
thiền,,nhị thiền,tam thiền,tứ
thiền,rồi sau 49 ngày đêm thiền định, vào
đêm cuối cùng chứng đượcTúc Mạng Minh,
Thiên Nhăn minh, lậu Tận Minh,: “Với tâm định
tĩnh thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm,
không phiền năo,nhu nhuyễn dễ sử dụng, vững
chắc b́nh tĩnh như vậy, Ta hướng tâm
đến Lậu Tận Trí, Ta biết như thật,
đây là Khổ Tập, Ta biết như thật, đây là
Khổ diệt, Ta biết như thật đây là con
đường đưa đến KHổ Diệt. Ta
biết như thật: Đây là các Lậu hoặc Tập.
Ta khởi biết như thật,. Đây là các Lậu
đă đoạn diệt, nhờ hiểu biết như
vậy tâm Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi
hữu lậu, thoát khỏi Vô Minh lậu. Đối
với tâm đă giải thoát như vậy, khở lên
sự hiểu biết. Ta đă giải thoát.Sinh đă
tận, Phạm hạnh đă thành, những việc nên làm
đă làm, không c̣n trở lui trạng thái nào nữa”.
Bằng sự nỗ lực tu tập thiền
định, phát triển trí tuệ, Ngài đă thành Chánh
Đẳng Chánh Giác, thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni
Phật.
3-* Sau khi thành
đạo, đức Phật an trú trong tĩnh lạc,
Niết bàn,ngồi dưới gốc cây Bồ Đề,
Ngài suy nghĩ: “Pháp này do Ta chứng được,
thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh,
cao thượng, vi diệu, chỉ người có trí
mới hiểu thấu.
C̣n quần chúng này ưa ái dục,ham thích khoái
lạc, thật khó mà thấy được lư duyên
khởi. Sự kiện này thật khó thấy, tức là
sự tịnh chỉ,,tất cả các hành, sự từ
bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham,đoạn
diệt Niết Bàn, nay Ta thuyết pháp cho các người
khác không hiểu Ta, th́ như vậy là khó cho Ta”. ĐứcPhật nhận ra
rằng: “Chúng sanh v́ nghiệp lực khác nhau. Có hạng chúng
sanh dễ dạy, có hạng chúng sanh khó dạy, có một
số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh ở
thế giới khác cùng sự nguy hiểm khi làm những
hành động lỗi lầm. Cũng như hoa sen xanh, hoa
sen trắng sinh ra trong nước, lớn lên trong
nước,nhưng có hoa sen chưa vượt lên khỏi
nước, có một số hoa sen đă vượt lên
khỏi mặt nước, tùy theo căn cơ của
mỗi chúng sanh, mà có thể
thuyết giảng giáo pháp tương ứng
để chứng ngộ giải thoát, Niết Bàn, Thế
là bánh xe Pháp được bắt đầu chuyển:
“Cửa bất tử rộng mở cho những ai từ
bỏ tín tâm không chính xác của ḿnh”.
Bài Pháp đầu tiên được đức
Phật giảng pháp là kinh chuyển pháp luân, đối
tượng nghe bài pháp này là năm người bạn
đồng tu khổ hạnh là A Nhă Trần Kiều
như, hiện đang ở vườn nai, Tuy nhiên
đức Phật có nghĩ đến hai người
thầy là A La ra ka Lam và Uất đầu Lam nhưng
cả hai đă từ trần. Trong
bài kinh này mở đầu đức Phật dạy
về con đường trung đạo, con
đường tránh xa hai cực đoan: -Ép xác khổ
hạnh và đam mê duc lạc:Ép xác khổ hạnh dẫn
đến mệt mỏi tâm trí, Đau đớn thể
xác. – Cực đoan mê dục lạc th́ trướng
ngại sự phát triển tâm linh, không sáng suốt. Con
đường trung đạo dẫn đến an
lạc, thanh tịnh c̣n
gọi là con dường Bát Chánh
Đạo có tám ngành:
1-* Chánh tri khiến: thấy biết như
thật các pháp là do duyên sinh vô ngă.
2-* Chánh tư duy: tư duy chân chánh các pháp là duyên
sinh, vô thường không có ngă.
3-* Chánh ngữ:Nói đúng sự thật hợp
với chánh pháp.
4-* Chánh nghiệp:Hành động chân chánh theo ư hướng
thực, thị thiện nghiệp.
5-*Chánh mạng:Nuôi dưỡng thân mạng
đúng chánh pháp.
6-* Chánh tinh tấn: Làm các điều thiện ,
đoạn tận bất thiện
7-* Chánh niệm: Nhớ nghĩ chân chánh
8-* Chánh định:Giữ tâm không tán loạn và
an trụ trong thiền định.
Như vậy là Bát Chánh đạo là con
đường an tịnh dẫn đến chứng
đạt trí tuệ thù thắng chấm dứt sanh
tử, thành tựu Niết Bàn mà hành giả nào cũng
phải đi qua.
Trong bài pháp đầu tiên đức Phật
cũng giới thiệu
về bốn sự thật c̣n gọi là Tứ Thánh
Đế : - Khổ đế là chân lư của sự
thật khổ đau
-
Tập Đế
là chân lư về các nguyên nhân dẫn đến khổ
đau.
-
Diệt Đế
là chân lư về sự diệt khổ.
-
Đạo
Đế là chân lư về con đường đoạn
tận khổ đau. Đường dáng nói là sau khi nghe
pháp đến bài thư hai có tên Kinh Vô Ngă Tướng. Diễn tŕnh về Vô ngă (không có
ta)
Năm
người đồng tu trước đây của
Phật được giác ngộ chứng A La Hán
Tại
đây: Trong thời khắc này ngôi Tam Bảo
được ra đời . Đây chính là cơ sở
để hướng đến thành lập giáo hội
Tăng Già đầu tiên thời đức Phật c̣n
tại thế
Hội chúng đầu tiên
của đức Phật được thiết lập
hội chúng Tăng Già xuất gia, có nhiệm vụ hàng
đầu là truyền trao giáo Pháp, đưa đạo vào
đời.
Hội chúng này gồm có Tỷ
kheo, tỷ kheo ni, sa di và thúc xoa,xoa di ni,. Chính đức
Phật thường xuyên khuyến khích các Tỷ kheo,
Tỷ kheo ni hăy đi khắp các mọi miền, từ nông
thôn đến thành thị, hễ nơi nào có người
sinh sống, th́ đời sống đạo phải h́nh
thành. Do đó,sau khi thời
gian ngắn chuyển pháp luân, Đức Phật đă có 60
đệ tử xuất gia chứng quả A La Hán. Đây cũng là đoàn Tăng
Sỹ dầu tiên, nhận nhiệm vụ hoằng pháp
độ sanh. Thuyết giảng giáo pháp: “ v́ lợi
lạc cho số đông, v́ hạnh phúc cho của số
đông. V́ ḷng nân mẫn với thế gian v́ lợi
lạc
Của
Chư Thiên và loài Người, các người hăy đi,
nhưng đừng đi hai người cùng một
hướng, hăy truyền bá đạo pháp này, này các Tỷ
kheo. Đạo pháp toàn thiện ở phần đầu.
Phần giữa cũng như phần cuối, cả trong
ư tứ và lời văn,hăy tuyên bố về cuộc Thánh
toàn thiện và thanh tịnh.
Sự kiện này khiến cho
công tác hoằng
dương chánh pháp phát triển
nhanh chóng. Sự thật là ngay khi đức Phật
khởi sướng, nhiều thành phần, đoàn thể
khác nhau đă được đức Phật giáo hóa và
xin xuất gia tu học trở thành tỳ kheo. Chẳng
hạn đi trên đường đến Ưu Nâu
Tần Loa. Trong lúc ngồi nghĩ tại gốc cây
Phật đă độ cho 30 thanh niên xuất gia học
đạo. Nguyên nhân đến với Phật Pháp là do
trong số họ có một vị dẫn kỹ nữ
đi cùng nhưng cô này đánh cắp tư trang rồi
bỏ trốn, cả đoàn đi t́m cô ta và gặp
Phật. Phật hỏi quư vị t́m kỹ nữ hay t́m
bản thân, họ trả lời rằng t́m thấy
bản thân là tốt hơn, Sau dó 30 thanh niên nghe Phật
thuyết pháp và phát tâm xuất gia.
Trường hợp Phật
độ cho Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cùng
hàng 100 học tṛ của họ cũng vậy. Chúng ta
biết Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là đôi
bạn thân. Do không thỏa măn các
triết thuyết đă tiếp nhận từ các
vị thầy trước nên quyết chí đi t́m thầy
học đạo. Sau khi được nghe Ala Hán Mă
Thắng nói vắn tắt về duyên khởi. Xá Lợi
Phất đă dắc qua tu Đà Hàm. Sau đó Ngài về bào
tin, cho Mục Kiền Liên Cả hai đều đến
yết kiến Phật.
Hội chúng thứ hai
được đức Phật thiết lập là
hội chúng tại gia. Hội chúng này gồm những nam
nữ cư sỹ, có vai tṛ quan trọng trong việc hộ
tŕ Chánh Pháp. V́ thế ngay từ buổi đầu khi bánh
xe Pháp vừa chuyển Phật đă độ cho Da Xá làm
đệ tử tại gia đầu tiên, sau đó là
Mẹ và vợ của Da Xá, theo thời gian số
lượng đệ tử
tại gia của Phật ngày
càng đông và tham gia tích cực cho việc hộ tŕ chánh
pháp.
Tiêu biểu là Cấp Cô
Độc Viên sau khi được nghe pháp do Thế Tôn
thuyết giảng, Ông đă chứng Sơ quả, Chính ông
đă mua khu vườn bẳng tiền vàng nát đầy
mặt đất theo yêu cầu của Thái tử Kỳ
Đà, tự ḿnh cúng hiến cho Phật để xây
Tịnh Xá Trúc Lâm làm nơi tu học và truyền bá Chánh pháp,
Phật và hội chúng đă an cư kết hạ tại
đây qua 19 mùa mưa. Trong những bài pháp giảng về hạnh
Bố thí, Phật dạy sự bố thí là có công
đức rất lớn. nhưng công đức lớn
hơn nữa là có công hành tŕ phụng thờ Tam Bảo,
sống theo giới hạnh, ban trải ḷng từ với
cái nh́n trí tuệ, đối với mọi người
hiểu như thật về các pháp: “Sự Cúng
dường cho Phật, Chư Tăng là công đức
lớn, nhưng có công đức lớn hơn nữa là
quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, có công đức lớn
hơn ba quy là tự ḿnh giữ năm giới; có công
đức lớn hơn giữ năm giới là Quán ḷng
từ trong giây phút, nhưng có được sự
hiểu biết sự thật như thật, hiểu
được tánh Vô Thường của sự vật là
công đức vô lượng.
Đức Phật rất quan
tâm, chú trong đến việc thiết lập hạnh phúc
và an lạc cho hàng cư sĩ tại gia, mỗi cá nhân,
từng gia đ́nh cụ thể, các vấn đề
cuộc sống, xă hội , các mối quan hệ xă hội
được đức Phật thuyết giảng
như; Thầy tṛ, vợ
chồng , cha mẹ, con cái, chủ tớ, và ngược
lại, thật tốt đẹp và gắn bó, Mục đích
cưới cùng là đem lại an lạc , hạnh phúc
thực sự của người phật tử. Ngoài ra
nữ cư sĩ đều là những người có công
đức hộ Pháp góp phần giáo hóa rất tích cực.
Đối với các vị vua
chúa cũng vậy vua Ba Tư Nặc cũng là một
đại thí chủ đối với Tăng Già thời
đức Phật, Vua cũng đứng ra xây cất Tu
viện cho Phật và Tăng an trú tu hành và hoằng Pháp.
Chính Phật vấn đề
nh́n nhận con người cần xem người đó có
trí tuệ, giới hạnh hay không? Không nên nh́n bằng h́nh
tướng người đó. Ngay cả các Tỳ kheo
trẻ cũng phải được đánh giá chính xác và
thận trọng, bởi v́ họ cũng đủ khả
năng thăng chứng.Đức Phật cũng dạy
cho vua có bốn hạng trẻ nhỏ không thể xem
thường. Sát Đế Lợi
trẻ
có thể làm viên tướng nắm lấy cả thiên hạ, con rắn nhỏ có
thể cắn chết người, ngọn lửa nhỏ
có thể thiêu cả cánh đồng lớn. Tỳ kheo
nhỏ có thể chứng ngộ giải thoát khi tinh
tấn học và hành tŕ Pháp.
Đối với phụ
vương Tịnh Phạn và hoàng tộc, đức
Phật đă thuyết giảng và giáo hóa họ trở
thành Phật tử thuần thành và chứng đặng
giải thoát. Sự kiện các vua chúa, Đại thần
trở thành Phật tử, hộ pháp sẽ làm tác nhân
thuận lợi cho việc
hoằng pháp độ sanh.
Cả tướng cướp
khét tiếng Vô Năo cũng được giáo hóa trở thành
bậc Thánh. Vô Năo là một hung thần đă giết và
chặt ngón tay được 999 người, c̣n thiếu
một ngón tay nữa là hoàn thành nhiệm vụ. Ông đă
tuốt gươm đuổi theo Thế Tôn để
chặt ngón tay cuối cùng nhằm tạo chuỗi ṿng 1000
ngón tay để đeo cổ, càng rượt đuổi
ông càng thất vọng, gọi Phật phải đứng
lại. Phật bảo Ta đă dừng từ lâu rồi,
chính ông phải dừng lại mới đúng. Ông hiểu,
và quăng dao, nguyện sống một đời sống
an tịnh theo giáo pháp của Như Lại đó.
Đề Bà Đạt Đa
đ̣i Phật giao quyền lănh đạo tối cao
Tăng già cho Ông. Dẫn đến hành động hăm
hại đức Phật, về sau cũng thức
tĩnh nhờ tấm ḷng từ vô hạn của Thế
Tôn. Như vậy, tùy theo căn cơ mà đức
Phật đă có bài Pháp thích
hợp, để chuyển hóa tâm thức giúp họ an trú
trong hạnh phúc, và giải thoát. Tâm nguyện của
Phật là khi nào chúng sanh c̣n khổ đau th́ Ngài c̣n
thuyết Pháp độ sanh. Ngay cả những ngày tháng
cuối cùng khi gần nhập Niết Bàn. Ngài c̣n độ cho Tu Bồ Đề
trở thành Tỳ Kheo là đệ tử cuối cùng
của Ngài.
4-*Trên
đường về đức Phật ngài tuyên bố rơ
c̣n ba tháng nữa Ta sẽ nhập Niết Bàn. Lúc ấy
Phật Ngài ở tuổi 80 biết ḿnh nhân duyên đă măn
gọi các Tỳ Kheo lại tịnh Xá Ma Ha Va Na để nghe Phật khuyến thị
các Pháp là Vô Thường, hăy sống tinh tấn tron g giới luật, an trú trong
Thiền Định, Thắp sáng tâm hồn bằng
ngọn đèn Trí Tuệ
Tiếp đến ở Pa Va
nhận việc thọ trai của nhà thợ rèn cư
sĩ Thuần Đà Ngài cũng dạy về công
đức Thuần Đà cúng dường bữa cơm cuối cùng cho
Phật. Nhờ vậy mà Thuần Đà được
thọ mạng lâu dài. Tái sanh cơi lành, có quyền lực
lớn. Đồng thời
Đức Phật cũng dạy A Nan chuẩn bị
chỗ cho Thế Tôn nằm tại Vườn Cây Sa La ,
Thế Tôn chỉ ra bốn điểm được xem
là bốn Thánh Tích để Phật Tử đảnh
lễ và chiêm bái:
1-*Nơi đức Phật
đản sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni
2-*Nơi đức Phật thành
đạo tại ở Bôdahy gàjà.
3-* Nơi đức Phật
chuyển pháp luân tại Vườn Nai
4-*Nơi đức Phật
nhập Niết Bàn ở Cu Si
Na Ra Sơ với ai có ḷng tịnh tín với Như Lai chiêm
bái, kính lễ, Phật Tích sẽ được nhiều
công đức thù thắng.
Trong giờ phút trước khi
nhập Niết Bàn Phật c̣n độ cho Tu sĩ Tu
Bạt Đà La (Subhadda) sau khi ba lần thỉnh cầu,
Phật hoan hỷ chấp nhận hoan hỷ và thuyết
về con đường tám gành. Chính thực hành con
đường này th́ bất cứ ai cũng có thể
thành bậc Thánh chứng
Tứ Quả Sa Môn . Tu Bạt Đà La hoan hỷ xin quy y Tam
Bảo và được đức Phật cho thọ kư
Tỳ Kheo giới, sau thời gian tu học tỳ kheo Tu
Bạt Đà La chứng Quả A La Hán. Đây là đệ
tử cuối cùng của Ngài được tiếp
nhận trước khi Phật Nhập Niết Bàn.
Điều quan trọng hơn
nữa là Phật c̣n tuyên bố những lời giáo
huấn cuối cùng liên hệ đến giáo hội Tăng Già sau khi Ngài
nhập diệt. Đây là cơ sở để Tăng
chúng sử lư và giải quyết vấn đề xoay quanh
việc duy tŕ mạng mạch Phật Pháp được
truyền thừa trong tinh thần lục ḥa. Thế nên
Phật bảo A Nan thông báo cho dân chúng Ấn Độ
biết Như Lai sẽ nhập Niết Bàn vào canh cuối
đêm nay tại tại rừng Sa La. Chính trong giờ phút
thiêng liêng đó Ngài dạy: “Có thể các ngươi nghĩ
rằng: chỉ c̣n lại giáo pháp cao cả mà không c̣n
bậc đạo sư nữa! ! KHông! Này A Nan các Ngài không
được nghĩ như vậy. Pháp và Luật mà Ta
đă dạy tuyên bố là bậc đạo Sư của
các người, sau khi Ta nhập Niết Bàn.”.
“Nếu có người nào
nữa c̣n nghi ngờ về Pháp Tăng hay về đường đạo, về
phương Pháp th́ hăy hỏi Ta, đừng để sau
này hối tiếc, nghĩ rằng đối diện
với Như Lai mà không hỏi được câu nào”.
Đại chúng im lặng,
Phật yêu cầu một người đại diện
Tăng chúng trả lời, A Nan đứng lên xác chứng:
“ Hy hữu thay! Thưa Thế Tôn trong hàng đệ tử
chúng con ở đây không có một người nào nghi
ngờ và thắc mắc với Phật Pháp Tăng con
đường đạo và Phương pháp”.
Phật dạy: “ Này A Nan nhà
ngươi nói về niềm tin đối với Như
Lai. Như Lai biết rơ trong chúng đệ tử có mặt
ở đây không có người nào c̣n thắc mắc
với Phật Pháp Tăng con đường và
phương pháp, trong chúng đệ tử này A Nan người
chứng quả thấp nhất cũng được
quả Dự Lưu, không c̣n thoát chuyển nữa, cuối
cùng chắc chắn cũng được Giác Ngộ”. “
Hỡi các tỳ kheo! Ta kích lệ các người, mọi
pháp hữu vi đều biến hoại, Hăy tích cực
chớ có phóng dật”.
Ngài an nhiên nhập Niết Bàn
“Kim thân” của Phật được đưa
đếnMa Ku Ta Ban dhana và sau bẩy ngày tổ chức hành
lễ “Trà tỳ” dưới
sự chỉ đạo của Tôn Giả Mahakassapa Xá
Lợi của Phật được chia làm Tám phần
để thờ :
1-*Đại Vương
Ajatasattu nước Magaha thỉnh phần Xá Lợi để xây tháp thờ.
2-*Bộ tộc Licchava ở
Vesafli .
3-*Bộ Tộc Sakya ở
Kapilavatthu.
4-*Bộ Tộc Buli ở
Allakappa.
5-*Bộ Tộc Kolija ở
Râmagama
6-*Bộ Tộc Bà La Môn ở
Vetshadipaka.
7-*Bộ Tộc Alla ở
Pàvà .
8--*Bộ Tộc Malla ở
Kuxinnara
Ngoài
ra Bà La Môn Donna người đứng ra phân chia Xá Lợi,
xin nhận cái b́nh dựng Xá Lợi, c̣n Bộ Tộc Moriga
xin tro và giàn để thờ như vậy “ Kim Thân”
của Phật sau khi hỏa táng được tôn tri
thờ trong 10 tháp trong đó có một tháp đựng xá
lợi, c̣n một tháp dùng b́nh để phân chia Xá Lợi,
Một tháp thờ tro và giàn .
TÓM
LẠI: Đạo Phật là đạo để
thấy, thấy để thực nghiệm hành tŕ, và
chứng ngộ quả vị Niết Bàn. Sự thật
ở Phật Thích Ca từ khi xuất gia học
đạo, thành đạo, thuyết giảng, nhập
Niết Bàn. Hành tŕ tự Tâm thân chứng Ngộ, không có
một ai, kể cả Thượng đế, không có
thần thánh nào chi phối cả. Sự thật mà Ngài
đă chứng ngộ chính là duyên sinh Vô ngă, Chính đức
Phật từng tuyên bố: “Ai thấy duyên khởi là
người đó thấy pháp, là người đó
thấy Như Lai”. Chính sự thật duyên sinh vô ngă này là nền tảng. Đặc
trưng hệ thống giáo lư đức Phật Đă tuyên
thuyết được kết tinh trong tam tạng kinh
điển. Nó chỉ ra con đường Giác Ngộ
được giáo hóa giáo dục, thực thi theo lư duyên sinh
Vô ngă mà không có bất kỳ một nền văn hóa giáo
dục nào được thiết lập theo lối tư duy hữu ngă
trước đó.
Cũng chính trên tinh thần này mà
Phật khuyến cáo mọi người hăy tự ḿnh
thắp đuốc lên mà đi,. Tự ḿnh làm ḥn
đảo cho chính ḿnh
để đi đến Giác Ngộ, điều đó
càng khẳng định Giác Ngộ và Giải Thoát là
một hành tŕnh thực nghiệm Tâm linh chỉ có cá nhân,
Tự ḿnh phải trải nghiệm và đi đến
cuối cùng là Giải Thoát Niết Bàn. Trên hết sự
duyên khởi c̣n quy định bản chất của
Tăng Già là ḥa hợp thanh tịnh. Mỗi người
phải biết hướng tâm, tự an trú trong tịch
tịnh, của Giới Định Tuệ để
trở thành vị Phật giữa cơi đời. Bất
luận là ai, thuộc giai cấp, thành phần nào trong xă
hội, họ đều có thể tham gia tu học, hành
đạo , giác ngộ như đức Phật
Chính sự thực này mà cuộc
đời hoằng Pháp của Như Lai sống măi trong
ḷng chúng ta, đơn giản v́ chúng ta là một vị
Phật sẽ thành, c̣n Như Lai là Phật Đă thành .
CÂU
HỎI
1/-
Tŕnh bày khái quát lịch sử
Thích Ca từ đản sanh đến thành đạo?
2/-
Tinh túy của giáo pháp được Phật giảng
dạy trong lần chuyển
pháp luân đầu tiên là ǵ
? Bạn hiểu thế nào là trung đạo và Tứ
Thánh đế ?
3/-
Chư vị Thánh Đệ Tử tiêu biểu trong hội
chúng xuất gia của Thế Tôn là những vị nao? Công
hạnh , tu tập và hoằng hóa của mỗi vị ra
sao?
4/-
Tŕnh bày công hạnh tu tập hộ tŕ chánh pháp của
những vị cư sĩ tiêu biểu trong thời kỳ
Phật tại thế?
5/-
Nêu địa điểm thời gian đức Phật
Niết Bàn ? Tứ Thánh Tích là những nơi nào? Trọng
tâm của những lời
giáo huấn trước khi Phật Niết Bàn Là ǵ ? ./.